CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 147-CT
|
Hà Nội, ngày 30
tháng 5 năm 1989
|
CHỈ THỊ
VỀ
VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC NGHỊ ĐỊNH SỐ 27-HĐBT, SỐ 28-HĐBT
NGÀY 22-3-1989 VÀ QUYẾT ĐỊNH SỐ 38-HĐBT NGÀY 1O-4-1989 CỦA HỘI ĐỒNG
BỘ TRƯỞNG
Tiếp tục đổi mới một
cách đồng bộ về quản lý kinh tế theo đường lối Đại hội VI của Đảng, Hội đồng Bộ
trưởng mới ban hành các Nghị định số 27- HĐBT, số 28-HĐBT về Điều lệ liên hiệp
xí nghiệp quốc doanh ( sau đây gọi tắt là liên hiệp ) và Điều lệ xí nghiệp liên
doanh, Quyết định số 38-HĐBT ngày 1O-4-1989 về liên kết kinh tế trong sản xuất,
lưu thông và dịch vụ. Đây là những chính sách quan trọng của Nhà nước nhằm phát
huy những ưu điểm, uốn nắn những sai lệch đưa việc tổ chức các Liên hiệp xí
nghiệp quốc doanh, xí nghiệp liên doanh, các quan hệ liên kết kinh tế phát triển
đúng hướng, đáp ứng những đòi hỏi đang đặt ra trong nền kinh tế, đem lại hiệu
quả kinh tế thiết thực. Thực tế cuộc sống những năm qua và hiện nay cho thấy việc
tổ chức hệ thống các Liên hiệp xí nghiệp quốc doanh theo lối sắp xếp hành
chính, việc ra đời hàng loạt các tổ chức liên doanh, liên kết kinh tế một cách
tự phát, bên cạnh mặt tích cực đồng thời nẩy sinh nhiều bất hợp lý, có tác động
tiêu cực trong nền kinh tế quốc dân. Việc tổ chức các Liên hiệp, Tổng công ty nặng
về quy mô, hình thức, thêm khâu, cấp trung gian, không tính toán đầy đủ hiệu quả
kinh tế; các quan hệ liên doanh, liên kết thường chủ yếu trong lưu thông hàng
hoá, dẫn đến tình trạng mua đi bán lại vòng vèo để thu chênh lệch giá, chiếm dụng
vốn lẫn nhau và vốn ngân sách Nhà nước...
Trước tình hình đó, nhằm thực hiện
tốt những quy định mới trên đây của Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng chỉ
thị:
1. Mở đợt tuyên truyền sâu rộng
nhằm làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước các cấp, các tổ chức kinh tế và dư luận
rộng rãi nhận rõ mục đích, ý nghĩa của việc ban hành những chính sách mới của
Nhà nước về các mô hình hợp pháp của các tổ chức liên hiệp, liên doanh, liên kết
kinh tế, về sự đổi mới chức năng và nội dung quản lý Nhà nước của các Bộ và các
Uỷ ban Nhân dân đạ phương, về những nội dung chủ yếu cần quán triệt và những
công việc các ngành, các cấp và các tổ chức kinh tế phải tiến hành thực hiện.
Đợt tuyên truyền này tiến hành tập
trung trong vòng một tháng bắt đầu từ ngày 1-6 đến ngày 3O-6-1989 với những
công việc chính sau đây:
- Đăng các Nghị định số 27-HĐBT,
số 28-HĐBT và Quyết định số 38-HĐBT trên các báo hàng ngày, trước hết là báo
Nhân dân, Quân đội nhân dân, Hà Nội mới, Sài Gòn giải phóng, các tạp chí kinh tế,
tuyên truyền...
- Giới thiệu nội dung chính trên
Đài Truyền hình, Đài Tiếng nói Việt nam;
- Tổ chức các cuộc họp giới thiệu;
- Xuất bản thành sách gồm các
Nghị định, Quyết định, Chỉ thị này và các tài liệu liên quan làm tài liệu sử dụng
rộng rãi. Nhà xuất bản Sự thật có trách nhiệm in và phát hành kịp thời những
tài liệu nói trên;
- Tổ chức Hội nghị cả nước vào đầu
tháng 6 năm 1989 để phổ biến nội dung cơ bản của các Nghị định số 27- HĐBT, số
28- HĐBT và Quyết định số 38-HĐBT và bàn kế hoạch triển khai thực hiện.
Trong quá trình thực hiện, thường
xuyên giới thiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng những mô hình, nhân tố
mới, những kết quả, kinh nghiệm thực hiện ở các ngành, các cấp và các tổ chức
kinh tế.
2. Các Bộ quản lý ngành và Uỷ
ban Nhân dân các cấp có các tổ chức liên hiệp, liên doanh, liên kết kinh tế phải
lập và thực hiện chương trình, kế hoạch triển khai thực hiện các Nghị định và
Quyết định nói trên ở ngành, cấp cơ sở mình với những nội dung công việc và các
bước tiến hành cụ thể về:
-Tổ chức phổ biến, học tập và
quán triệt những quy định mới của Hội đồng Bộ trưởng những thông tư hướng dẫn của
các Bộ tổng hợp.
- Tổ chức tổng kết, đánh giá
tình hình hoạt động và tác dụng tích cực, hạn chế của các tổ chức liên hiệp,
liên doanh, liên kết kinh tế trong ngành và địa phương, đánh giá sự chỉ đạo, quản
lý của Bộ đối với các tổ chức liên hiệp trên cơ sở liên hệ với những quy định mới
của Nhà nước để có chủ trương, biện pháp củng cố, đăng ký lại, tổ chức lại cho
phù hợp. Trong đó:
a) Đối với Liên hiệp xí nghiệp
quốc doanh bao gồm các Tổng Công ty và các tổ chức tương đương. Việc tổng kết,
đánh giá và tổ chức lại các liên hiệp sẽ tiến hành qua 2 bước:
Bước 1: Từ tháng 6 đến hết tháng
9 năm 1989. Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo điểm đối với một Bộ và một tỉnh (thành
phố ) mỗi nơi từ 1 đến 2 liên hiệp.
Mỗi Bộ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh
(thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương) chỉ đạo điểm từ 1 đến 2 liên hiệp của
ngành và địa phương.
Bước 2: Từ đầu tháng 1O đến hết
năm 1989, trên cơ sở kết quả và kinh nghiệm rút ra từ bước 1, các Bộ và Uỷ ban
Nhân dân các tỉnh chỉ đạo làm đối với tất cả các liên hiệp còn lại.
Nội dung công việc và trình tự
thực hiện:
- Việc tổng kết, đánh giá mỗi
Liên hiệp phải do Tổng Giám đốc Liên hiệp chủ động tiến hành, có sự tham gia của
Giám đốc tất cả các xí nghiệp thành viên, dưới sự chỉ đạo của Bộ quản lý ngành
(Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh đối với liên hiệp trực thuộc địa phương) và sự hướng
dẫn của các Bộ tổng hợp.
- Nội dung đánh giá. Tổng kết
đánh giá thực tiễn hoạt động của liên hiệp về những mặt chủ yếu như việc tổng kết
trên cơ sở thực tiễn của mỗi Liên hiệp và đối chiếu với các quy định nói trong
Nghị định lần này, rút ra những tác dụng tích cực của Liên hiệp đến sự hình
thành, củng cố và phát triển ngành kinh tế - kỹ thuật, kết hợp với kinh doanh tổng
hợp; kết quả tập trung hoá, chuyên môn hoá, phân công, hiệp tác sản xuất kinh
doanh; nghiên cứu, ứng dụng khoa học - kỹ thuật; tạo nguồn nguyên liệu; đào tạo
bồi dưỡng công nhân, cán bộ; kinh nghiệm về đổi mới tổ chức sản xuất, tổ chức
và cơ chế quản lý; hiệu quả sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp thành viên và
toàn Liên hiệp; mối quan hệ trong quản lý và sản xuất kinh doanh giữa Liên hiệp
với các xí nghiệp thành viên, trong công tác giữa Liên hiệp với cơ quan quản lý
cấp trên; những mặt hạn chế những mâu thuẫn và những vấn đề mới đặt ra về tính
chất, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Liên hiệp, mối quan hệ giữa
Liên hiệp với các xí nghiệp thành viên và với Bộ quản lý ngành ( Uỷ ban Nhân
dân ). Điều quan trọng nhất là xem xét sự tồn tại của Liên hiệp có ích lợi gì
thiết thực đối với hoạt động của các xí nghiệp thành viên và với nền kinh tế quốc
dân? Cần rút ra kết luận chung là Liên hiệp còn cần tồn tại hay phải chuyển
sang hình thức tổ chức khác hoặc giải thể.
Kết luận này phải được Hội nghị
Giám đốc các xí nghiệp thành viên thảo luận ký và có biểu quyết.
Căn cứ kết luận của Hội nghị
giám đốc, Bộ trưởng quản lý ngành (Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh với liên
hiệp địa phương ) đề ra những chủ trương , biện pháp hướng dẫn tổ chức lại đói
với các Liên hiệp thấy cần thiết tồn tại và đi vào hoạt dộng theo điều lệ mới;
đối với những Liên hiệp đã kết luận không còn cần thiết thì có chủ trương, biện
pháp chuyển hình thức tổ chức hoặc giải thể.
Trong khi tổng kết đánh giá đối
với tất cả các Liên hiệp, đều phải kiểm kê, đánh giá lại toàn bộ tài sản, các
loại vốn, các loại quỹ do Liên hiệp đang trực tiếp quản lý.
Đối với những Liên hiệp tiếp tục
hoạt động, Bộ trưởng quản lý ngành (Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh ) tổ chức
giao số tài sản đã kiểm kê đánh giá cho tập thể bộ máy quản lý Liên hiệp, đại
diện là Tổng Giám đốc để tiếp tục quản lý và sử dụng.
Đối với những Liên hiệp phải giải
thể hoặc chuyển hình thức tổ chức thì toàn bộ tài sản đánh giá lại của Liên hiệp
được xử lý theo điều 31 của Điều lệ Liên hiệp mới.
Bộ tài chính có trách nhiệm chủ
trì, cùng với Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn cụ thể việc kiểm
kê, đánh giá và xử lý tài sản của các Liên hiệp.
Bộ Lao động - Thương binh và xã
hội có trách nhiệm hướng dẫn; Bộ quản lý ngành, Uỷ ban Nhân dân địa phương các
cấp có trách nhiệm chỉ đạo, giúp đỡ các Liên hiệp và các xí nghiệp thành viên bố
trí, sắp xếp lại lao động, giải quyết việc làm và nghỉ việc theo chế độ cho số
người dôi ra, cũng như khắc phục những vấn đề xã hội liên quan đến việc tổ chức
lại Liên hiệp.
b) Đối với các xí nghiệp liên
doanh đang hoạt động, các Bộ quản lý ngành và Uỷ ban Nhân dân các cấp có trách
nhiệm rà soát lại toàn bộ các xí nghiệp liên doanh thuộc quyền xét đăng ký và
cho phép kinh doanh, cho làm thủ tục đăng ký lại, tổ chức sản xuất và áp dụng
cơ chế quản lý mới theo đúng Điều lệ xí nghiệp liên doanh mới ban hành. Các tổ
chức liên doanh hoạt động không đúng Điều lệ này đều phải lập lại, giải thể hoặc
chuyển hình thức hoạt động.
Riêng đối với các xí nghiệp công
tư hợp doanh thành lập trước ngày ban hành Điều lệ này, nay cần được đánh giá lại
cổ phần và giải quyết theo qui định cụ thể của Hội đồng Bộ trưởng. Các xí nghiệp
công tư hợp doanh tiếp tục hoạt động, phải chấp hành Điều lệ xí nghiệp liên
doanh ban hành kèm theo Nghị định số 28-HĐBT ngày 22-3-1989 của Hội đồng Bộ trưởng.
Thời hạn rà soát, đăng ký lại đối
với các xí nghiệp công tư hợp doanh xí nghiệp liên doanh phải làm xong trong
năm 1989.
c) Các tổ chức liên kết kinh tế
(Hiệp hội, Liên đoàn, Hội đồng sản xuất - kinh doanh, nhóm sản phẩm...) đang hoạt
động cũng phải được rà soát lại, đánh giá những ưu, nhược điểm, chấn chỉnh và
đăng ký lại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và đi vào hoạt động theo đúng những
qui định trong Quyết định số 38-HĐBT ngày 10-4-1989 của Hội đồng Bộ trưởng.
Thời hạn rà soát; đăng ký lại với
các tổ chức liên kết kinh tế phải kết thúc trong năm 1989.
d) Đối với tất cả các liên hiệp,
xí nghiệp liên doanh, các tổ chức liên kết kinh tế từ nay mới được thành lập,
phải chấp hành theo mọi qui định mới theo các Nghị định số 27-HĐBT của Hội đồng
Bộ trưởng ngay từ trong quá trình thành lập.
3. Các Bộ quản lý ngành, Uỷ ban
Nhân dân cấp tỉnh phải báo cáo Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng bằng văn bản kết quả
các bước thực hiện các Nghị định và Quyết định nói trên; thời hạn gửi báo cáo về
Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng muộn nhất là ngày 15-10-1989 (đối với bước 1) và,
ngày 20-1-1990 (đối với bước 2 tổng kết, tổ chức lại tất cả các Liên hiệp và
toàn đợt rà soát, đăng ký lại đối với các xí nghiệp liên doanh và các tổ chức
liên kết kinh tế). Đối với những khó khăn lớn trong khi thực hiện mà chưa qui định
rõ, các Bộ và Uỷ ban Nhân dân và Tổng Giám đốc các liên hiệp kịp thời báo cáo
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng để xem xét.
4. Các Bộ tổng hợp, Viện Nghiên
cứu quản lý kinh tế Trung ương và Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng có trách nhiệm
giúp Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo điểm và theo dõi, nắm tình hình thực hiện ở các
nghành, các cấp, đặc biệt là đối với những Liên hiệp được chỉ đạo điểm, phản ảnh
để Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng có chủ trương chỉ đạo, uốn nắn kịp thời; nếu những
điểm nào liên quan đến chức năng quản lý của ngành mình thấy cần phải cụ thể
hoá hơn thì các Bộ tổng hợp có trách nhiệm kịp thời qui định hướng dẫn thêm để
bảo đảm thực hiện thống nhất và đúng đắn.
5. Viện Nghiên cứu quản lý Kinh
tế Trung ương cùng Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng có trách nhiệm sơ kết, báo cáo
Hội đồng Bộ trưởng để điều chỉnh, bổ xung vào cuối năm 1990.