BỘ
CÔNG AN-UỶ BAN THỂ DỤC THỂ THAO
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
01-LB
|
Hà
Nội, ngày 19 tháng 03 năm 1966
|
THÔNG TƯ LIÊN BỘ
QUY ĐỊNH CÁC CHẾ ĐỘ SỬ DỤNG, BẢO QUẢN, VẬN CHUYỂN, SẢN XUẤT,
SỬA CHỮA CÁC LOẠI SÚNG ĐẠN THỂ THAO QUỐC PHÒNG
Thi hành Nghị định số 175-CP
ngày 11-12-1964 của Hội đồng Chính phủ về việc quản lý vũ khí quân dụng, vũ khí
thể thao quốc phòng .
Căn cứ vào điều 7 của Nghị định
số 175-CP, Bộ Công an và Ủy ban thể dục thể thao quy định cụ thể các chế
độ sử dụng, bảo quản, vận chuyển, sản xuất, sửa chữa súng đạn thể thao quốc
phòng như sau:
I. NGUYÊN TẮC CHUNG
1. Súng đạn thể thao quốc phòng
là của Nhà nước do Ủy ban thể dục thể thao phân phối cho Ban thể dục thể
thao các tỉnh, thành và các ngành; Ban thể dục thể thao tỉnh, thành và
các ngành chịu trách nhiệm phân phối cho các đội bắn súng thể thao quốc
phòng các cơ sở (xã, xí nghiệp, trường học, cơ quan, công trường, nông trường,
lâm trường, khu phố, hợp tác xã ) để làm nhiệm vụ luyện tập thi đấu thể thao và
khi cần thiết sẽ sử dụng vào việc chiến đấu bảo vệ trị an.
Cá nhân không được quyền có súng
đạn thể thao quốc phòng làm của riêng. Bất cứ ai có súng đạn
riêng, kể cả cán bộ, chiến sĩ trong quân đội nhân dân và công an nhân dân
võ trang, không kể do nguồn gốc nào mà có, đều phải kê khai và nộp cho cơ quan
công an hoặc Ban thể dục thể thao cấp tỉnh, thành. Tùy theo phẩm chất của
súng đạn, người nộp vũ khí có thể được xét bồi hoàn một số tiền thích đáng. Nếu
không chịu nộp, khi phát hiện thấy, sẽ bị xử lý về hành chính, súng đạn bị tịch
thu.
2. Súng thể thao quốc phòng, sau
khi được phân phối cho các cơ sở địa phương nào đều phải mang súng đạn đến Sở,
Ty công an địa phương ấy đăng ký cấp giấy phép. Khi đến đăng ký phải có giấy giới
thiệu của Ban thể dục thể thao tỉnh, thành phố, ngành. Khi giấy phép hết hạng
phải mang súng và giấy phép cũ đến cơ quan công an kiểm tra, ký gia hạn hoặc đổi
giấy phép mới.
3. Các cơ quan, xí nghiệp vv… được
phân phối súng đạn thể thao quốc phòng không được tự điều chuyển, đổi
chác, bán cho cơ quan khác hoặc bán cho cá nhân. Trường hợp điều chuyển súng
cho các đơn vị trực thuộc phải báo cho Ban thể dục thể thao tỉnh, thành phố,
ngành mình biết và khi nào Ban thể dục thể thao cấp giấy giới thiệu đến Sở,
Ty công an đổi giấy dùng súng mới có giá trị.
4. Các Sở, Ty công an và Ban thể
dục thể thao các tỉnh, thành phố và ngành cần phối hợp chặt chẽ, thường
xuyên hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các quy định về quản lý súng
đạn thể thao.
5. Các cơ quan, xí nghiệp, thôn
xã, khu phố v..v… được phân phối súng đạn thể thao quốc phòng cứ
sáu tháng một lần báo cáo về Sở, Ty công an và Ban thể dục thể thao nơi
trực tiếp quản lý, các Sở, Ty công an, Ban thể dục thể thao các tỉnh, thành,
ngành cứ một năm báo cáo một lần về Bộ Công an, Ủy ban thể dục thể thao
trung ương về tình hình súng đạn thể thao của đơn vị, địa phương mình.
Trường hợp xẩy ra tai nạn, hoặc
thất lạc, mất súng đạn thì phải báo cáo ngay cho Đồn, Khu, Huyện công an nơi gần
nhất, đồng thời phải báo cáo về Sở, Ty công an và Ban thể dục thể thao nơi trực
tiếp quản lý.
II. BẢO QUẢN
6. Súng đạn thể thao quốc phòng,
ngoài thì giờ luyện tập, công tác và thi bắn đều phải tập trung tại kho của cơ
quan, xí nghiệp và được bảo quản chặt chẽ, không để xẩy ra thất lạc hoặc mất
súng và cử người phụ trách. Riêng ở xã mới được phép giao cho cá nhân giữ để ở
nhà riêng, những người được giao giữ súng đạn do Ủy ban hành chính xã xét duyệt.
Đối với các vận động viên “bắn
súng nâng cao” cần có súng để luyện tập thường xuyên phải do Ban thể dục thể
thao cấp tỉnh, thành phố, cơ quan xét và khi phát súng cho vận động viên giữ phải
thông báo cho Ủy ban hành chính địa phương hoặc cơ quan, xí nghiệp… của vận động
viên ấy biết để phối hợp theo dõi, quản lý và phải đăng ký tại Sở, Ty công an.
7. Sau khi tập và bắn đạn thật
hoặc bị mưa ướt, phải tiến hành lau chùi súng đạn ngay nếu súng để ở kho hàng
tuần, hàng tháng phải kiểm tra và lau chùi sạch sẽ, đặc biệt các bộ phận nòng
súng, khóa súng, không được để súng đạn nơi ẩm thấp hoặc phơi ngoài nắng.
8. Không được để súng đạn và giấy
phép dùng súng thất lạc mất. Nếu súng đạn bị hư hỏng, thất lạc, mất không có lý
do chính đáng, ngoài việc bị xử lý, người sử dụng súng đạn còn phải bồi thường
sự gây ra tổn thất.
III. SỬ DỤNG
9. Súng đạn thể thao quốc
phòng chỉ được dùng vào việc luyện tập và thi đấu thể thao, khi cần thiết
sử dụng vào việc giữ gìn trật tự trị an. Tuyệt đối không được dùng súng đạn thể
thao quốc phòng vào việc săn bắn chim, thú, cá… để giải trí, cải thiện sinh hoạt..v.v
Trường hợp đặc biệt cần sử dụng súng đạn thể thao quốc phòng vào việc săn
bắn chim, thú quý để phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học phải được phép của
Bộ công an, Ủy ban thể dục thể thao và Tổng cục Lâm nghiệp.
10. Người được mang giữ súng đạn
thể thao quốc phòng phải biết những điều tối thiểu về sử dụng súng như: biết bắn
súng, biết tháo lắp, bảo quản, lau chùi thông thường và hiểu rõ chế độ sử dụng,
bảo quản súng đạn.
11. Khi luyện tập hay công tác,
súng đạn phải mang luôn bên người, không đựơc cho người khác mượn hay giữ hộ.
Súng đạn thể thao quốc phòng không được mua bán, đổi chác hoặc biếu, tặng cho
cá nhân.
12. Nghiêm cấm không được ngắm
súng vào hướng có người, không được dùng súng đạn đùa giỡn hay đe doạ người
khác. Chỉ được nạp đạn vào nòng súng khi đứng tại vị trí bắt đầu bắn đạn thật ở
trường bắn hoặc đang trực tiếp chiến đấu, khi bắn xong hoặc không chiến đấu nữa
phải tháo đạn và xem xét lại nòng súng. Ngòai ra không được nạp đạn
vào nòng súng nhất là ở những nơi đông người như ở chợ, ở cuộc mít tinh,
trên tàu, xe ôtô.v.v…
13. Chỉ được nổ súng trong trường
hợp phải tự vệ chính đáng để bảo vệ tính mạng mình và người khác bị kẻ địch ám
hại.
14. Muốn bắn đạn thật trong luyện
tập, hay trong thi đấu, phải bắn tại trường bắn, nếu không có trường bắn phải
chọn nơi có đủ điều kiện bảo đảm an toàn và phải báo cáo cho công an sở tại biết
trước khi bắn. Trường hợp để xảy ra tai nạn, gây thương vong cho người, súc vật
thì người chỉ huy cuộc bắn đạn thật và người bắn phải chịu trách nhiệm.
15. Không được bắn đạn khác với
cỡ súng.
16. Người mang súng đạn khi đi
công tác, học tập phải mang theo giấy phép dùng súng của công an cấp, kèm theo
giấy giới thiệu của cơ quan hoặc giấy chứng nhận của Ban thể dục thể thao cấp tỉnh,
thành, ngành. Khi các cán bộ, chiến sĩ có trách nhiệm đã được quy định quản lý
vũ khí của Hội đồng Chính phủ cần kiểm soát, phải sẵn sàng xuất trình giấy tờ,
không từ chối.
IV. VẬN CHUYỂN
17. Vận chuyển súng đạn thể thao
quốc phòng từ tỉnh này sang tỉnh khác phải có giấy phép vận chuyển do Sở, Ty
công an cấp, theo giấy giới thiệu của Ủy ban thể dục thể thao trung ương hoặc
Ban thể dục thể thao tỉnh, thành, ngành. Cơ quan xin vận chuyển cần ghi rõ số lượng
các loại súng, đạn, địa chỉ đi đến, thời gian vận chuyển, tên chức vụ người chịu
trách nhiệm cuộc vận chuyển, tên người lái xe và số xe.
18. Vận chuyển súng đạn trong phạm
vi một tỉnh, không phải xin giấy phép của Sở, Ty công an, nhưng phải có giấy giới
thiệu của cơ quan do thủ trưởng cơ quan quản ký, giấy giới thiệu cần ghi rõ nội
dung như điều 17.
19. Khi vận chuyển súng đạn, bất
cứ xa hay gần, ngoài người lái xe, còn phải có người đi theo bảo vệ. Khi cần phải
nghỉ ở dọc đường phải báo cho công an địa phương biết và phải tổ chức việc bảo
vệ chu đáo, không được đỗ xe đang chở vũ khí ở chợ hoặc nơi đông người.
V. SẢN XUẤT, SỬA CHỮA
20. Ngoài binh công xưởng, các
cơ sở sản xuất, sửa chữa vũ khí của các lực lượng vũ trang, chỉ có cơ sở, xí
nghiệp của Nhà nước được Bộ công an cấp giấy phép mới được sản xuất, sửa chữa
súng đạn thể thao quốc phòng , các cơ sở hợp tác xã, tư nhân không được sản xuất
sữa chữa súng đạn thể thao.
Các cơ sở được cấp phép sản xuất
súng đạn thể thao chỉ được nhận sản xuất theo kế hoạch và hợp đồng của Ủy ban
thể dục thể thao. Ngoài ra không được sản xuất súng đạn cho các cơ quan khác,
hoặc cá nhân.
21. Việc sửa chữa súng thể thao
quốc phòng, nếu bị hư hỏng thông thường, các cơ sở có thể tự mua phụ tùng thay
thế, phụ tùng do Ủy ban thể dục thể thao trung ương và Ban thể dục thể thao tỉnh,
thành, ngành phân phối.
22. Các cơ sở được phép sửa chữa
súng thể thao quốc phòng chỉ được nhận sửa chữa súng đạn thể thao, khi có giấy
giới thiệu của cơ quan người đến thuê sửa chữa, kèm theo giấy phép dùng súng của
công an cấp và giấy chứng minh của người ấy.
23. Các cơ sở được phép sản xuất,
sửa chữa súng đạn thể thao quốc phòng phải chấp hành đầy đủ các thủ tục và sự
hướng dẫn kiểm soát của cơ quan công an. Khi có sự thay đổi người, địa điểm, mở
rộng hay thu hẹp phạm vi sản xuất, sửa chữa đều phải được phép của cơ quan công
an nơi cấp giấy phép trước.
24. Thông tư này thi hành kể từ
ngày ký.
KT. CHỦ NHIỆM
ỦY BAN THỂ DỤC THỂ THAO
PHÓ CHỦ NHIỆM
Nguyễn Văn Quạn
|
KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ CÔNG AN
THỨ TRƯỞNG
Nguyễn Quang Việt
|