|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Nghị quyết 437/NQ-UBTVQH14 2017 đầu tư công trình giao thông hình thức hợp đồng xây dựng
Số hiệu:
|
437/NQ-UBTVQH14
|
|
Loại văn bản:
|
Nghị quyết
|
Nơi ban hành:
|
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
|
|
Người ký:
|
Nguyễn Thị Kim Ngân
|
Ngày ban hành:
|
21/10/2017
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đã biết
|
|
Số công báo:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
BOT đường bộ: Chỉ áp dụng đối với tuyến đường mới
Đây là nội dung đáng chú ý tại Nghị quyết 437/NQ-UBTVQH14 về việc hoàn thiện, đẩy mạnh thực hiện chính sách pháp luật trong đầu tư và khai thác công trình giao thông theo hình thức BOT.Theo đó, UBTVQH yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng chỉ đạo Bộ Giao thông cùng các cơ quan liên quan thực hiện những nội dung sau:
- Đối với dự án đường bộ đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT chỉ áp dụng đối với các tuyến đường mới để đảm bảo quyền lựa chọn cho người dân, không đầu tư các dự án cải tạo nâng cấp các tuyến đường độc đạo, hiện hữu.
- Tiến hành rà soát các quy định về lập, phê duyệt, quản lý các chi phí về đầu tư xây dựng và vận hành các công trình giao thông đường bộ theo hình thức BOT.
- Bổ sung chế tài xử lý đối với các nhà đầu tư chậm quyết toán, chậm công khai và cập nhật lượng phương tiện, doanh thu hoàn vốn kèm quy định về thời gian thu giá sử dụng dịch vụ.
Ngoài ra, việc lựa chọn nhà đầu tư, nhà thầu phải thực hiện đấu thầu công khai minh bạch theo quy định pháp luật, hạn chế tối đa việc chỉ định thầu...
Nghị quyết 437/NQ-UBTVQH14 ban hành ngày 21/10/2017.
ỦY BAN THƯỜNG VỤ
QUỐC HỘI
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 437/NQ-UBTVQH14
|
Hà Nội, ngày 21
tháng 10 năm 2017
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ
MỘT SỐ NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN VÀ ĐẨY MẠNH VIỆC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ VÀ KHAI THÁC CÁC CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG THEO HÌNH
THỨC HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG - KINH DOANH - CHUYỂN GIAO (BOT)
ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
Căn cứ Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Căn cứ Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân số 87/2015/QH13;
Căn cứ Nghị quyết số 235/NQ-UBTVQH14 ngày 25
tháng 8 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về Chương trình giám sát của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội năm 2017 và Nghị quyết số 321/NQ-UBTVQH14
ngày 22 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thành lập Đoàn giám
sát “Việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình
giao thông theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT)”;
Trên cơ sở xem xét Báo cáo số 177/BC-ĐGS ngày 11
tháng 8 năm 2017 của Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả
giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về đầu tư và khai thác các công
trình giao thông theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao
(BOT);
QUYẾT NGHỊ:
Điều 1. Đánh giá tình hình
Tán thành với nội dung Báo cáo kết quả giám sát của
Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách
pháp luật về đầu tư và khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng
xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT)”. Trong thời gian qua, hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT đã được hoàn
thiện một bước. Nhiều công trình giao thông trọng điểm quốc gia đã được đầu tư,
nâng cấp, góp phần quan trọng trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng
về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ của nước ta, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội, tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia. Việc thực hiện chủ
trương huy động nguồn lực xã hội, trong đó có hình thức hợp đồng BOT là đúng đắn,
giúp giảm bớt gánh nặng của ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và
quá trình triển khai thực hiện các dự án giao thông theo hình thức hợp đồng BOT
còn tồn tại nhiều hạn chế cần được khắc phục. Cụ thể:
Các văn bản quy phạm pháp luật chưa được ban hành kịp
thời, đầy đủ, đồng bộ; tính pháp lý chưa cao, văn bản có hiệu lực pháp luật cao
nhất mới chỉ là nghị định, một số quy định chưa rõ ràng, chồng chéo, chưa phù hợp
với thực tiễn và thông lệ quốc tế.
Việc lựa chọn dự án đầu tư và thứ tự ưu tiên đầu tư
chưa hợp lý. Đa số các dự án tập trung trong lĩnh vực đường bộ theo phương thức
cải tạo, nâng cấp tuyến đường độc đạo hiện hữu nên chưa bảo đảm quyền lựa chọn
của người tham gia giao thông. Việc thu hút nguồn vốn đầu tư còn hạn chế, chủ yếu
dựa vào vốn vay ngân hàng. Ngoài ra, chính sách chưa ổn định gây khó khăn trong
việc thu hút nhà đầu tư nước ngoài.
Việc lập, thẩm định, phê duyệt dự án còn bất cập,
thiếu minh bạch, công tác thiết kế, dự toán còn sai sót và chưa chặt chẽ làm
tăng giá trị dự toán công trình. Hầu hết các dự án đều chỉ định thầu, nhưng nhiều
nhà đầu tư, nhà thầu nguồn lực hạn chế dẫn đến những vi phạm trong quá trình thực
hiện, vận hành và khai thác công trình gây thất thoát và giảm hiệu quả đầu tư.
Công tác giải phóng mặt bằng một số dự án gặp nhiều vướng mắc, chưa đồng bộ làm
tăng chi phí và ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện dự án. Việc thi công xây dựng,
giám sát và quản lý chất lượng công trình bị buông lỏng dẫn đến nhiều dự án chất
lượng chưa đáp ứng được yêu cầu; công tác nghiệm thu, thanh toán còn tồn tại
sai sót. Việc quyết toán công trình còn khó khăn, kéo dài và thiếu chế tài xử
lý nghiêm đối với nhà đầu tư chậm quyết toán.
Các quy định của pháp luật và thực tế triển khai về
thu phí (giá) sử dụng dịch vụ đường bộ, vị trí đặt trạm thu phí còn chưa hợp lý
dẫn đến việc một số dự án gây bức xúc trong dư luận xã hội. Việc quy định, thực
hiện công khai, minh bạch các thông tin về dự án còn bất cập. Công tác thông
tin tuyên truyền còn thiếu thống nhất dẫn đến sự thiếu đồng thuận và có cách hiểu
khác nhau trong xã hội đối với các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng
BOT.
Nguyên nhân các hạn chế, yếu kém: Các cơ
quan quản lý còn ít kinh nghiệm; chưa bao quát đầy đủ các tình huống phát sinh
trong quá trình thực hiện; sự phối, kết hợp giữa các cơ quan, đơn vị chưa thực
sự hiệu quả, trách nhiệm chưa cao, vẫn còn tình trạng buông lỏng quản lý. Công
tác kiểm tra, thanh tra chưa thường xuyên, chưa kịp thời, chế tài xử lý các vi
phạm chưa nghiêm. Trong khi Chính phủ và các cơ quan chức năng chưa chủ động tổng
kết, đánh giá và kịp thời sửa đổi hoặc đề xuất sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các
quy định pháp luật về đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT nhưng đã cho phép triển
khai đầu tư nhiều dự án giao thông theo hình thức này. Bộ Giao thông vận tải chịu
trách nhiệm chính đối với những hạn chế, vi phạm của các dự án do Bộ quyết định
đầu tư. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm liên quan đến việc ban hành thông tư hướng
dẫn việc thu phí (giá thu phí, thỏa thuận vị trí đặt trạm thu phí và quy trình
giám sát thu phí) chưa hợp lý. Cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương chịu
trách nhiệm về những hạn chế, vi phạm của dự án do địa phương quyết định đầu tư
và việc chưa thực hiện tốt công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận của người
dân trong việc lựa chọn dự án, thỏa thuận vị trí đặt trạm thu phí, bảo đảm an
ninh trật tự, giải phóng mặt bằng chậm. Các nhà đầu tư chịu trách nhiệm về những
vi phạm trong quá trình thực hiện dự án không đúng quy định của pháp luật.
Điều 2. Các nhiệm vụ và giải
pháp chủ yếu
Để hoàn thiện chính sách, pháp luật, bảo đảm phát
huy hiệu quả việc đầu tư, khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp
đồng BOT nói riêng và hình thức đối tác công tư (PPP) nói chung, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội yêu cầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tập trung thực hiện các nhiệm
vụ và giải pháp chủ yếu sau:
1. Tổng kết việc triển khai thực hiện các mô
hình đầu tư theo hình thức PPP, trong đó có hình thức hợp đồng BOT thời gian
qua để đánh giá những mặt được và những hạn chế, bất cập, từ đó đề ra các giải
pháp khắc phục hữu hiệu.
Triển khai các phương án xử lý kịp thời những tồn tại,
yếu kém và kiểm điểm nghiêm túc trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân để xảy ra
khuyết điểm, vi phạm. Tổng hợp kết quả báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc
hội vào kỳ họp cuối năm 2018.
2. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật
về đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT đặt trong tổng thể hoàn hiện pháp luật về
đầu tư theo hình thức PPP với định hướng nghiên cứu xây dựng, trình Quốc hội
ban hành Luật tạo cơ sở pháp lý cao, thống nhất, đồng bộ cho hình thức đầu tư
này.
Quy định chặt chẽ về tiêu chí lựa chọn dự án để đầu
tư theo hình thức hợp đồng BOT nói riêng và hình thức đầu tư PPP nói chung. Bổ
sung quy định về tiêu chí để đánh giá năng lực tài chính của nhà đầu tư, nghiên
cứu quy định mức vốn chủ sở hữu phù hợp với tính chất, đặc điểm của từng nhóm dự
án. Rà soát quy định về lập, phê duyệt, quản lý chi phí đầu tư xây dựng, vận
hành, khai thác các công trình giao thông theo hình thức hợp đồng BOT, đặc biệt
sớm ban hành định mức, đơn giá và việc công bố chỉ số giá thị trường phù hợp với
điều kiện thực tế. Hướng dẫn chi tiết về các nội dung liên quan đến tài chính của
hoạt động đầu tư. Bổ sung chế tài xử lý đối với các nhà đầu tư chậm quyết toán,
chậm thực hiện trách nhiệm công khai, cập nhật lưu lượng phương tiện, doanh thu
hoàn vốn, thời gian thu giá sử dụng dịch vụ, quy định về trách nhiệm của nhà đầu
tư bảo đảm chất lượng công trình khi vận hành và bàn giao cho nhà nước, quy định
về cơ chế tham vấn trước khi quyết định đầu tư và việc người sử dụng dịch vụ phản
hồi việc cung cấp dịch vụ đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Quy định trách
nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện quy trình đầu tư, khai thác
các dự án giao thông đầu tư theo hợp đồng BOT.
3. Chỉ đạo Bộ Giao thông vận tải và các cơ
quan liên quan rà soát, hoàn thiện quy hoạch mạng lưới hạ tầng giao thông đồng
bộ trong phạm vi cả nước. Lựa chọn đầu tư các dự án giao thông theo thứ tự ưu
tiên phù hợp với từng hình thức đầu tư dựa trên lợi thế, đặc điểm của từng vùng
cũng như tính cấp thiết, liên thông trong cả quy hoạch hệ thống giao thông.
Đối với các dự án đường bộ đầu tư theo hình thức
hop đồng BOT chỉ áp dụng đối với các tuyến đường mới để bảo đảm quyền lựa chọn
cho người dân, không đầu tư các dự án cải tạo, nâng cấp các tuyến đường độc đạo
hiện hữu. Việc lựa chọn nhà đầu tư, nhà thầu phải thực hiện đấu thầu công khai,
minh bạch theo quy định của pháp luật, hạn chế tối đa chỉ định thầu. Quy định
và thực hiện đầy đủ việc công khai, minh bạch các thông tin về dự án để thuận
tiện cho người dân giám sát.
4. Có giải pháp phù hợp huy động vốn trong
nước và nước ngoài cho các dự án có quy mô lớn, dự án chậm tiến độ, khó có khả
năng tiếp tục đầu tư. Ban hành cơ chế. chính, sách cụ thể nhằm thu hút nguồn vốn
nước ngoài, hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ. Nghiên cứu
các giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường vốn để huy động nguồn vốn dài hạn
cho các dự án. Sớm trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung các luật có liên quan, bảo đảm
thu hút đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài để phát triển nhanh và đồng bộ
hệ thống hạ tầng giao thông.
5. Chỉ đạo các cơ quan liên quan khẩn trương
quyết toán các dự án đã hoàn thành để xác định phương án tài chính và thời gian
thu giá sử dụng dịch vụ chính thức; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các nhà đầu
tư; thực hiện đúng cam kết của Nhà nước với nhà đầu tư về phần vốn hỗ trợ giải
phóng mặt bằng, tái định cư của Nhà nước.
Hoàn thiện việc rà soát tổng thể về vị trí đặt trạm,
chính sách miễn giảm giá tại tất cả các trạm thu giá dịch vụ sử dụng đường bộ
và quản lý doanh thu chặt chẽ để có những giải pháp đồng bộ, kịp thời, thống nhất,
bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng.
Ban hành tiêu chí thành lập trạm thu giá dịch vụ,
xây dựng mức giá phù hợp, áp dụng công nghệ tiên tiến (thu giá dịch vụ sử dụng
đường bộ theo hình thức tự động không dừng). Ngoài ra, cần ban hành khung tiêu
chuẩn chung làm cơ sở, thực hiện đấu thầu lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ thu giá
(phí) tự động không dừng, tránh tình trạng độc quyền trong thu giá dịch vụ,
giám sát doanh thu của các trạm và bảo đảm tính cạnh tranh, công khai, minh bạch
trong hoạt động thu giá. Từ năm 2019, triển khai đồng bộ thu giá dịch vụ không
dừng đối với tất cả các tuyến quốc lộ được đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT
trên cả nước.
6. Chỉ đạo các địa phương tích cực phối hợp
với các Bộ, ngành liên quan và nhà đầu tư trong quá trình giải phóng mặt bằng,
bảo đảm an ninh trật tự, siết chặt kiểm tra, giám sát để ngăn chặn tình trạng
xe quá tải, bảo đảm chất lượng công trình, giao thông thông suốt và chống thất
thoát doanh thu, hỗ trợ giải quyết việc làm cho người dân bị ảnh hưởng bởi dự
án và có các phương án tái định cư phù hợp.
7. Trong thời gian tới tiếp tục tiến hành
thanh tra, kiểm tra việc lập, thẩm định, phê duyệt, thực hiện và vận hành khai
thác đối với các dự án giao thông theo hình thức hợp đồng BOT nói riêng và hình
thức PPP nói chung, nhằm bảo đảm minh bạch, hiệu quả, phòng chống tham nhũng,
lãng phí, lợi ích nhóm trong quản lý các dự án.
8. Đẩy mạnh công tác truyền thông, cung cấp
thông tin đầy đủ, chính xác, trung thực theo quy định của pháp luật về các dự
án đầu tư theo hình thức hợp đồng BOT, giải thích và làm rõ sự cần thiết phải đầu
tư dự án để tạo sự đồng thuận từ người dân, qua đó hỗ trợ kiểm tra, giám sát
quá trình triển khai, thực hiện, vận hành và khai thác dự án.
Điều 3. Tổ chức thực hiện
1. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình chỉ đạo và tổ chức thực hiện
Nghị quyết này.
2. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Kinh tế,
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban khác của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, đại
biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình giám sát việc thực hiện Nghị quyết này.
Nơi nhận:
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ;
- TT HĐDT, các UB của QH, TTK QH;
- UBTWMTTQVN, KTNN, TANDTC, VKSNDTC;
- Các Ban, Viện thuộc UBTVQH;
- VPTW Đảng, VPCTN, VPQH, VPCP;
- Đoàn ĐBQH, HĐND, UBND TTPTTTW;
- VP HĐND, VP UBND TTPTTTW;
- Các Vụ, đơn vị thuộc VPQH;
- Lưu: HC, GS, KT;
- Số E-pas: 80451
|
TM. ỦY BAN THƯỜNG
VỤ QUỐC HỘI
CHỦ TỊCH
Nguyễn Thị Kim Ngân
|
Nghị quyết 437/NQ-UBTVQH14 năm 2017 về nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác công trình giao thông theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
NATIONAL
ASSEMBLY’S STANDING COMMITTEE
-------
|
SOCIALIST
REPUBLIC OF VIETNAM
Independence - Freedom - Happiness
---------------
|
No.
437/NQ-UBTVQH14
|
Hanoi, October
21, 2017
|
RESOLUTION REGARDING
SOME OBJECTIVES AND SOLUTIONS FOR CONTINUED IMPROVEMENT AND PROMOTION OF
IMPLEMENTATION OF LEGISLATIVE INVESTMENT AND OPERATIONAL POLICIES FOR
TRANSPORTATION PROJECTS DEVELOPED IN THE FORM OF BUILD - OPERATE - TRANSFER
(BOT) CONTRACTS NATIONAL ASSEMBLY’S STANDING COMMITTEE Pursuant to the Constitution of the Socialist
Republic of Vietnam; Pursuant to Law on Surveillance Practices of
National Assembly and People's Council No. 87/2015/QH13; Pursuant to the Resolution No. 235/NQ-UBTVQH14
dated August 25, 2016 of the Standing Committee of the National Assembly on the
surveillance program of the Standing Committee of the National Assembly in 2017
and the Resolution No. 321/NQ-UBTVQH14 dated December 22, 2016 of the National
Assembly’s Standing Committee on the establishment of the Commission for
Surveillance of "Implementation of legislative policies on investment and
operation for transportation works developed in the form of build - operate -
transfer (BOT) contracts”; In the light of the Report No. 177/BC-DGS dated
August 11, 2017 issued by the Commission for Surveillance of the implementation
of legislative policies on investment and operation for transportation works
developed in the form of build - operate - transfer (BOT) contracts under the
control of the National Assembly’s Standing Committee; HEREBY RESOLVES ... ... ... Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN. Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66 In support of the Surveillance Performance Report
issued by the Commission for Surveillance of the implementation of
legislative policies on investment and operation for transportation works
developed in the form of build - operate - transfer (BOT) contracts under
the control of the National Assembly’s Standing Committee. In recent years,
legal documents on investment in the form of BOT contracts have made a first
step to perfection. Many national significant traffic projects have been
funded, upgraded and made a significant contribution to the implementation of
the Party's guidelines and intentions to building a synchronous infrastructure
system throughout our country, promoting the socio-economic development as well
as strengthening national competitiveness. The implementation of the policy of
mobilizing social resources, including those existing in the form of BOT
contracts, has been proved correct, helping to reduce the burden of the state
budget. However, the set of legal documents and the process
of commencing and executing transport projects in the form of BOT contracts
still contain a lot of defects that need to be corrected. Details about these
defects shall be given as follows: Legal documents have not been issued in a timely,
complete and synchronous manner; are not highly legitimate when the one having
the highest legal effect is just a decree; some regulations are unclear,
overlapping, and does not match the reality and international practices. The selection of investment projects and order of
investment preference are not reasonable. Because most of the road projects
exist in the mode of improving and upgrading the existing sole major routes,
road users’ rights of choice have not been guaranteed. As mobilized investment
funds are still restricted, bank loans are the main funding resource. In
addition, unstable policies have caused difficulties in attracting foreign
investors. The formulation, appraisal and approval of projects
are still inadequate and lack transparency while the design and cost estimation
expose shortcoming and are not coherent, causing increases in estimated project
costs. Because most projects are tendered according to the bid appointment
approach, the selection of contractors having insufficient resources leads to
violations arising in the process of executing and operating these projects,
causing loss and reduction in investment efficiency. Site clearance for the
implementation of a number of projects has encountered many problems, lacked
consistency and impacted the project progress. The neglected construction,
supervision and construction quality control lead to a lot of projects failing
to meet quality standards; there remain errors in project commissioning,
acceptance testing and payment. The fulfillment of financial obligations to the
project is still difficult, prolonged and lacks strict sanctions against
investors who defer making full payments. Legal regulations and actuality of collection of
road tolls (charges), the location of toll booths are not reasonable, leading
to some projects causing public frustration. There are inadequacies in the
regulation and implementation of mechanism for ensuring publicity and
transparency of project information. The lack of communication and propaganda
campaigns entails a lack of consensus and misunderstanding in society about
transport works under BOT contracts. Causes of those problems and weaknesses: Regulatory
authorities have acquired little experience; not fully address situations that
arise in the implementation process; coordination and cooperation between
agencies and units are not really effective while a sense of the state
management responsibility is not high, i.e. undue care given to the state
management tasks. Inspection and assessment is not regular and not timely and
sanctions for probable violations are not strictly enforced. While the
Government and specialized regulatory authorities have not actively reviewed,
assessed and promptly amending or proposing amendments and supplements to
complete legal provisions on investment made in the form of BOT contracts, it
has allowed the commencement of transport investment projects under this type of
contract. The Ministry of Transport is mainly responsible for defects and
violations arising from investment projects under its decision-making
authority. The Ministry of Finance is responsible for the issuance of circulars
guiding the collection of fees and tolls (toll rates, agreement on the location
of toll stations and toll supervision process) proved to be illogical and
inappropriate. Local state authorities are responsible for problems and
violations arising from projects under the local authority to make investment
decisions, the poor implementation of propaganda and communication campaigns
seeking consensus from the public on the selection of projects, agreements on
the location of toll plazas, issues related to public security and order, and
the slow progress in site clearance. Investors are responsible for any breach
of laws and regulations arising during the project implementation process. Article 2. Major duties and
solutions In order to improve regulatory policy and legal
framework, ensuring the effective promotion of investment and operation of
transport projects under BOT contracts, in particular, and public private
partnership (PPP) agreements, in general, the National Assembly’s Standing
Committee requests the Government and the Prime Minister to focus on the
following key tasks and solutions: ... ... ... Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN. Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66 Implementing solutions to promptly addressing
shortcomings and weaknesses and seriously rebuking organizations and
individuals for their responsibility for causing defects and violations.
Presenting a general report to the National Assembly’s Standing Committee in
the 2018’s final meeting session. 2. Continuing to study and complete the
legal framework on investment in the form of BOT contracts as part of the legal
framework on investment according to the PPP approach with the orientation
towards the study and formulation thereof for submission to the National
Assembly for promulgation, ensuring high legal effect, uniformity and
consistency for the sake of these investment approaches. Strictly regulating criteria for selection of
projects qualified for investment in the form of BOT contracts in particular
and PPP investment in general. Setting out additional regulations on criteria
for assessing investors' financial capacity, studying regulations on equity
levels relevant to the nature and characteristics of each project group.
Reviewing regulations on the formulation, approval, and management of costs for
development, construction and operation of traffic works in the form of BOT
contracts, especially promptly issuing norms and unit prices and announcing
market price indices according to actual condition. Providing detailed guidance
on financial contents of investment activities. Setting additional regulations
on sanctions on investors who have deferred fulfilling their financial
obligations, publicizing and updating traffic flow, payback turnover, duration
for collection of service charges, regulations on responsibility of investors
for ensuring the quality of their projects after completion and transfer to the
State, regulations on consultation mechanisms before making investment
decisions, and methods for service users' sending feedbacks about services to
state regulatory authorities. Regulating responsibilities of state regulatory
authorities for implementing the investment and operational process for
transport projects executed under BOT contracts. 3. Directing the Ministry of Transport and
relevant authorities to review and complete the planning schemes for
development of the synchronous transport infrastructure network nationwide.
Deciding on investment in transport projects in order of priority suitable for
each form of investment based on the advantages and characteristics of each
region as well as the urgency of investment and connectivity of these projects,
even in the transport system planning stage. For road projects developed and executed in the
form of BOT contracts, these investment approaches shall be applied to new
routes to ensure the right of choice for people, avoiding being used for
investment in the renovation and upgradation of existing sole main roads. In
order to select investors and contractors, open and transparent bidding and
tendering must be carried out in accordance with law and the bid appointment
method must be held down to the minimum. Fully regulating and implementing the
public disclosure and transparency for project information for the facilitation
of the public review. 4. Having appropriate solutions to raising
domestic and foreign capital for large-scale projects, projects that are behind
schedule and are unlikely to continue. Adopting specific mechanisms and
policies to attract foreign capital, support the development of human
resources, science and technology. Studying solutions to promote capital market
growth to mobilize long-term funding for projects. Promptly petitioning the
National Assembly to approve amendments and supplements to relevant laws,
ensuring investment attraction, especially foreign investors, for the rapid and
synchronous development of the transport infrastructure system. 5. Directing relevant authorities to
promptly finalize completed projects in order to determine the financial plan
and timing of official service charge collection; removing difficulties and
problems for investors; fulfilling commitments of the State to investors on the
State's capital used for supporting land clearance and resettlement. Completing the overall review regarding toll plaza
location, charge discount and exemption policies at all road toll plazas, and
strictly managing revenue with the aim of applying synchronous, timely and
consistent solutions to ensuring the harmony of interests between the State,
investors and users. Adopting criteria for setting up toll plazas,
setting appropriate prices, applying advanced technologies (e.g. automated
non-stop toll plazas). In addition, it shall be necessary to promulgate a
common standard framework as the basis for bidding to find service providers
awarded automated non-stop toll collection service bids, avoiding the monopoly
in service price collection, and monitoring revenues earned by toll plazas and
ensuring the competitiveness, public disclosure and transparency in price
collection activities. From 2019, uniformly using the automatic non-stop toll
collection method for all national highways developed in the form of BOT
contracts across the country. ... ... ... Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN. Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66 7. In the coming time, continuing to inspect
and examine the establishment, appraisal, approval, implementation and
operation of BOT transport projects, in particular and PPP ones, in general, to
ensure the transparency, efficiency, anti-corruption, prevention and control of
extravagance, group benefits arising from project management activities. 8. Promoting communication, providing
complete, accurate and truthful information according to the provisions of law
on BOT investment projects, explaining and clarifying the needs for investment
in projects to seek consensus from the population, and supporting the
inspection and supervision of the project commencement, implementation and
operation process. Article 3. Implementation 1. The Government, the Prime Minister,
Ministries, Ministerial-level agencies, Governmental bodies, People's Councils,
and People's Committees at all levels shall, within the scope of their
respective tasks and powers, take charge of implementation of this Resolution. 2. The National Assembly’s Standing
Committee, the Economic Committee, the Committee for Ethnic Affairs and other
National Assembly’s Committees, National Assembly’s Delegations and deputies of
the National Assembly and People’s Councils at all levels shall, within their
remit and jurisdiction, oversee the implementation of this Resolution. PP. NATIONAL
ASSEMBLY’S STANDING COMMITTEE
CHAIRWOMAN
Nguyen Thi Kim Ngan
Nghị quyết 437/NQ-UBTVQH14 ngày 21/10/2017 về nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về đầu tư và khai thác công trình giao thông theo hình thức hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
12.882
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|