CHỈ THỊ
VỀ VIỆC CHẤN
CHỈNH CÔNG TÁC QUYẾT TOÁN, TẤT TOÁN VỐN ĐẦU TƯ CÁC DỰ ÁN HOÀN THÀNH THUỘC NGUỒN
VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh còn nhiều công trình
đã hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng chưa được thẩm tra quyết toán, tất toán
theo đúng thời gian quy định. Các chủ đầu tư, Ban quản lý dự án (viết tắt là
Ban QLDA) được thành lập nhưng đa số năng lực trình độ chuyên môn còn
hạn chế (thường không đúng chuyên môn), không thường xuyên được tập huấn nên
không cập nhật kịp thời các văn bản liên quan đến lĩnh vực xây dựng. Nhiều chủ
đầu tư ít quan tâm đến khâu quyết toán, tất toán công trình nên gây khó khăn
trong công tác theo dõi, bố trí vốn dẫn đến tình trạng số vốn rất lớn chưa được
xử lý tất toán tại Kho bạc Nhà nước.
Để đẩy nhanh tiến độ thẩm tra quyết toán, tất
toán các công trình, UBND tỉnh yêu cầu các sở, ban ngành liên quan, UBND các
huyện, thị xã và các chủ đầu tư thực hiện các nội dung sau:
1. Các công trình đã được các cơ quan có thẩm
quyền phê duyệt quyết toán nhưng chủ đầu tư, Ban QLDA chưa liên hệ với Kho bạc
Nhà nước tất toán:
Các chủ đầu tư liên hệ với Kho bạc Nhà nước để
tất toán công trình chậm nhất là ngày 31/01/2009. Nếu quá thời hạn này mà chủ
đầu tư chưa hoặc không thực hiện tất toán thì Kho bạc Nhà nước thông báo cho cơ
quan Tài chính tham mưu cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
2. Các công trình đã nghiệm thu hoàn thành
đưa vào sử dụng và chủ đầu tư đã gửi hồ sơ quyết toán sang cơ quan Tài chính
nhưng chưa đủ thủ tục:
Các chủ đầu tư bổ sung đầy đủ thủ tục chậm nhất
là ngày 31/01/2009. Nếu quá thời hạn này mà chủ đầu tư chưa hoặc không thực
hiện bổ sung thủ tục thì cơ quan Tài chính tham mưu cấp có thẩm quyền xử lý
theo quy định của pháp luật.
3. Các công trình mà đơn vị thi công không
hợp tác với chủ đầu tư quyết toán khối lượng A-B:
Chấp thuận cho chủ đầu tư căn cứ vào hồ sơ
nghiệm thu thanh toán khối lượng từng đợt làm cơ sở lập hồ sơ quyết toán.
4. Các công trình Kho bạc Nhà nước chưa tất
toán:
Giao Kho bạc Nhà nước tiến hành tất toán như sau:
a) Các công trình, hạng mục công trình đã quyết
toán:
- Trường hợp số vốn được quyết toán lớn hơn số
vốn đã thanh toán: Kho bạc Nhà nước tất toán số vốn đã thanh toán;
- Trường hợp số vốn được quyết toán nhỏ hơn số
vốn đã thanh toán: Kho bạc Nhà nước đôn đốc các chủ đầu tư nộp vào ngân sách
nhà nước số tiền chênh lệch đó. Sau 06 tháng kể từ khi Kho bạc Nhà nước yêu cầu
mà chủ đầu tư chưa nộp ngân sách nhà nước thì Kho bạc Nhà nước tất toán số vốn
theo quyết toán được duyệt, phần chênh lệch do thanh toán cao hơn quyết toán
được chuyển vào tài khoản phải thu để theo dõi xử lý. Đồng thời, Kho bạc Nhà nước
báo cáo cơ quan Tài chính danh mục các dự án mà chủ đầu tư chưa nộp vào ngân
sách nhà nước để cơ quan Tài chính xem xét từng trường hợp cụ thể, tham mưu cấp
có thẩm quyền xử phạt các chủ đầu tư theo quy định hiện hành.
b) Các công trình, hạng mục công trình chưa
quyết toán:
- Kho bạc Nhà nước tổng hợp lại và báo cáo cơ
quan Tài chính;
- Các chủ đầu tư, Ban QLDA trình cơ quan Tài
chính thẩm tra phê duyệt. Sau ngày 31/01/2009 mà chủ đầu tư, Ban QLDA chưa thực
hiện thì cơ quan Tài chính tham mưu cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của
pháp luật.
c) Các công trình hoàn thành từ năm 2003 trở về
trước mà các chủ đầu tư, Ban QLDA không còn tồn tại thì chấp thuận cho tất toán
theo giá trị thanh toán.
d) Khi tất toán công trình giao Kho bạc Nhà nước
rà soát giảm trừ các dự án mà cơ quan Thanh tra, cơ quan Kiểm toán đã đề nghị
xuất toán.
5. Điều chỉnh biến động giá, máy thi công,
nhân công:
Các chủ đầu tư, Ban QLDA lập dự toán bổ sung
phần chênh lệch giá do biến động giá, điều chỉnh chi phí nhân công và máy thi công
theo quy định để có cơ sở giải ngân vốn và lập báo cáo quyết toán các công
trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng đúng thời gian quy định. Mọi chậm trễ thì
chủ đầu tư, Ban QLDA hoàn toàn chịu trách nhiệm và bị xử lý phạt hành chính, xử
lý kỷ luật theo quy định của pháp luật.
6. Bố trí vốn:
Giao cơ quan Kế hoạch và cơ quan Tài chính xem
xét trình cấp có thẩm quyền bố trí vốn kịp thời cho các công trình được thẩm
tra quyết toán hàng năm nhưng chưa được bố trí kế hoạch vốn nhằm tạo điều kiện
thuận lợi trong công tác tất toán các công trình.
7. Xử lý phát sinh:
Khi xảy ra các phát sinh, vướng mắc quá khả năng
xử lý hay không nắm rỏ thì chủ đầu tư báo cáo với cơ quan có thẩm quyền hay các
cơ quan có liên quan để có biện pháp xử lý, tháo gỡ đúng quy định. Tránh tình
trạng tự ý thực hiện đến khi thẩm tra quyết toán không đúng thủ tục hay không
quyết toán được gây thiệt hại cho đơn vị thi công, kéo dài thời gian quyết toán.
8. Xử phạt:
a) Công trình nghiệm thu hoàn thành kể từ ngày
01/01/2009 trở về sau mà chủ đầu tư, nhà thầu xây dựng, nhà thầu tư vấn có hành
vi vi phạm, tùy từng trường hợp giao cơ quan Tài chính tham mưu cấp có thẩm
quyền xử phạt theo Nghị định số 126/2004/NĐ-CP ngày 26/5/2004 của Chính phủ về
xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng, quản lý công trình hạ tầng
đô thị và quản lý sử dụng nhà và các Nghị định khác có liên quan.
b) Bên cạnh xử phạt với các hình thức như trên,
các đơn vị vi phạm còn bị áp dụng các biện pháp chế tài khác như sau:
- Chủ đầu tư vi phạm: Giao đơn vị khác làm chủ
đầu tư; thông báo trên thông tin đại chúng, xem xét không khen thưởng cuối năm.
- Nhà thầu xây dựng, nhà thầu tư vấn vi phạm:
Thông báo trên thông tin đại chúng, không cho thực hiện các công việc xây dựng,
tư vấn trên địa bàn tỉnh khi có hành vi vi phạm từ 03 lần trở lên.
- Các cơ quan có liên quan: Không xét khen
thưởng cuối năm.
- Cán bộ, công chức, viên chức vi phạm: Tùy theo
tính chất, mức độ, hậu quả bị xử lý theo quy định của pháp luật, đồng thời
không xét khen thưởng cuối năm.
9. Tổ chức thực hiện:
a) Các chủ đầu tư, cơ quan có liên quan nghiêm
túc thực hiện chế độ báo cáo đầy đủ và đúng thời gian qui định.
b) Giao Sở Tài chính theo dõi, kiểm tra, đôn đốc
các cơ quan, đơn vị, địa phương trong việc thực hiện Chỉ thị này và thường
xuyên báo cáo UBND tỉnh kết quả thực hiện công tác quyết toán, tất toán vốn đầu
tư.
c) Chỉ thị này có hiệu lực sau 10 ngày kể từ
ngày ký. Những quy định trước đây của UBND tỉnh có nội dung trái với nội dung
của Chỉ thị này đều bị bãi bỏ./.