PHỦ
THỦ TƯỚNG
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
366-TTg
|
Hà
Nội, ngày 16 tháng 08 năm 1957
|
CHỈ
THỊ
VỀ CÔNG TÁC CỦNG CỐ NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH
Hiện nay, miền Bắc có 16 nông trường
quốc doanh, chiếm một diện tích 54.240 écta, trong đó dất đã khai hoang và trồng
trọt độ 6.044 écta, với 8.523 công nhân, cán bộ và 371 máy móc các loại. Đó là
cơ sở kinh doanh nông nghiệp đầu tiên của Nhà nước.
Trong việc thực hiện kế hoạch
Nhà nước năm 1956, các nông trường quốc doanh đã thu được một số kết quả về các
mặt sản xuất, xây dựng cơ bản, đào tạo cán bộ, công nhân và rút được một số
kinh nghiệm ; nhưng đã phạm nhiều khuyết điểm và gây nhiều thiệt hại: kế hoạch
không thực hiện được, sản lượng thấp, phẩm chất xấu, giá thành cao, lãng phí
nhiều, thua lỗ lớn. Do đó các nông trường quốc doanh chưa làm được nhiệm vụ
gương mẫu đối với nông dân và đã gây ảnh hưởng chính trị không tốt.
Nguyên nhân của tình trạng đó có
phần do điều kiện khách quan như đất đai, thời tiết không thuận lợi ... nhưng
phần chính là do những khuyết điểm lớn về mặt chủ quan:
Cấp trên và cấp dưới, cán bộ và
công nhân đều chưa nhận đúng tính chất, nhiệm vụ và vai trò trọng yếu của nông
trường quốc doanh trong nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ quá độ chuyển dần
lên chủ nghĩa xã hội. Do đó: về lãnh đạo thì chậm đề ra chủ trương, chính sách,
chế độ, kế hoạch nhằm xây dựng và quản lý nông trường, quốc doanh về mọi mặt,
thiếu kiểm tra đôn đốc, không kịp thời nắm tính hình để uốn nắn và sửa chữa những
sai lệch trong việc xây dựng và quản lý nông trường quốc doanh. Về cán bộ và
công nhân ở nông trường thì đại bộ phận chưa rõ trách nhiệm của mình, chưa an
tâm sản xuất và công tác, ngại khó, ngại khổ, lo lắng tiền đồ cá nhân, suy bì
đãi ngộ, ỷ lại vào sự cung cấp của Chính phủ v.v... thậm chí có một số không muốn
làm việc, bất chấp tổ chức, coi thường kỷ luật lao động, coi thưòng pháp luật
Nhà nước như đi muộn về sớm, ở không ăn lương, lấy của công để dùng riêng, nghỉ
phép quá hạn, bất mãn nắm ý, gây bè phái, đánh lộn hoặc tự tiện vác ba-lô về Sở,
về Bộ ... Từ trên xuống dưới đều ham làm to, làm nhanh, làm nhiều, làm quá sức,
ỷ lại vào máy móc, không xuất phát từ khả năng thực tế của cán bộ và công nhân
; những khuyết điểm này biểu hiện rõ rệt trong kế hoạch năm 1956 về khai hoang,
sản xuất, sử dụng nhân lực, tài lực ... của các nông trường quốc doanh. Tác
phong quan liêu, mệnh lệnh gò ép rất phổ biến và trầm trọng.
Ngoài ra, từ trên xuống dưới
trình độ quản lý và kỹ thuật non kém, thiếu kinh nghiệm, để xảy ra nhiều lãng
phí và tham ô, nhất là lãng phí.
Để khắc phục những khuyết điểm kể
trên nhằm củng cố các nông trường quốc doanh, cần làm những việc sau đây:
Xác định tính chất, nhiệm vụ của
nông trường quốc doanh và nhiệm vụ phương châm củng cố nông trường quốc doanh.
Tăng cường giáo dục đi đôi với củng
cố lực lượng công nhân.
Cải tiến quản lý kinh doanh, thực
hiện dần chế độ hạch toán kinh tế.
Nghiên cứu và quy định các chế độ
lao động, tiền lương, phúc lợi ... cho các nông trường quốc doanh.
Củng cố tổ chức và quy định chế
độ trách nhiệm chỉ đạo của các cấp đối với nông trường quốc doanh.
I – XÁC ĐỊNH
TÍNH CHẤT, NHIỆM VỤ CỦA NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH VÀ NHIỆM VỤ, PHƯƠNG CHÂM CỦNG CỐ
NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH MÀ ĐẢNG VÀ CHÍNH PHỦ ĐÃ ĐỀ RA TRONG NĂM 1957
Nông trường quốc doanh là hình
thức tổ chức kinh tế tiến bộ nhất trong nền nông nghịêp xã hội chủ nghĩa. Đối với
nước ta hiện nay, đang ở trong thời kỳ quá độ tiến dần từng bước lên chủ nghĩa
xã hội, nông trường quốc doanh có tác dụng gương mẫu trong việc cải tạo nền
kinh tế tiểu nông theo phương hướng xã hội chủ nghĩa. Vì tính chất quan trọng ấy,
nông trường quốc doanh có những nhiệm vụ chủ yếu dưới đây:
1) Tập trung sản xuất một số sản
phẩm chính cần thiết cho Nhà nước, chủ yếu là cây công nghiệp và chăn nuôi.
Nhưng tùy theo điều kiện đất đai và khả năng quản lý của nông trường quốc
doanh, có thể trồng thêm những cây lương thực thích hợp như lúa, ngô, khoai ...
2) Tích lũy kinh nghiệm, đào tạo
cán bộ, áp dụng kỹ thuật tiên tiến về nông nghiệp, phát huy tính chất ưu việt của
nông trường quốc doanh về các mặt sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống để
làm gương mẫu, động viên, tổ chức và hướng dẫn nông dân tham gia phong trào hợp
tác hóa nông nghiệp.
3) Kinh doanh có lãi, tích lũy vốn
cho Nhà nước.
Tuy nhiên, do điều kiện của nền
kinh tế nước ta và khả năng quản lý, tổ chức, trình độ kỹ thuật của cơ quan phụ
trách và cán bộ trong năm nay, chúng ta chưa thể phát triển nhanh chóng nông trường
quốc doanh. Nhiệm vụ chính hiện nay là duy trì và củng cố các nông trường quốc
doanh hiện có, rút kinh nghiệm, đào tạo cán bộ, chuẩn bị điều kiện, dần dần
phát triển trong những năm sắp tới.
Để thực hiện nhiệm vụ chính ấy,
cần chú ý:
Làm từng bước, chắc chắn, làm
tốt, từ nhỏ đến lớn: kết hợp dùng nông cụ cải tiến với dùng máy móc và tiến dần
lên.
Chống xu hướng làm to, làm
nhanh, cơ giới hóa ngay trong bước đầu, đồng thời chống xu hướng tiêu cực, bảo
thủ, giật lùi muốn thu hẹp các nông trường quốc doanh.
Lãnh đạo phải toàn diện,
nhưng phải có trọng tâm, có kế hoạch, có chính sách cụ thể, kịp thời tổng kết
và phổ biến kinh nghiệm.
Lãnh đạo sản xuất phải đi đôi
với thực hiện tiết kiệm, dần dần thực hiện chế độ hạch toán kinh tế nhằm tăng
năng suất, nâng cao phẩm chất, hạ giá thành, bảo đảm kinh doanh có lãi, chống
lãng phí và tham ô, nhất là lãng phí.
II – TĂNG CƯỜNG
CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐI ĐÔI VỚI CÔNG TÁC CỦNG CỐ LỰC LƯỢNG CÔNG NHÂN VÀ CÁN BỘ.
Để củng cố các nông trường quốc
doanh, cần tăng cường công tác giáo dục tư tưởng cho cán bộ và công nhân ; làm
cho mọi người thấy rõ vai trò chủ nhân của mình, thấy rõ nhiệm vụ và tiền đồ của
mình gắn liền với sự nghiệp củng cố và phát triển những cơ sở đầu tiên của nền
nông nghiệp xã hội chủ nghĩa ; do đó mà nâng cao ý thức trách nhiệm, ý thức tổ
chức và kỷ luật ; tinh thần đoàn kết vượt mọi khó khăn, ra sức lao động sản xuất,
công tác, cải tiến kỹ thuật, phát huy sáng kiến, thực hiện tiết kiệm, bảo đảm
hoàn thành tốt kế hoạch Nhà nước năm 1957 cũng như các kế hoạch sau này.
Đi đôi với công tác giáo dục, cần
phải ổn định tổ chức của công nhân và cán bộ để tăng cường lực lượng sản xuất của
các nông trường quốc doanh. Cần giải quyết hợp lý công tác cho những người đau ốm
kinh niên, kém sức khỏe, những người không có khả năng công tác ở công trường
quốc doanh. Cần tập hợp và giáo dục những người không chịu làm việc để họ tự
giác tự nguyện xin trở lại làm việc ; những người muốn đi làm ở nơi khác thì phải
đưa ra ngoài biên chế của nông trường quốc doanh. Đối với một số ít người có
thái độ ngang bướng, đã được nhiều lần giáo dục mà vẫn cố tình không chịu sửa
chữa thì cần thi hành kỷ luật nhằm giáo dục họ và giáo dục người khác. Việc này
phải làm một cách thận trọng và kiên quyết.
Ngoài ra, từ nay trở đi việc tuyển
mộ công nhân vào các nông trường quốc doanh phải dựa vào sự cần thiết sản xuất
của nông trường quốc doanh, đồng thời phải lựa chọn rất kỹ, chỉ nhận những người
khỏe, tốt, tình nguyện làm việc theo quy chế của nông trường quốc doanh. Phải
chấm dứt việc lấy dân công làm việc cho các nông trường quốc doanh. Trường hợp
đặc biệt cần thuê mượn công nhân trong những ngày mùa, thì phải tính toán cẩn
thận và sử dụng hợp lý, hết sức tránh lãng phí.
III - CẢI TIẾN
QUẢN LÝ KINH DOANH, THỰC HIỆN DẦN CHẾ ĐỘ HẠCH TOÁN KINH TẾ.
Phải tiến hành nghiên cứu lập kế
hoạch toàn diện của từng nông trường quốc doanh, định rõ phương hướng lâu dài
và nhiệm vụ trước mắt của mỗi nông trường quốc doanh.
Phải quản lý tài vụ một cách
nghiêm ngặt, kiểm kê lại tài sản, định rõ các chế độ, hạn chế và giảm bớt những
chi tiêu không cần thiết cho sản xuất. Việc kiến thiết cơ bản phải làm dần dần
và chắc chắn theo nhu cầu của sản xuất và kế hoạch của nông trường quốc doanh.
Cần sử dụng hợp lý số máy móc hiện có, kết hợp với việc sử dụng những nông cụ cải
tiến, đồng thời bảo quản tốt những máy móc chưa dùng đến.
Phải hết sức coi trọng công tác
làm kế hoạch và thống kê. Phải điều tra, nghiên cứu, nắm vững tình hình, tổ chức
và huy động lực lượng công nhân và cán bộ để xây dựng và thực hành kế hoạch sản
xuất của nông trường quốc doanh.
IV – NGHIÊN CỨU
VÀ QUY ĐỊNH CÁC CHẾ ĐỘ LAO ĐỘNG TIỀN LƯƠNG, PHÚC LỢI ... CHO NÔNG TRƯỜNG QUỐC
DOANH
Nông trường quốc doanh là xí
nghiệp của Nhà nước, đảm bảo kinh doanh có lãi như các xí nghiệp quốc doanh
khác. Đồng thời nông trường quốc doanh là cơ sở sản xuất nông nghiệp có thời vụ
và phụ thuộc vào thiên nhiên. Cho nên, cần căn cứ vào đặc điểm và tính chất
doanh nghịêp của nó mà nghiên cứu quy định các chế độ lao động, tiền lương,
phúc lợi ... cho thích hợp.
Cần quy định rõ tiêu chuẩn lao động,
chế độ trách nhiệm của từng đơn vị, từng cá nhân, phân công giao việc cho từng
toán, từng tổ, từng người phục trách sản xuất, giữ gìn tài sản, sử dụng máy móc
... Đơn vị, cá nhân nào làm tốt thì được khen thưởng, làm không tốt thì phải chịu
trách nhiệm trước nông trường quốc doanh, nếu vì sơ xuất mà làm hư hỏng hay mất
mát tài sản, dụng cụ thì phải bồi thường thích đáng. nếu phạm lỗi nặng, có thể
bị thi hành kỹ luật.
Cần nghiên cứu lại chế độ tiền
lương để khuyến khích sản xuất, chống những hiện tượng người không làm việc
cũng hưởng lương như người làm việc. Phải thực hiện dần dần chế độ lương khoán,
chế độ ngày lao động, theo nguyên tắc: làm nhiều hưởng nhiều, làm tít hưởng ít,
không làm không hưởng. Trong lúc đầu, vì chưa giáo dục đầy đủ về mặt tư tưởng
cho công nhân và cán bộ, chưa quy định được tiêu chuẩn lao động và mức sản xuất,
thì có thể trả lương tháng cho công nhân tính theo tiêu chuẩn lao động nhất định,
đồng thời thực hiện chế độ thưởng tăng năng suất. Tuy nhiên, đối với một số
công việc có điều kiện khoán được, thì áp dụng chế độ làm khoán.
Thời giờ làm việc của nông trường
quốc doanh không nhất thiết theo đúng chế độ ngày làm 8 giờ như trong công xưởng
và cơ quan, mà có thể làm hơn, nhất là trong những lúc cần tranh thủ làm kịp thời
vụ và đối với một số công tác nhất định như chăn nuôi ... Việc nghỉ ngày chủ nhật
cũng cần nghiên cứu lại cho thích hợp với điều kiện sản xuất của nông trường quốc
doanh.
Phải chú ý chăm lo đời sống của
công nhân, nhất là ở những vùng nước độc và đối với anh chị em miền Nam
chưa quen khí hậu. Phải ra sức cải thiện đời sống nhưng phải lấy tự lực cải thiện
làm chính (trồng rau, nuôi súc vật, thực hiện vệ sinh phòng bệnh, cải tiến cách
nấu nướng, mua bán thực phẩm v.v...) theo nguyên tắc không lạm dụng nhân, tài,
vật lực của nông trường quốc doanh. Phải thi hành dùng các chế độ đã ban hành,
nhưng không áp dụng máy móc mọi chế độ chỉ thích hợp với cơ quan hànhchính. Cần
nghiên cứu để hủy bỏ hoặc sửa chữa một số chế độ xét ra không thích hợp với chế
độ hạch toán kinh tế của nông trường quốc doanh như tiêu chuẩn cấp dưỡng, một
tháng nghỉ 9 ngày vẫn được lĩnh đủ lương ...
V. CỦNG CỐ TỔ CHỨC , QUY ĐỊNH TRÁCH
NHIỆM CHỈ ĐẠO CỦA CÁC CẤP ĐỐI VỚI NÔNG TRƯỜNG QUỐC DOANH
Hiện nay, bộ máy chỉ đạo nông
trường quốc doanh còn yếu, việc phân công phân nhiệm chưa rõ ràng, các tổ chức
Đảng, công đoàn, thanh niên, phụ nữ, các bộ phận chuyên môn đều còn yếu. Vì vậy,
cùng với việc chấn chỉnh bộ máy chỉ đạo của Sở, của các Ban quản đốc và các khu
vực trong nông trường quốc doanh phải chú ý chấn chỉnh các tổ chức Đảng, các tổ
chức công đoàn, thanh niên, phụ nữ…Việc chấn chỉnh bộ máy chỉ đạo của Sở, của
các Ban quản đốc và các khu vực trong nông trường quốc doanh cần tiến hành theo
tinh thần tinh giảm, điều cán bộ quá thừa ở trên bổ sung cho bên dưới, nhất là
về cán bộ kỹ thuật. Đồng thời quy định chế độ trách nhiệm và đặt sự liên hệ chặt
chẽ từ trên xuống dưới.
Nhiệm vụ chính của Bộ Nông lâm
và Sở Quốc Doanh nông nghiệp là chỉ đạo xây dựng và quản lý các nông trường quốc
doanh về mọi mặt: quản lý sản xuất, kinh doanh, tài vụ, quản lý cán bộ, công
nhân, quản lý kỹ thuật, máy móc; thực hiện các chính sách, kế hoạch, tiêu chuẩn,
chế độ; đào tạo cán bộ, công nhân về kỹ thuật và nghiệp vụ … Trong khi làm nhiệm
vụ ấy, Bộ Nông lâm và Sở Quốc doanh nông nghiệp phải liên hệ chặt chẽ với
các Ủy ban Hành chính địa phương và các Ban quản đốc nông trường quốc doanh để
nắm tình hình tư tưởng, tình hình tổ chức và tình hình kinh doanh ở các nông
trường quốc doanh.
Cộng với việc chỉ đạo xây dựng
và quản lý các nông trường quốc doanh nói chung. Bộ Nông lâm và Sở Quốc doanh
nông nghiệp cần tập trung chỉ đạo riêng một hai nông trường quốc doanh quan trọng
để rút kinh nghiệm.
Trách nhiệm của các Ủy ban Hành
chính địa phương đối với nông trường quốc doanh sẽ được quy định trong chế độ
phân cấp quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhưng trước tình hình nông trường quốc
doanh hiện nay có nhiều vấn đề khó khăn và phức tạp, các Ủy ban Hành
chính địa phương có nhiệm vụ khẩn cấp là phải phối hợp với Bộ Nông lâm và Sở Quốc
doanh nông nghiệp để củng cố các nông trường quốc doanh theo nhiệm vụ,
phương châm đề ra trên đây.
Đối với các Ban quản đốc
còn yếu, cần thay đổi người kém, không đủ sức, cần bổ sung thêm
những cán bộ biết sản xuất, có trình độ chính trị, có khả năng và
kinh nghiệm công tác, bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, phương châm xây dựng
và quản lý nông trường quốc doanh và kế hoạch sản xuất. Cần có sự
phân định rõ ràng trách nhiệm cho từng cán bộ trong Ban quản đốc,
đồng thời giảm nhẹ bộ phận văn thư, bộ phận gián tiếp sản
xuất, để tăng cường cho các khu vực, các toán sản xuất.
Tình hình nông trường quốc
doanh hiện nay chưa ổn định công tác củng cố các nông trường quốc doanh
còn nhiều khó khăn đòi hỏi có sự lãnh đạo chặt chẽ từ trên xuống
dưới. Nhận được chỉ thị này, Bộ Nông lâm cùng các Bộ, các ngành có
liên quan và các Ủy ban Hành chính khu, tỉnh có nông trường quốc doanh,
cần nghiên cứu kỹ đặt kế hoạch thi hành và báo cáo kết quả về Thủ
tướng phủ.
|
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Phạm Văn Đồng
|