TÒA
ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
377-TC
|
Hà
Nội, ngày 25 tháng 04 năm 1961
|
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN VIỆC TỔ CHỨC BẦU CỬ THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN
CỦA CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG
Để thi hành Hiến pháp, luật tổ
chức Tòa án nhân dân ngày 14 tháng 07 năm 1960 và pháp lệnh quy định cụ thể về
tổ chức Tòa án nhân dân tối cao và tổ chức của các Tòa án nhân dân địa phương
ngày 23-03-1961, Tòa án nhân dân tối cao ra thông tư này để hướng dẫn việc tổ
chức bầu cử thẩm phán và hội thẩm nhân dân của các Tòa án nhân dân địa phương.
I. BẦU CỬ CÁC
THẨM PHÁN CỦA CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG
1. Mục đích,
ý nghĩa của việc bầu cử các thẩm phán của các Tòa án nhân dân địa phương:
Trong công cuộc cải tạo xã hội
chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất
nước nhà, Tòa án nhân dân giữ một vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm tôn
trọng và chấp hành pháp luật và chính sách của Đảng và Nhà nước. Tòa án nhân
dân là cơ quan xét xử những vụ án hình sự và dân sự để trừng trị những kẻ phạm
tội và giải quyết những việc tranh chấp về dân sự trong nhân dân. Trong Nhà nước
dân chủ nhân dân đang làm nhiệm vụ của chuyên chính vô sản, Tòa án nhân dân là
một công cụ trọng yếu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động để bảo vệ chế
độ, bảo vệ trật tự xã hội, tài sản công cộng và quyền lợi hợp pháp của nhân
dân. Thông qua toàn bộ hoạt động của mình, Tòa án giáo dục công dân trung thành
với Tổ quốc, với chế độ dân chủ nhân dân, tôn trọng tài sản công cộng, tự giác
tuân theo pháp luật, kỷ luật lao động, chấp hành đúng đắn mọi chính sách của Đảng
và Nhà nước. Đó là những nhiệm vụ nặng nề và khó khăn; cho nên Tòa án nhân dân
phải do những cán bộ được sự tín nhiệm của nhân dân và có đủ năng lực phụ trách
và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Vì vậy, hiến pháp và luật tổ chức Tòa án
nhân dân đã quy định rằng: các Tòa án nhân dân thực hành chế độ thẩm phán bầu.
Thẩm phán của các tòa án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu
ra và bãi miễn.
Trước đây, các thẩm phán của các
Tòa án nhân dân do Chính phủ bổ nhiệm. Thực hành chế độ thẩm phán bầu có nghĩa
là mở rộng dân chủ và tăng cường tính chất nhân dân của tổ chức tòa án, thực hiện
thêm đầy đủ quyền làm chủ nước nhà, làm chủ xã hội của nhân dân, làm cho tòa án
thực sự là tòa án của nhân dân.
Hiện nay, thẩm phán của các Tòa
án nhân dân địa phương còn thiếu và yếu. Vì vậy, việc thực hiện chế độ thẩm
phán bầu sẽ là một dịp để tăng cường và kiện toàn các Tòa án nhân dân, làm cho các
Tòa án nhân dân có đủ số thẩm phán và các thẩm phán đó đều là những cán bộ có đức,
có tài, được sự tín nhiệm của nhân dân.
2. Tiêu chuẩn
và thành phần của các thẩm phán của các Tòa án nhân dân địa phương:
Trong tổ chức của tòa án nhân
dân, các thẩm phán là những cán bộ chuyên trách có trách nhiệm bảo đảm tốt việc
xét xử và hòa giải.
Để bảo đảm cho việc xét xử được
tốt, điều 25 luật tổ chức Tòa án nhân dân đã quy định rằng: "công dân có
quyền bầu cử và ứng cử từ hai mươi ba tuổi trở lên có thể được bầu làm thẩm
phán".
Trong công tác xét xử và hòa giải,
thẩm phán các Tòa án nhân dân thương phải giải quyết những vấn đề khó khăn và
phức tạp về hình sự và về dân sự. Muốn giải quyết được đúng đắn những vấn đề
đó, thẩm phán phải đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân và phải nắm
vững được những chính sách của Đảng và của Nhà nước.
Trong chế độ của chúng ta, thẩm
phán không những phải là người có khả năng mà còn phải là người có tinh thần
trách nhiệm cao, có tư cách, đạo đức tốt, có uy tính, có quan hệ tốt với quần
chúng. Nếu thẩm phán không gương mẫu trong công tác và trong đời sống và không
được nhân dân tín nhiệm thì không thể có tác dụng giáo dục nhân dân.
Nói tóm lại, những người được bầu
làm thẩm phán của các Tòa án nhân dân cần có đủ những tiêu chuẩn sau đây:
1. Có quyền bầu cử và ứng cử, từ
hai mươi ba tuổi trở lên;
2. Có lập trường cách mạng vững
và nắm vững được những chính sách của Đảng và Nhà nước;
3. Có tinh thần công tác
và tư cách, đạo đức tốt, có quan hệ tốt với quần chúng nhân dân.
Ở trong các Tòa án nhân dân
thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương, và
khu tự trị, Ủy ban thẩm phán và tổ chức có trách nhiệm lãnh đạo công tác xét xử
của tòa án. Những người được bầu làm ủy viên Ủy ban thẩm phán được chọn trong số
thẩm phán của các Tòa án đó.
Các thẩm phán của các Tòa án
nhân dân địa phương có thể là đại biểu Hội đồng nhân dân hoặc không phải là đại
biểu Hội đồng nhân dân.
Trong việc bầu cử các thẩm phán
của các Tòa án nhân dân địa phương cần chú ý những điểm sau đây:
- Ở miền núi, đại đa số thẩm
phán phải là người cán bộ dân tộc thiểu số;
- Chú ý bầu cử cán bộ phụ nữ làm
thẩm phán của các cấp tòa án nhân dân. Trong điều kiện hiện nay, cần bảo đảm
cho mỗi Tòa án nhân dân thành phố trực thuộc trung ương, tỉnh hoặc đơn vị hành
chính tương đương, khu tự trị có ít nhất một thẩm phán là phụ nữ.
3. Nhiệm kỳ
của các thẩm phán của các Tòa án nhân dân địa phương:
Theo điều 27 của luật tổ chức
tòa án nhân dân thì nhiệm kỳ của Chánh án, Phó chánh án, các thẩm phán và ủy
viên Ủy ban thẩm phán của các Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc
trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương là bốn năm.
Theo điều 28 của luật tổ chức
tòa án nhân dân thì nhiệm kỳ của Chánh án, Phó chánh án và thẩm phán của các Tòa
án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương
đương là ba năm.
4. Sở thẩm
phán và ủy viên Ủy ban thẩm phán của các Tòa án nhân dân địa phương:
Trong tổ chức của tòa án, thẩm
phán có trách nhiệm xét xử hoặc hòa giải các vụ án. Muốn cho việc xét xử hoặc
hòa giải được tốt, thẩm phán phải tự mình nghiên cứu hồ sơ ngay từ đầu, nếu cần
thiết thì hỏi cung những người đương sự và can phạm hoặc đi xác minh tại chỗ.
Thẩm phán phải trực tiếp phụ trách những công việc đó thì mới nắm vững được những
tình tiết của vụ án, nắm vững được tư tưởng của những người đương sự và can phạm.
Hiện nay, nói chung, các Tòa án nhân dân địa phương thiếu thẩm phán cho nên có
nhiều trường hợp thẩm phán giao cho các thư ký hòa giải, hỏi cung, đi xác minh
thực tế mà mình không trực tiếp tham gia; có nơi thẩm phán chỉ trực tiếp nghiên
cứu hồ sơ khi gần xét xử. Làm như vậy thì việc xét xử không được tốt và không
đúng với trách nhiệm của thẩm phán. Để cho các Tòa án nhân dân địa phương có đủ
thẩm phán là những người có đủ thẩm quyền và có đủ khả năng và uy tín để xét xử
hòa giải, hỏi cung... điều 17 của luật tổ chức tòa án nhân dân và điều 15 của
pháp lệnh ngày 23-03-1961 đã quy định rằng:
- Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh
trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương gồm có Chánh án, một
hoặc nhiều Phó chánh án và các thẩm phán. Số thẩm phán của các Tòa án nhân dân
thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương, kể
cả Chánh cá và Phó chánh án, có từ bốn đến bảy người. Số ủy viên Ủy ban thẩm
phán của các Tòa án nhân dân đó có từ ba đến năm người;
- Tòa án nhân dân thành phố thuộc
tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương gồm có Chánh án và thẩm
phán, nếu cần thiết thì có Phó chánh án. Số thẩm phán của các Tòa án nhân dân
thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương, kể cả
Chánh án và Phó chánh án, không quá ba người;
- Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao hướng dẫn cụ thể số thẩm phán và ủy viên Ủy ban thẩm phán cần bầu cho mỗi
Tòa án nhân dân địa phương trong phạm vi quy định nói trên.
Để thi hành điều 15 của pháp lệnh
ngày 23-03-1961, Tòa án nhân dân tối cao định ra hướng chung trong việc ấn định
số thẩm phán và ủy viên Ủy ban thẩm phán của các Tòa án nhân dân địa phương như
sau:
- Các Tòa án nhân dân tỉnh ít nhất
phải có bốn thẩm phán; các Tòa án nhân dân tỉnh tương đối quan trọng thì có năm
thẩm phán, các Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh lớn, quan trọng thì có sáu hoặc
bảy thẩm phán;
- Các Ủy ban thẩm phán có ba hoặc
năm ủy viên. Những tòa án nào có bốn hoặc năm thẩm phán thì Ủy ban thẩm phán có
ba ủy viên; những tòa án nào có sáu hoặc bảy thẩm phán thì Ủy ban thẩm phán có
ba hoặc năm ủy viên;
- Nói chung, các Tòa án nhân dân
huyện có hai thẩm phán (Chánh án và một thẩm phán). Tòa án nhân dân thành phố
thuộc tỉnh Nam Định và những Tòa án nhân dân huyện lớn, dân số nhiều, công việc
nhiều, thì có thể có ba thẩm phán (Chánh án, Phó chánh án và một thẩm phán).
Theo điều 2 của luật tổ chức tòa án nhân dân thì ở các thị xã đều có Tòa án
nhân dân thị xã những tòa án nhân dân thị xã quá nhỏ thì có thể chỉ có một
Chánh án.
Tòa án nhân dân tối cao xin gửi
kèm theo đây công văn số 378-TC ngày 25-04-1961 định số thẩm phán và ủy viên Ủy
ban thẩm phán cần bầu cho mỗi Tòa án nhân dân địa phương(11).
5. Cách tiến
hành bầu cử và cơ quan phụ trách việc bầu cử các thẩm phán và ủy viên Ủy ban thẩm
phán của các Tòa án nhân dân địa phương.
Những điều 27 và 28 của luật tổ
chức tòa án nhân dân và điều 15 của pháp lệnh ngày 23-03-1961 đã quy định rằng:
Chánh án, Phó chánh án, các ủy viên Ủy ban thẩm phán và thẩm phán của Tòa án
nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Vì vậy, phải bầu cử
người cho từng chức vụ nói trên.
Để bảo đảm cho việc bầu cử thu
được kết quả tốt, ngay khi Hội đồng nhân dân bắt đầu họp, chúng tôi xin có ý kiến
rằng đoàn chủ tịch nên chuẩn bị cho việc bầu cử thẩm phán của Tòa án nhân dân địa
phương và nên trình bày với Hội đồng nhân dân về mục đích, ý nghĩa và phương
pháp bầu cử các thẩm phán của các Tòa án nhân dân địa phương.
Việc lập danh sách những người ứng
cử thẩm phán của các Tòa án nhân dân địa phương có thể tiến hành theo phương
pháp sau đây:
- Đoàn chủ tịch của hội nghị phổ
biến cho các vị đại biểu Hội đồng nhân dân về tiêu chuẩn của thẩm phán của tòa
án nhân dân;
- Căn cứ vào những tiêu chuẩn
đó, các tổ đại biểu Hội đồng nhân dân sẽ giới thiệu những ứng cử viên vào những
chức vụ cụ thể trong tòa án (như: Chánh án, Phó chánh án, thẩm phán, ủy viên Ủy
ban thẩm phán). Đoàn chủ tịch tập hợp ý kiến của các tổ và nên có ý kiến giới
thiệu riêng của mình. Danh sách những ứng cử viên sẽ đưa trở lại cho các tổ thảo
luận. Danh sách cuối cùng của những ứng cử viên nên được niêm yết trong phòng hội
nghị.
Việc bầu cử sẽ tiến hành theo
các bổ phiếu kín. Để cho việc bầu cử tiến hành được nhanh và gọn, trong cùng một
phiếu bấu, các vị đại biểu Hội đồng nhân dân sẽ ghi rõ tên những người mà mình
bầu vào từng chức vụ cụ thể như: Chánh án, Phó chánh án, thẩm phán. Ở cấp thành
phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương, trong phiếu
bầu, các vị đại biểu Hội đồng nhân dân sẽ ghi rõ cả tên của những người mà mình
bầu làm ủy viên của Ủy ban thẩm phán.
Ban kiểm phiếu có thể gồm có từ
ba đến năm người; những người này phải là những người không ra ứng cử.
Cũng như đối với việc bầu cử Ủy
ban hành chính, ứng cử viên nào được quá nửa số phiếu hợp lệ thì trúng cử. Nếu
trong cuộc bầu lần thứ nhất mà số người trúng cử chưa đủ số cần bầu, thì tổ chức
cuộc bầu cử lần thứ hai. Lần này, ứng cử viên nào được nhiều phiếu hơn thì
trúng cử.
Biên bản của các cuộc bầu cử đều
phải gửi cho Tòa án nhân dân tối cao một bản. Những người trúng cử phải sớm thu
xếp công việc để có thể nhận ngay công tác ở tòa án.
Tòa án nhân dân và Ủy ban hành
chính ở địa phương cần phối hợp chặt chẽ để chuẩn bị tốt việc bầu cử các thẩm
phán và ủy viên Ủy ban thẩm phán của các Tòa án nhân dân địa phương.
6. Thời gian
tiến hành bầu cử các thẩm phấn của các Tòa án nhân dân địa phương:
Việc bầu cử các thẩm phán của
các Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành
chính tương đương cần được tiến hành trong hội nghị gần nhất của Hội đồng nhân
dân.
Việc bầu cử các thẩm phán của
các Tòa án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính
tương đương phải tiến hành trong hội nghị đầu tiên của các Hội đồng nhân dân
cùng cấp sau khi các Hội đồng nhân dân này đã được nhân dân bầu ra.
II. BẦU CỬ
CÁC HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG
Hiện nay, đại đa số Tòa án nhân
dân địa phương đã có các hội thẩm nhân dân do các Hội đồng nhân dân bầu ra. Các
hội thẩm nhân dân của các Tòa án nhân dân huyện trước đây do các Hội đồng nhân
dân xã bầu ra; nay điều 16 của pháp lệnh ngày 23-03-1961 quy định rằng: các hội
thẩm nhân dân của các Tòa án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp
bầu ra và bãi miễn. Phần lớn hội thẩm nhân dân cũng sắp hết nhiệm kỳ. Cần phải
tiến hành bầu cử hội thẩm nhân dân ở những nơi mà hội thẩm nhân dân hết nhiệm kỳ.
Việc bầu cử hội thẩm nhân dân
trước đây đã có thông tư Liên bộ Nội vụ - Tư pháp số 06-TT/LB ngày 09-03-1959
quy định. Nay có một số quy định mới cho nên thông tư này của Tòa án nhân dân tối
cao sẽ thay thế cho thông tư số 06-TT/LB nói trên.
1. Mục
đích, ý nghĩa của việc bầu cử các hội thẩm nhân dân của các Tòa án nhân dân địa
phương.
Điều 99 của Hiến pháp và điều 11
của luật tổ chức tòa án nhân dân đã quy định rằng việc xét xử các ở tòa án nhân
dân có hội thẩm nhân dân tham gia. Việc bầu cử hội thẩm nhân dân nhằm thực hiện
sự tham gia của nhân dân trong công tác xét xử để tăng cường tính chất nhân dân
trong tổ chức của tòa án nhân dân và để thắt chặt quan hệ giữa tòa án và nhân
dân. Chế độ hội thẩm nhân dân là một hình thức tham gia quản lý công việc Nhà
nước của đông đảo quần chúng. Sự tham gia của hội thẩm nhân dân làm cho tòa án
xét xử được tốt vì các hội thẩm nhân dân sinh hoạt trong nhân dân, hiểu rõ được
những tư tưởng, tình cảm, phong tục tập quán của nhân dân, cho nên với sự tham
gia xét xử của hội thẩm nhân dân, tòa án xét xử được sát thực tế và sát với
nguyện vọng của nhân dân. Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã có một kinh nghiệm
lớn là: nơi nào mà hội thẩm nhân dân tích cực tham gia công tác tư pháp, thì
công tác xét xử của tòa án rất tốt, công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật
làm được nhiều, tư pháp xã hòa giải, dàn xếp được rất nhiều việc xích mích,
tranh chấp trong nhân dân, và do đó công việc của tòa án cũng bớt đi được rất
nhiều.
Muốn thực hiện tốt chế độ hội thẩm
nhân dân, trước tiên phải thực hiện tốt việc bầu cử hội thẩm nhân dân.
2. Tiêu
chuẩn và thành phần của các hội thẩm nhân dân.
Điều 11 và điều 12 của luật tổ
chức tòa án nhân dân đã quy định: khi sơ thẩm tòa án nhân dân gồm một thẩm phán
và hai hội thẩm nhân dân; khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm
phán và tòa án nhân dân quyết định theo đa số.
Để hội thẩm nhân dân làm tốt nhiệm
vụ mà Nhà nước và nhân dân đã giao cho, điều 25 của luật tổ chức tòa án nhân
dân đã quy định: công dân có quyền bầu cử và ứng cử từ hai mươi ba tuổi trở lên
có thể được bầu làm hội thẩm nhân dân. Ngoài điều kiện đó hội thẩm nhân dân còn
phải là người tích cực thi hành pháp luật và những chính sách của Đảng và Nhà
nước, tích cực công tác, tư cách đạo đức tốt và có quan hệ tốt với quần chúng.
Nếu hội thẩm nhân dân không có những tiêu chuẩn nói trên thì không thể xứng
đáng là đại biểu của nhân dân tại tòa án.
Nói tóm lại, những người được bầu
làm hội thẩm nhân dân phải có đủ những tiêu chuẩn sau đây:
1. Có quyền bầu cử và ứng cử, từ
hai mươi ba tuổi trở lên;
2. Tích cực thi hành những chính
sách của Đảng và Nhà nước;
3. Tích cực công tác, đạo đức tư
cách tốt, được nhân dân tín nhiệm.
Hội thẩm nhân dân có thể là đại
biểu Hội đồng nhân dân hoặc không phải là đại biểu Hội đồng nhân dân.
Nên bầu làm hội thẩm nhân dân,
những công nhân, nông dân, lao động trí óc tiên tiến, v.v...
Đa số hội thẩm nhân dân phải là
công nhân và nông dân. Ở miền núi, đại đa số hội thẩm nhân dân là người dân tộc
thiểu số. Số hội thẩm nhân dân là phụ nữ phải chiếm khoảng 20% tổng số hội thẩm
nhân dân. Những người nào đã quá bận công tác của Nhà nước hoặc của đoàn thể
thì không nên làm hội thẩm nhân dân.
Ở những vùng có đồng bào công
giáo tập trung, cần có hội thẩm nhân dân là giáo dân.
3. Nhiệm kỳ
của hội thẩm nhân dân.
Để mở rộng sự tham gia của nhân
dân vào công tác của Tòa án, nhiệm kỳ của hội thẩm nhân dân của Tòa án nhân dân
địa phương các cấp thống nhất là hai năm.
4. Số hội
thẩm nhân dân.
Điều 17 của pháp lệnh ngày
23-03-1961 đã giao cho Hội đồng nhân dân quyết định về số hội thẩm nhân dân của
Tòa án nhân dân cùng cấp, căn cứ vào đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân đó.
Để cho việc quy định số hội thẩm
nhân dân được thống nhất giữa các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án nhân dân tối
cao định ra hướng chung trong việc quy định số hội thẩm nhân dân của các Tòa án
nhân dân địa phương như sau:
A. Số hội thẩm nhân dân của Tòa
án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương
đương tính theo nguyên tắc sau đây:
- Mỗi thị trấn, xã hoặc khu vực
tương đương ở thị xã cần có hai hội thẩm nhân dân; trường hợp đặc biệt những xã
lớn và quan trọng thì có thể có ba hội thẩm nhân dân.
Ở các khu phố thuộc các thành phố
Hà Nội, nhân dân ở tập trung, cho nên, có thể cử hai hoặc ba khối mới cần có một
hội thẩm nhân dân. Ở thành phố Hải Phòng, việc tính số hội thẩm nhân dân cũng
theo nguyên tắc như đã nói ở trên đối với trong Hà nội.
- Ngoài số hội thẩm nhân dân là
những cán bộ ở các thị trấn, xã hoặc khu vực tương đương với xã, ở các thành phố,
cần có từ ba đến năm hội thẩm nhân dân là cán bộ của các cơ quan, đoàn thể
chung quanh thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương
đương.
B. Số hội thẩm nhân dân của các
Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính
tương đương tính theo nguyên tắc sau đây:
- Mỗi thành phố thuộc tỉnh, thị
xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương đương cần có từ hai đến năm hội thẩm
nhân dân của Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị
hành chính tương đương:
- Ngoài số hội thẩm nhân dân là
cán bộ ở thành phố thuộc tỉnh, thị xã, huyện hoặc đơn vị hành chính tương
đương, cần có từ năm đến chính hội thẩm nhân dân là cán bộ của các cơ quan,
đoàn thể chung quanh tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương
đương; ở các thành phố Hà nội, Hải phòng, số hội thẩm nhân dân là cán bộ của
các cơ quan, đoàn thể chung quanh thành phố có thể nhiều hơn.
5. Cách tiến
hành bầu cử và cơ quan phụ trách việc bầu cử các hội thẩm nhân dân:
Để nêu rõ tính chất quần chúng của
chế độ hội thẩm nhân dân, điều 17 của pháp lệnh ngày 23-03-1961 đã quy định rằng:
danh sách những người ứng cử hội thẩm nhân dân của mỗi Tòa án nhân dân địa
phương do các đoàn thể nhân dân cùng cấp giới thiệu. Để thi hành quy định đó,
Tòa án nhân dân phải liên hệ mật thiết với Ủy ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp để
chuẩn bị danh sách những người mà các đoàn thể nhân dân giới thiệu ứng cử hội
thẩm nhân dân.
Khi Hội đồng nhân dân họp, đoàn
chủ tịch nên trình bày rõ với hội nghị về mục đích, ý nghĩa của việc bầu cử hội
thẩm nhân dân và danh sách những người ứng cử hội thẩm nhân dân được giới thiệu.
Danh sách đó cũng nên được niêm yết trong phòng họp.
Các vị đại biểu Hội đồng nhân
dân sẽ bầu ra các hội thẩm nhân dân theo cách bỏ phiếu kín.
Tổ chức kiểm phiếu và điều kiện
để được trúng cử hội thẩm nhân dân cũng nên định như nói trên về việc bầu cử
các thẩm phán của các Tòa án nhân dân địa phương.
Biên bản của các bầu cử hội thẩm
nhân dân đều phải gửi cho Tòa án nhân dân tối cao một bản.
Ủy ban hành chính và Tòa án nhân
dân địa phương cần phối hợp chặt chẽ để chuẩn bị tốt việc bầu cử hội thẩm nhân
dân.
6. Thời
gian tiến hành bầu cử các hội thẩm nhân dân của các Tòa án nhân dân địa phương:
Việc bầu cử hội thẩm nhân dân
huyện cần tiến hành trong hội nghị đầu tiên của Hội đồng nhân dân sau khi Hội đồng
nhân dân huyện đã được bầu ra.
Nếu hội thẩm nhân dân của các
Tòa án nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính
tương đương, khu tự trị, thị xã, hết nhiệm kỳ thi phải tổ chức bầu cử hội thẩm
nhân dân của các Tòa án đó trong cuộc hội nghị gần nhất của Hội đồng nhân dân.
Nếu hội thẩm nhân dân của Tòa án
nhân dân thành phố và tỉnh trực thuộc trung ương hoặc đơn vị hành chính tương
đương, khu tự trị, thị xã, chưa hết nhiệm kỳ thì chưa phải bầu lại, nếu quá thiếu
hội thẩm nhân dân thì có thể đề nghị Hội đồng nhân dân bầu cử bổ sung.
III. TUYÊN
TRUYỀN TRONG DỊP BẦU CỬ CÁC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
ĐỊA PHƯƠNG
Các thẩm phán và hội thẩm nhân
dân là những đại biểu của nhân dân, do các Hội đồng nhân dân bầu ra và bãi miễn.
Vì vậy, khi bầu cử thẩm phán và hội thẩm nhân dân cần phải để cho nhân dân thấy
rõ mục đích và ý nghĩa của việc bầu cử thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Khi
tuyên truyền, cần phải kết hợp giải thích rõ về chức năng và nhiệm vụ của tòa
án nhân dân để là cho nhân dân thấy rõ trách nhiệm của các thẩm phán và hội thẩm
nhân dân. Trong cuộc bầu cử hội thẩm nhân dân năm 1959, nhiều địa phương không
chú ý đến công tác tuyên truyền cho nên nhân dân không hiểu rõ mục đích và ý
nghĩa của việc bầu cử hội thẩm nhân dân, một số người được bầu làm hội thẩm nhân
dân cũng không hào hứng với công tác mới.
Trong dịp bầu cử thẩm phán và hội
thẩm nhân dân của các Tòa án nhân dân địa phương, có thể dùng những hình thức
tuyên truyền sau đây:
- Tòa án nhân dân cử cán bộ tổ
chức những buổi nói chuyện rộng rãi với cán bộ công nhân của các cơ quan và
đoàn thể cùng cấp về mục đích và ý nghĩa của việc bầu cử thẩm phán và hội thẩm
nhân dân;
- Bồi dưỡng cho các ủy viên tư
pháp xã, các hội thẩm nhân dân, các đại biểu đoàn thể nhân dân ở xã đi nói chuyện
rộng rãi trong các cuộc họp của nhân dân về mục đích và ý nghĩa của việc bầu cử
thẩm phán và hội thẩm nhân dân.
- Nếu ở địa phương có bầu cử lại
Hội đồng nhân dân, thì phải kết hợp với cuộc tuyên truyền vận động về bầu cử Hội
đồng nhân dân mà tuyên tuyền về mục đích ý nghĩa của việc bầu cử thẩm phán và hội
thẩm nhân dân.
Tùy hoàn cảnh của mỗi địa
phương, các tòa án nhân dân phải phối hợp chặt chẽ với tổ chức tuyên huyến và tổ
chức phụ trách việc bầu cử ở địa phương để có kế hoạch thích hợp về việc tuyên
truyền trong dịp bầu cử thẩm phán và hội thẩm nhân dân.
*
* *
Trên đây là một số điểm cụ thể
trong việc tổ chức bầu cử thẩm phán và hội thẩm nhân dân của các Tòa án nhân
dân địa phương. Nếu trong khi thực hiện, có gặp khó khăn, thì các Tòa án nhân
dân địa phương cần báo cáo cho Tòa án nhân dân tối cao biết để kịp thời giải
quyết.
(1)
Không đăng trong Công báo.
|
CHÁNH
ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Phạm Văn Bạch
|