HỘI
ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
154-HĐBT
|
Hà
Nội, ngày 25 tháng 9 năm 1989
|
THÔNG TƯ
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 154-HĐBT NGÀY 25-9-1989
HƯỚNG DẪN VỀ TỔ CHỨC UỶ BAN NHÂN DÂN CÁC CẤP
Ngày 30 tháng 6 năm
1989, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ V,
đã thông qua Luật tổ chức Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân. Căn cứ vào điều
48 của Luật tổ chức Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân, Hội đồng Bộ trưởng hướng
dẫn một số điểm thi hành Luật nói trên như sau :
1. Về số lượng
và cơ cấu Uỷ ban Nhân dân các cấp.
a) Số lượng thành viên Uỷ ban
Nhân dân. Điều 48 luật tổ chức Hội đồng Nhân dân và Uỷ ban Nhân dân đã ghi mức
tối thiểu và tối đa số lượng thành viên Uỷ ban Nhân dân từng cấp. Căn cứ vào
tình hình cụ thể ở địa phương, và trong phạm vi quy định của Luật, mỗi cấp ấn định
số lượng thành viên Uỷ ban Nhân dân đủ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, càng gọn càng
tốt, không nhất thiết lấy mức tối đa.
b) Số Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân
dân mỗi cấp :
- Cấp tỉnh và tương đương có từ
3 đến 4 Phó Chủ tịch; riêng Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có từ 4 đến
5 Phó Chủ tịch.
- Cấp huyện và tương đương có 2
Phó Chủ tịch. Cấp quận ở nội thành Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có thể
có 3 Phó Chủ tịch.
- Cấp xã và tương đương có 1 Phó
Chủ tịch.
c) Phân công trong Uỷ ban Nhân
dân các cấp :
- Cấp tỉnh và tương đương :
Chủ tịch phụ trách chung.
Các Phó Chủ tịch thì phân công 1
hoặc 2 đồng chí phụ trách kinh tế, một đồng chí phụ trách văn hoá xã hội. Nếu
có 2 Phó Chủ tịch phụ trách kinh tế thì 1 đồng chí phụ trách kinh tế tổng hợp,
1 đồng chí phụ trách sản xuất kinh doanh. Tuỳ điều kiện cụ thể ở từng nơi, có
thể phân công 1 Phó Chủ tịch phụ trách nội chính, hoặc đồng chí Chủ tịch trực
tiếp chỉ đạo công tác này.
Đồng chí Phó Chủ tịch thường trực
nên trực tiếp phụ trách lĩnh vực kinh tế tổng hợp.
Riêng Thủ đô Hà nội và thành phố
Hồ Chí Minh cần phân công 1 Phó Chủ tịch phụ trách công tác quản lý đô thị.
Các Uỷ viên Uỷ ban Nhân dân thì
tuỳ tình hình cụ thể mà phân công phụ trách các lĩnh vực Kế hoạch, Tài chính,
Thanh tra, Văn hoá thông tin, Công an, Quân sự và một số lĩnh vực khác. Uỷ viên
Uỷ ban Nhân dân trực tiếp làm Giám đốc Sở hoặc Uỷ ban trực thuộc Uỷ ban Nhân
dân.
- Cấp huyện và tương đương :
Chủ tịch phụ trách chung.
ở các huyện, thị xã thì 1 Phó Chủ
tịch thường trực phụ trách kinh tế, 1 Phó Chủ tịch phụ trách văn hoá xã hội. ở
các quận nội thành Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh nếu có 3 Phó Chủ tịch thì
phân công 2 đồng chí phụ trách kinh tế và quản lý đô thị, 1 đồng chí phụ trách
văn hoá xã hội. Công tác nội chính do đồng chí Phó Chủ tịch phụ trách văn hoá
xã hội kiêm hoặc đồng chí Chủ tịch trực tiếp chỉ đạo
Các Uỷ viên khác thì phân công
phụ trách các lĩnh vực Kế hoạch, Tài chính, Công an, Quân sự, Văn hoá thông
tin,... trực tiếp làm Trưởng phòng, Trưởng ban thuộc Uỷ ban Nhân dân.
- Cấp xã và tương đương :
Chủ tịch phụ trách chung và trực
tiếp chỉ đạo các vấn đề kinh tế. Một Phó Chủ tịch phụ trách các mặt công tác
văn hoá, xã hội, nội chính
Các Uỷ viên khác của Uỷ ban Nhân
dân xã, phường thì tuỳ tình hình cụ thể ở địa phương mà Uỷ ban Nhân dân tỉnh,
thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương hướng dẫn cụ thể sự phân công cho
thích hợp.
Về tiêu chuẩn thành viên Uỷ ban
Nhân dân các cấp. Uỷ viên Uỷ ban Nhân dân phải là người có phẩm chất chính trị,
có uy tín trong Nhân dân, có năng lực tổ chức thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn
của Uỷ ban Nhân dân, có kiến thức quản lý Nhà nước, nắm vững pháp luật, chính
sách, đã được đào tạo chính quy hoặc bồi dưỡng tại chức ở các trường quản lý
hành chính ở trung ương và địa phương. Theo Luật định, Uỷ viên Uỷ ban Nhân dân
không nhất thiết phải là đại biểu Hội đồng Nhân dân.
2. Chế độ
làm việc của Uỷ ban Nhân dân.
- Uỷ ban Nhân dân các cấp làm việc
theo nguyên tắc tập thể, bàn bạc và quyết định tập thể các chủ trương quan trọng,
bảo đảm và phát huy trách nhiệm, quyền hạn của tập thể Uỷ ban, đồng thời đề cao
trách nhiệm và quyền hạn của Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân. Chủ tịch là người đứng đầu
Uỷ ban Nhân dân, chịu trách nhiệm trực tiếp trước Hội đồng Nhân dân địa phương
và Hội đồng Bộ trưởng hoặc Uỷ ban Nhân dân cấp trên.
- Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân và
các Phó Chủ tịch là bộ phận thường trực của Uỷ ban Nhân dân để chỉ đạo công việc
hàng ngày của Uỷ ban và chuẩn bị các vấn đề quan trọng để tập thể Uỷ ban bàn và
quyết định. Thường trực là cách làm việc, không phải là một tổ chức, không phải
là một cấp, cho nên không có các quyết định lấy danh nghĩa thường trực Uỷ ban
Nhân dân, Phó Chủ tịch cũng không phải là một cấp. Phó Chủ tịch giải quyết công
việc theo sự uỷ nhiệm của Chủ tịch, với danh nghĩa và quyền hạn của Chủ tịch Uỷ
ban Nhân dân.
- Về quan hệ công tác giữa Uỷ
ban Nhân dân và Thường trực Hội đồng Nhân dân, giữa Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân và
Chủ tịch Hội đồng Nhân dân , Hội đồng Nhà nước sẽ có hướng dẫn riêng.
- Mỗi Uỷ ban Nhân dân, với tinh
thần đổi mới phong cách làm việc theo cơ chế quản lý mới, cần xây dựng quy chế
làm việc cụ thể của Uỷ ban, định rõ các mối quan hệ về phân công trách nhiệm và
cách làm việc trong nội bộ Uỷ ban; quan hệ giữa Uỷ ban và các Sở, Phòng, Ban trực
thuộc Uỷ ban, quan hệ giữa Uỷ ban và Hội đồng Nhân dân, nhằm thực hiện đầy đủ
trách nhiệm và quyền hạn cơ quan chấp hành của Hội đồng Nhân dân, cơ quan hành
chính Nhà nước ở địa phương.