|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
46-HĐBT
|
|
Loại văn bản:
|
Chỉ thị
|
Nơi ban hành:
|
Hội đồng Bộ trưởng
|
|
Người ký:
|
Võ Văn Kiệt
|
Ngày ban hành:
|
28/04/1989
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đã biết
|
|
Số công báo:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 46-HĐBT
|
Hà Nội, ngày 28
tháng 4 năm 1989
|
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC BẢO HỘ VÀ PHÁT TRIỂN HÀNG SẢN SUẤT TRONG NƯỚC
Trong
hơn hai năm qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và các chỉ thị, Nghị quyết của
Đảng và Chính phủ nhằm phát triển sản suất tập trung vào ba chương trình kinh tế
lớn; chuyển nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa; xác định quyền tự chủ của cơ sở sản xuất; thực hiện cơ
cấu kinh tế nhiều thành phần; gắn sản xuất với thị trường; gắn sản xuất trong
nước với mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại... nền kinh tế nói chung, sản xuất
công nghiệp nói riêng đã có bước phát triển nhất định.
Mặt khác, do mở rộng kinh tế đối
ngoại, việc giao lưu hàng hoá giữa nước ta với các nước láng giềng đã và đang
tăng lên nhanh chóng, do đổi mới chính sách nhập khẩu phi mậu dịch, hàng ngoại
đã và đang nhập về càng ngày càng nhiều.
Do đó, hàng hoá nói chung, đặc
biệt là hàng tiêu dùng trên thị trường thời gian gần đây đã tăng thêm về số lượng,
một số mặt hàng có khá hơn về chất lượng, phong phú hơn về chủng loại, kiểu
cách; quan hệ giữa cung và cầu trong nhiều loại mặt hàng đã bớt căng thẳng.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt
được đang nổi lên một số vấn đề cần chấn chỉnh, khắc phục.
Hàng công nhiệp sản xuất trong
nước, trong có hàng tiêu dùng tuy có được tăng thêm về số lượng, chủng loại
nhưng do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, nói chung vẫn còn xấu về
hình thức và độ bền, giá còn đắt. Sản xuất được "bung ra" nhưng quản
lý không chặt nên hàng giả lưu hành nhiều trên thị trường. Mặt khác trong những
chính sách cụ thể nhằm thực hiện chủ trương mở của còn có một số sơ hở và không
đồng bộ nên thời gian qua quá nhiều cửa khẩu xuất nhập được hình thành mà chưa
có cơ chế giám sát, quản lý thích hợp, đặc biệt là ở các tỉnh gần biên giới Tây
Nam. Do vậy hàng ngoại, từ nhiều nguồn, nhập về ngày càng nhiều, không được kiểm
soát chặt, không có chính sách thích đáng nên đã và đang cạnh tranh gay gắt, từng
bước đang lấn át hàng sản xuất trong nước, dẫn đến nhiều loại hàng sản xuất ra
rất khó tiêu thụ hoặc không tiêu thụ được, hàng ứ đọng tồn kho ngày càng nhiều,
ảnh hưởng lớn đến việc quay vòng vốn bảo đảm sản xuất kinh doanh bình thường của
nhiều cơ sở sản xuất.
Để khắc phục tình hình này, một
mặt phải có chính sách, biện pháp giúp đỡ, thúc đẩy sản xuất hàng công nghiệp
trong nước phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, hạ giá thành sản phẩm,
đáp ứng nhu cầu thị trường; mặt khác, bên cạnh việc tiếp tục thực hiện chính
sách mở rộng giao lưu với thị trường bên ngoài phải có chính sách, cơ chế bảo hộ
hàng sản xuất trong nước.
Để thực hiên được chủ trương
này, Hội đồng Bộ trưởng chỉ thị:
1. Các Bộ, Tổng
cục quản lý sản xuất các mặt hàng công nghiệp, trước hết là các mặt hàng trong
nước đã sản xuất được nhưng đang bị hàng ngoại lấn át, phải hướng dẫn, chỉ đạo,
giúp đỡ các cơ sở sắp xếp lại sản xuất, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện tăng
nhanh được sản lượng, chủng loại mặt hàng, cải tiến và nâng cao chất lượng, hạ
giá thành sản phẩm. Các cơ sở sản xuất phải rà soát lại dây chuyền công nghệ, sắp
xếp bố trí lại sản xuất cho phù hợp, đầu tư chiều sâu để đồng bộ hoá sản xuất,
từng bước đổi mới thiết bị và kỹ thuật, nâng cao tay nghề cho người lao động. Mặt
khác, phải tạo điều kiện để sản xuất thực sự gắn với thị trường, lấy nhu cầu và
thị hiếu của người tiêu dùng làm động lực thúc đẩy sản xuất phát triển cả về số
lượng và chất lượng. Cần thông qua hình thức hội thảo giữa các nhà sản xuất, giữa
nhà sản xuất với đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật để bàn bạc trao đổi kinh nghiệm,
hiến kế tìm ra những giải pháp tối ưu nhằm đạt được mục đích nói trên. Khuyến
khích cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở sản xuất cùng loại sản phẩm, không kể
thuộc thành phần kinh tế nào; mở rộng khả năng sản xuất ngày càng nhiều những sản
phẩm có chất lượng cao hơn, giá bán hạ hơn, được thị trường chấp nhận.
Mặt khác, các Bộ, Tổng cục quản
lý sản xuất công nghiệp phải phân loại, xác định ngay một số mặt hàng thuộc
ngành mình phụ trách, thời gian qua đã sản xuất ổn định với khối lượng lớn đủ đảm
bảo đáp ứng nhu cầu xã hội nhưng hiện đang bị hàng ngoại cạnh tranh về giá cả,
chất lượng nên có nguy cơ bị đình đốn, trong khi, với những điều kiện sản xuất
hiện có chưa thể sớm tạo ra chuyển biến đột xuất về năng suất, chất lượng giá
thành đủ sức cạnh tranh với hàng ngoại. Đối với những mặt hàng này, các Bộ, Tổng
cục quản lý sản xuất phải phối hợp với Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan và Uỷ
ban nhân dân các tỉnh có cửa khẩu biên giới bàn bạc thống nhất chủ trương, biện
pháp thích hợp nhằm bảo vệ hàng sản xuất trong nước (có thể ban hành những
thông tư liên Bộ, giữa Bộ với địa phương về vấn đề này) . Đặc biệt, đối với một
số mặt hàng loại này đang có nguy cơ đình đốn sớm do không cạnh tranh nổi với
hàng ngoại như phân lân, than, hàng chế tạo máy. . . có thể kiến nghị Nhà nước
có chính sách trợ giá để giúp đỡ sản xuất.
2. Bộ Công nghiệp
nhẹ, với chức năng quản lý Nhà nước nhiều ngành hàng công nghiệp, phối hợp với
Bộ Nội thương và các ngành có liên quan nghiên cứu trình Hội đồng Bộ trưởng ban
hành chính sách tiêu dùng trong những năm tới. Chính sách tiêu dùng phải quán triệt
các quan điểm cơ bản sau đây:
- Tiêu dùng phải phù hợp với khả
năng và điều kiện sản xuất trong nước, đồng thời sản xuất phải gắn với thị trường,
tìm hiểu và thấu đáo nhu cầu và thị hiếu của mọi đối tượng để vươn lên đáp ứng
ngày càng tốt hơn.
- Tiêu dùng tiết kiệm, coi đây vừa
là yêu cầu của phát triển kinh tế vừa là đạo đức của con người mới xã hội chủ
nghĩa. Việc tiết kiệm tiêu dùng phải được quán triệt trong mọi cấp, mọi ngành,
trong các tầng lớp nhân dân phải được thực hiện bằng chính sách phù hợp nhằm điều
tiết tiêu dùng theo phương hướng hợp lý, tiến bộ... Tiêu dùng tiết kiệm vừa tạo
điều kiện tăng cường tích luỹ, phát triển sản xuất vừa làm giảm bớt sự căng thẳng
giữa cung và cầu, góp phần ổn định thị trường, ổn định giá cả...
- Tiêu dùng tiến bộ, văn minh,
thể hiện trình độ văn hoá, kết hợp giữa truyền thống dân tộc với yêu cầu hiện đại,
văn minh, khắc phục tư tưởng đua đòi, chạy theo thị hiếu không lành mạnh; không
phù hợp với bản chất người Việt Nam, đồng thời tiếp thu chọn lọc những phương
thức tiêu dùng khoa học, tiện nghi, hợp lý nhằm hiện đại hoá tiêu dùng.
- Tiêu dùng phù hợp với kết quả
lao động. Người làm nhiều, có thu nhập cao được tiêu dùng nhiều, người làm ít,
thu nhập thấp thì tiêu dùng ít hơn. Cần phân biệt rõ và có biện pháp thoả đáng
giữa những người có thu nhập cao được tiêu dùng cao một cách hợp lý, chính đáng
với những đối tượng có thu nhập cao quá đáng do làm ăn phi pháp đang tiêu xài
hưởng thụ một cách vô lý những kết quả của người lao động.
3. Uỷ ban Khoa
học và kỹ thuật Nhà nước phối hợp với các Bộ, Tổng cục quản lý sản xuất công
nghiệp và các ngành liên quan khác nghiên cứu trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành
chính sách quốc gia về chất lượng sản phẩm. Rà soát lại để điều chỉnh, bổ sung
và hoàn chỉnh những tiêu chuẩn quốc gia đối với từng loại sản phẩm và đề ra những
biện pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ chất lượng sản phẩm hàng hoá đưa ra thị
trường trước hết là những sản phẩm thiết yếu đối với nhu cầu xã hội, những sản
phẩm liên quan trực tiếp đến sức khoẻ và sự an toàn của người sử dụng, những sản
phẩm xuất khẩu.
Các cơ sở sản xuất phải đăng ký
nhãn hiệu và chất lượng sản phẩm tại cơ quan đo lường và kiểm tra chất lượng sản
phẩm. Đối với những loại sản phẩm đòi hỏi có kỹ thuật cao, có giá trị lớn phải
có bảo hành thời gian sử dụng. Phải làm cho người sản xuất có ý thức bảo vệ
danh dự của cơ sở, của ngành và của dân tộc trong chất lượng sản phẩm; hạn chế
dần, tiến tới loại bỏ khỏi thị trường những sản phẩm có chất lượng xấu, nghiêm
khắc xử lý những người sản xuất và lưu thông hàng giả.
4. Bộ Kinh tế đối
ngoại với chức năng quản lý Nhà nước toàn bộ hoạt động xuất, nhập khẩu phải
vươn lên quản lý được cả những mặt hàng xuất nhập khẩu theo Nghị định thư và những
mặt hàng xuất nhập khẩu tiểu ngạch qua các cửa khẩu, phối hợp với Bộ Tài chính,
Bộ Nội thương và các Bộ, Tổng cục quản lý sản xuất công nghiệp và các Uỷ ban
nhân dân các tỉnh, thành phố có cửa khẩu nghiên cứu trình Hội đồng Bộ trưởng
ban hành chính sách đối với hàng tiêu dùng nhập khẩu theo nguyên tắc:
- Cho phép nhập khẩu những loại
hàng công nghiệp thuộc nhu cầu thiết yếu trong nước chưa sản xuất được, sản xuất
chưa đủ đáp ứng nhu cầu.
- Hạn chế hoặc không nhập những
loại hàng công nghiệp trong nước đã đủ đáp ứng nhu cầu xã hội về số lượng và chất
lượng phù hợp với điều kiện sản xuất và tiêu dùng của đại đa số nhân dân, những
mặt hàng xa xỉ.
- Ngăn cấm việc nhập khẩu những
mặt hàng tiêu dùng phục vụ thị hiếu không lành mạnh, lối sống sa đoạ, truỵ lạc,
mê tín, dị đoan.
Trước mắt, Bộ Kinh tế đối ngoại
phối hợp với các cơ quan Nhà nước có quản lý các Công ty xuất, nhập khẩu của Uỷ
ban nhân dân các tỉnh, thành phố có cửa khẩu xuất, nhập hàng hoá rà soát lại kế
hoạch, các đơn hàng xuất, nhập khẩu, giấy phép xuất nhập khẩu và phối hợp điều
tra nắm lại tình hình xuất, nhập khẩu ở các cửa khẩu xuất, nhập để tiến hành
phân loại những mặt hàng có thể cho nhập khẩu rộng rãi, những mặt hàng cần hạn
chế hoặc cấm nhập khẩu để triển khai thực hiện ngay trong năm 1989.
5. Bộ Nội
thương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và Tổng cục Hải quan đề ra những biện
pháp thiết thực, mạnh mẽ, kiên quyết nhằm quản lý tốt đựơc thị trường, ngăn chặn
các tuyến buôn lậu, những mặt hàng trốn thuế, những mặt hàng cấm nhập, những
hàng giả...
Trong tình hình hiện nay, tạm thời
cho phép lập một số trạm kiểm soát trên các tuyên đường chính từ các cửa khẩu
biên giới về các tỉnh đồng bằng và Thủ đô Hà Nội để thực hiện được nhiệm vụ
trên, nhưng tuyệt đối không được gây khó khăn, sách nhiễu đối với đi lại, buôn
bán bình thường của nhân dân.
6. Bộ Tài chính
phối hợp với các ngành có liên quan dựa trên cơ sở Pháp lệnh thuế xuất, nhập khẩu
bổ sung mới ban hành và thực tế thị trường hàng hoá trong nước hiện nay, rà
soát và hoàn chỉnh chính sách thuế đối với hàng công nghiệp nhập khẩu trong các
dự luật thuế mới. Dùng chính sách thuế để điều tiết số lượng, chủng loại và giá
cả đối với từng loại hàng công nghiệp nhập khẩu nhằm bảo vệ hàng sản xuất trong
nước và tăng thu cho ngân sách. Qua thực tế triển khai cần rút ra những điểm cần
kiến nghị Nhà nước bổ sung, điều chỉnh chính sách thuế xuất, nhập khẩu hiện
hành, nếu thấy cần thiết.
Trước mắt, Bộ Tài chính phối hợp
với Tổng cục Hải quan thống nhất các hình thức, biện pháp bảo đảm thực hiện tốt
việc thu thuế đúng chính sách đối với các loại hàng nhập khẩu. Nghiên cứu sử dụng
nhiều hình thức thu thuế khác nhau nhằm đảm bảo chống thất thu đối với các loại
hàng nhập. Đối với một số mặt hàng có thể sử dụng hình thức thuế tem, với những
mặt hàng này, chỉ khi đã có dán tem thuế mới được phép lưu hành trên thị trường.
7. Uỷ ban nhân
dân các tỉnh biên giới và cửa khẩu cần phối hợp chặt chẽ với Tổng cục Hải quan,
Bộ Nội vụ và Bộ Kinh tế đối ngoại có kế hoạch và biện pháp kiểm tra, giám sát
chặt chẽ việc xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu, ngăn chặn có hiệu quả các tuyến
buôn lậu và thực hiện đúng đắn chính sách của Nhà nước đối với hàng xuất, nhập
khẩu tiểu ngạch qua biên giới theo tinh thần các chỉ thị đã ban hành của Ban Bí
thư và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
8. Bảo hộ và
phát triển hàng sản xuất trong nước vừa là chủ trương của Đảng, là chính sách lớn
của Nhà nước, vừa là cuộc vận động lớn trong nhân dân cả nước nhằm tạo điều kiện
cho sản xuất trong nước phát triển nhanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của
toàn xã hội. Do vậy, ngoài những cơ quan, ngành đã được giao nhiệm vụ cụ thể
trong chỉ thị, tất cả các ngành, các địa phương, các đoàn thể quần chúng, tuỳ
theo phạm vi chức năng của mình đều có nhiệm vụ thực hiện.
9. Bộ trưởng
các Bộ, Chủ nhiệm các Uỷ ban Nhà nước, thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng
Bộ trưởng, các đoàn thể quần chúng và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành
phố và đặc khu trực thuộc Trung ương có trách nhiệm thi hành Chỉ thị này.
Chỉ thị 46-HĐBT năm 1989 về việc bảo hộ và phát triển hàng sản xuất trong nước do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Chỉ thị 46-HĐBT ngày 28/04/1989 về việc bảo hộ và phát triển hàng sản xuất trong nước do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
5.582
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|