BỘ
TÀI CHÍNH
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
227-TC/HCP/3
|
Hà
Nội, ngày 02 tháng 03 năm 1959
|
THÔNG TƯ
VỀ VIỆC TRẢ CÔNG PHIẾU KHÁNG CHIẾN, CÔNG TRÁI QUỐC GIA, CÔNG
THẢI NAM BỘ VÀ BÙ THÊM CHÊNH LỆCH ĐỔI TIỀN ĐÔNG DƯƠNG MIỀN NAM
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Kính gửi:
|
- Ủy ban hành chính các khu,
thành phố, tỉnh
- Các Khu, Sở, Ty Tài chính
|
Gần đây, Bộ Tài chính đã có những
thông tư quy định việc phân cấp cho Ủy ban hành chính các khu, thành, tỉnh quản
lý các khoản chi về nghĩa vụ quân sự, thanh toán trưng mua ruộng đất và giúp đỡ
đền bù tài sản.
Song song với các khoản trên, những
khoản chi sau đây cũng đã được quy định tương đối cụ thể về chủ trương,
chính sách, và cũng đã giao cho địa phương lãnh đạo thực hiện;
- Công phiếu kháng chiến, công
trái quốc gia, công thải Nam bộ.
- Bù thêm chênh lệch đổi tiền
Đông Dương Liên khu 5 và Nam bộ.
Về thể thức thanh toán các khoản
chi này, chúng tôi bổ sung thêm một số ý kiến cho phù hợp với tinh thần phân cấp
quản lý mới.
I. TRÁCH NHIỆM LÃNH ĐẠO CỦA ĐỊA PHƯƠNG
Các chủ trương, nguyên tắc về trả
công phiếu kháng chiến, công trái quốc gia, công thải Nam bộ, bù thêm chênh lệch
đổi tiền Đông Dương Liên khu 5 và Nam bộ đã được ban hành, trong quá trình thực
hiện đã được bổ sung dần cho cụ thể, đến nay có thể nói là tạm đủ.
Từ nay, các Ủy ban hành
chính khu, thành phố, tỉnh sẽ phụ trách việc thanh toán và tự mình giải
quyết các mắc mứu trong phạm vi các thể lệ đã ban hành, và chỉ phản ánh với Bộ
Tài chính những trường hợp mới phát hiện chưa quy định, hoặc những vấn đề địa
phương thấy cần bổ sung hoặc sửa đổi. Bước đầu nếu Ủy ban hành chính thấy cần
thiết và yêu cầu, Bộ sẽ cử người để giúp đỡ tại chỗ.
II. KINH PHÍ
Dự toán năm 1959 của địa phương
căn bản đã làm xong. Việc thanh toán công phiếu kháng chiến, công trái quốc
gia, công thải Nam bộ, bù thêm chênh lệch đổi tiền Đông dương Liên khu 5 và Nam
bộ lại phải hoàn thành trong một thời gian nhất định, không thể kéo dài (từ nay
đến 30-6-1959 đối với bù chênh lệch đổi tiền Đông dương miền Nam và sớm hơn đối
với việc trả công phiếu kháng chiến, công trái quôc gia, công thải Nam bộ) nên
tạm thời kinh phí vẫn để ở Trung ương, không phải ghi thêm vào dự toán của địa
phương.
Để giảm bớt giấy tờ, chúng tôi
có ý kiến như sau:
- Đối với những tỉnh, thành trả
ít (ví dụ mỗi tháng dưới 5 nghìn đồng Ngân hàng mới), thì địa phương cứ tạm ứng,
cuối tháng 06-1959 sẽ báo cáo kết thúc về Bộ để lấy kinh phí điều chỉnh.
Chỉ báo cáo một lần vào cuối đợt, không phải báo cáo nhiều lần.
- Nếu trả nhiều hơn, thì tùy nhu
cầu, có thể báo cáo về Bộ hoặc hàng tháng, hoặc 2, 3, tháng một lần tránh xin cấp
điều chỉnh lẻ tẻ những số tiền dưới 10 nghìn đồng Ngân hàng mới.
- Đặc biệt, đối với những tỉnh
đương trả mạnh (mỗi tháng trên 20 nghìn đồng Ngân hàng mới), thì hàng tháng có
thể đề nghị Bộ cấp trước một số tiền, nhưng cuối mỗi tháng phải kịp thời gửi
báo cáo thanh toán để lấy kinh phí mới và tiếp tục trả.
Cuối tháng 06-1959, sau khi đã
tính trả cho tất cả những đơn nộp đúng thời hạn, số tiền còn lại sẽ nộp
vào Kho bạc, hết sức tránh tình trạng để đọng tiền ở cơ quan.
Chú ý: - Các bảng
tính sẵn về công phiếu kháng chiến, công trái quốc gia, công thải Nam bộ, cần
chuyển từ đơn vị tiền cũ sang đơn vị tiền mới để khi tính trả khỏi nhầm lẫn
(thi hành Thông tư số 097/TTg ngày 28-2-1959 của Thủ tướng phủ).
III. BÁO CÁO
Việc thanh toán đã do tỉnh trực
tiếp lãnh đạo và chịu trách nhiệm, nên các chứng từ đều do tỉnh xét duyệt và
lưu trữ, không phải gửi về Bộ nữa.
Những tài liệu ấy phải giữ gìn cẩn
thận để sau này dùng tra cứu khi cần đến.
Báo cáo tổng hợp gửi về Bộ sẽ gồm
các cột sau đây:
A. Về công phiếu kháng chiến,
công trái quốc gia và công thải Nam bộ:
1. Thời gian thanh toán (từ
ngày… tháng… đến ngày… tháng…)
2. Nơi thanh toán (tỉnh, huyện
hay thị xã).
3. Số công phiếu kháng chiến đã
thanh toán ở mỗi nơi.
4. Phân tích loại (bao nhiêu phiếu
loại 200đ, 1.000đ, 5.000đ, 10.000đ).
5. Số tiền đã trả về công phiếu
kháng chiến.
6. Số công trái quốc gia đã
thanh toán.
7. Phân tích loại (10kg, 50,
100, 500, 1.000kg).
8. Số tiền đã trả về công trái
quốc gia.
9. Số tiền đã trả về công thải
Nam bộ
10. Các chi phi khác (trả lương
cho nhân viên phụ động, mua văn phòng phẩm dùng vào việc trả Công phiếu kháng
chiến, công trái quốc gia, Công thải Nam bộ).
11. Tổng cộng số tiền đã trả (cột
5 + 8 + 9 + 10).
12. Ghi chú.
B. Về bù thêm chênh lệch đổi
tiền Đông-Dương miền Nam:
Xem mẫu đính kèm Thông tư số
123TC HCP ngày 24 tháng 12 năm 1958 của Bộ Tài chính.
Cuối đợt sẽ làm báo cáo tổng kết,
có số liệu và có nhận xét chung về tình hình thanh toán (ưu khuyết điểm, khó
khăn trở ngại, kết quả, kinh nghiệm, các việc tồn tại và ý kiến đề nghị).
IV. THANH TOÁN TIỀN TẠM CẤP
Tỉnh nào đã nhận tiền tạm cấp của
Bộ thì khi hoàn thành nhiệm vụ (chậm lắm là ngày 30-06-1959) phải nộp trả Bộ.
V. TRẢ SAU 30-06-1959
Nguyên tắc là sau ngày 30 tháng
6 năm 1959 sẽ không nhận, xét đơn mới nữa. Các địa phương ngay bây giờ cần có kế
hoạch phổ biến rộng rãi, chu đáo, để tránh tình trạng phải kéo dài mãi sau
30-05-1959.
Nếu sau thời hạn đó còn có
trường hợp nào được thanh toán theo chủ trương hiện nay, nhưng vì lý do đặc biệt
đơn nộp chậm, thì tỉnh sẽ xét kỹ từng trường hợp cụ thể và báo cáo về Bộ Tài
chính quyết định.
VI. CÁC TRƯỜNG HỢP BẤT BÌNH THƯỜNG CỦA
CÔNG PHIẾU KHÁNG CHIẾN, CÔNG TRÁI QUỐC GIA VÀ CÁC KHOẢN NỢ DÂN KHÁC
Sẽ có chủ trương và Thông tư hướng
dẫn sau khi chưa có chủ trương của Chính phủ thì các địa phương không nên hứa hẹn
gì với nhân dân.
Đề nghị các khu, tỉnh, thành
nghiên cứu các ý kiến trên để thực hiện, gặp khó khăn trở ngại gì xin phản ánh
để Bộ góp thêm ý kiến giải quyết.
|
KT.
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
THỨ TRƯỞNG
Trịnh Văn Bính
|