VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ
TỔ CÔNG TÁC CỦA TTgCP
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 849/TB-TCTTTg
|
Hà Nội, ngày 04 tháng 10 năm 2017
|
THÔNG BÁO
Ý KIẾN KẾT LUẬN CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VỀ KẾT QUẢ KIỂM TRA THÁNG 9 NĂM
2017 CỦA TỔ CÔNG TÁC CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Trong tháng 9 năm 2017, Tổ công tác
đã tiến hành 01 cuộc kiểm tra chuyên đề thực tế việc thực hiện các thủ tục hải
quan, thủ tục kiểm tra chuyên ngành (KTCN) đối với hàng hóa xuất nhập khẩu tại
thành phố Hải Phòng (kiểm tra thực tế tại Cục Hải quan Hải Phòng, điểm KTCN của
Bộ Y tế, Bộ Khoa học và Công nghệ, Cơ quan Thú y vùng 2 thuộc Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, Công ty CP đầu tư phát triển cảng Đình Vũ) và 03 cuộc kiểm
tra chuyên đề tại các Bộ quản lý chuyên ngành và địa phương liên quan trong việc
thực hiện các nhiệm vụ giao liên quan đến nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
KTCN đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, gồm: Bộ Y tế, Bộ Công Thương và Ủy ban
nhân dân thành phố Hải Phòng
Tổ công tác đã báo cáo Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ về kết quả kiểm tra tháng 9 của Tổ công
tác tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9. Sau khi nghe Báo cáo của Tổ công
tác, Thủ tướng Chính phủ đã nhất trí với Báo cáo của Tổ công tác và kết luận,
như sau:
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG
1. Kết quả kiểm
tra thực tế về việc thực hiện kiểm tra chuyên ngành
Tổ công tác đã kiểm tra thực tế tại
điểm KTCN của Bộ Y tế, Bộ Khoa học và Công nghệ, Cục Hải quan Hải Phòng, Cơ
quan Thú y vùng 2 thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Công
ty CP đầu tư phát triển cảng Đình Vũ. Qua kiểm tra thực tế cho thấy:
- Trong 8 tháng đầu năm 2017, tại Chi
cục Hải quan khu vực 3 - Cục Hải quan TP Hải Phòng có tổng
số 77.984 tờ khai xuất nhập khẩu, trong đó có 23.508 tờ khai
KTCN, chiếm tỷ lệ 36,4% trong tổng số tờ khai xuất nhập khẩu. Thời gian
thực hiện thông quan hàng hóa, phần thủ tục hải quan chiếm 28% thời gian, còn
72% là thời gian liên quan đến quản lý, kiểm tra chuyên ngành. Cụ thể: Thời
gian làm thủ tục thông quan từ khi tiếp nhận tờ khai đến khi kết thúc kiểm tra
chi tiết hồ sơ trung bình khoảng 46 phút đối với tờ khai luồng vàng và 1 tiếng
10 phút đối với tờ khai luồng đỏ. Nhưng đối với tờ khai mang hàng bảo quản để
chờ kết quả kiểm tra chuyên ngành thì thời gian từ khi
mang bảo quản đến khi thông quan trung bình khoảng 304 tiếng (12,6 ngày);
- Một số quy định còn chồng chéo,
xung đột, bất cập giữa các văn bản quy phạm pháp luật và cả văn bản hành chính
do các Bộ ban hành, tạo ra những rào cản, giấy phép con mang tính co kéo lợi
ích ngành, lợi ích cục bộ, dẫn đến một mặt hàng bị điều chỉnh bởi nhiều văn bản;
phải thực hiện nhiều thủ tục, KTCN của nhiều Bộ (tỷ lệ mặt hàng phải thực hiện
2 hoặc 3 thủ tục kiểm tra chuyên ngành, chiếm khoảng 58%), thậm chí của
nhiều đơn vị thuộc cùng một Bộ;
- Việc thống nhất ban hành danh mục
hàng hóa phải KTCN và gắn mã HS còn chậm; danh mục hàng hóa thuộc đối tượng
KTCN còn nhiều, phạm vi rộng (khoảng 100.000 nghìn mặt hàng); nhiều mặt
hàng chưa có tiêu chuẩn, quy chuẩn đầy đủ; chưa đẩy mạnh áp dụng quản lý rủi
ro, quản lý trên cơ sở đánh giá sự tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, chưa
chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm;
- Không thực hiện phân cấp cho các cơ
quan chuyên môn ở địa phương trong tiếp nhận hồ sơ đăng ký và cấp giấy tiếp nhận bản công bố hợp quy và giấy xác nhận
công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm đối với các sản phẩm xuất nhập khẩu
dẫn đến hồ sơ “ùn tắc”, kéo dài thời gian thông quan hàng hóa, gây phiền hà, tốn
kém chi phí và giảm cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp;
- Kiểm tra chuyên ngành còn mang tính
thủ tục, hồ sơ nhiêu khê, đòi hỏi phải xuất trình cả những giấy tờ không liên
quan đến chất lượng hàng hóa (như: B/L, hóa đơn, packing list...); không Kiểm
tra mẫu, chỉ nộp hồ sơ, lấy kết quả hoặc kiểm tra bằng cảm quan, cảm tính, phụ
thuộc nhiều vào chủ quan do chưa có quy chuẩn, tiêu chuẩn;
- Cách thức, phương pháp lấy mẫu kiểm
tra, kiểm nghiệm chưa khoa học, còn mang tính hình thức, thủ tục; có trường hợp
khi mở container để lấy mẫu kiểm tra, kiểm nghiệm không có sự giám sát, chứng
kiến của cơ quan hải quan theo quy định; hầu hết mẫu kiểm tra, kiểm nghiệm do
doanh nghiệp tự mang đến (mẫu xách tay), do đó mẫu kiểm tra, kiểm nghiệm không
mang tính đại diện cho lô hàng xuất nhập khẩu, không bảo đảm hiệu quả quản lý
nhà nước;
- Thực hiện việc KTCN đối với 100% lô
hàng trong quá trình thông quan không phân biệt thời điểm nhập khẩu, chủ thể nhập
khẩu, model hàng hóa đã từng kiểm tra hay chưa và không có loại trừ, kể cả hàng
hóa điện tử, hàng tiêu dùng, thực phẩm từ Châu Âu, Mỹ, Nhật nhưng tỷ lệ phát hiện
vi phạm rất thấp, dưới 0,1%, các vi phạm chủ yếu về thủ tục hành chính
(KTCN về an toàn thực phẩm của Bộ Y tế: kiểm tra 407 lô hàng nhưng phát hiện có
2 lô; kiểm tra động vật của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: kiểm tra
43.000 lô hàng, phát hiện có 20 lô);
- Tại điểm KTCN tập trung, các Bộ
chưa đầu tư trang bị máy móc, thiết bị để phân tích, thử
nghiệm, chỉ là nơi đăng ký kiểm tra, lấy mẫu và trả kết quả kiểm tra. Việc kiểm
tra chất lượng hàng hóa, kiểm nghiệm vẫn phải về phòng thí
nghiệm nội địa để kiểm tra. Điểm KTCN tập trung này chưa phát huy hiệu quả;
- Việc kết nối thông tin một cửa quốc
gia giữa Hải quan và các Bộ quản lý chuyên ngành còn bất cập; hệ thống công nghệ
thông tin chưa bảo đảm yêu cầu kết nối thông suốt, tự động, nhiều bộ chưa tham
gia vào hệ thống; cơ quan hải quan còn bị động trong việc tra cứu kết quả kiểm
tra chuyên ngành trên hệ thống một cửa quốc gia do hệ thống tự động không tự động
thông báo thời gian cấp kết quả KTCN (cán bộ hải quan phải tự rà soát hoặc chờ
doanh nghiệp cung cấp thông tin về kết quả KTCN).
Theo tính toán của Viện Quản lý kinh
tế Trung ương: Hiện nay, doanh nghiệp đang phải gánh một khoản chi phí và thời
gian rất lớn: gần 30 triệu ngày công và
14,3 nghìn tỷ đồng, cụ thể:
- Kiểm
dịch thực vật: 26.608 tờ khai (lô)/năm; thời gian
(trung bình) 7 ngày/lô; chi phí (trung bình) 0,67 triệu/lô. Trung bình 1 năm:
53,22 nghìn ngày công và 17,74 tỷ đồng.
- Kiểm dịch động vật/thú y: 191.092 tờ khai (lô)/năm; thời gian (trung bình) 7 ngày/lô; chi phí
(trung bình) 10,67 triệu/lô. Trung bình 1 năm: 1.337,64 nghìn ngày công và
2.038,31 tỷ đồng.
- Kiểm tra chất lượng, Kiểm tra hiệu
suất năng lượng: 250.518 tờ khai (lô)/năm; thời gian
(trung bình) 11 ngày/lô; chi phí (trung bình) 15,63 triệu/lô. Trung bình 1 năm:
3.055,45 nghìn ngày công và 3.602,84 tỷ đồng.
- Kiểm tra an toàn thực phẩm (kiểm tra nhà nước): 277.768 tờ khai (lô)/năm; thời gian (trung bình)
9 ngày/lô; chi phí (trung bình) 9,81 triệu/lô. Trung bình
1 năm: 2.777,68 nghìn ngày công và 2.725,60 tỷ đồng.
- Giấy phép nhập khẩu và các yêu cầu
tương đương: 840.014 tờ khai (lô)/năm; thời gian
(trung bình) 27,3 ngày/lô; chi phí (trung bình) 7 triệu/lô. Trung bình 1 năm:
22.960,4 nghìn ngày công và 5.880,1 tỷ đồng.
2. Kết quả kiểm
tra tại Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng
Theo kết quả rà soát, thống kê: Từ
ngày 01/01/2017 đến 10/9/2017, Ủy ban nhân dân TP Hải Phòng được giao 245 nhiệm
vụ. Trong đó, đã hoàn thành 193 nhiệm vụ (đúng hạn); chưa hoàn thành 52 nhiệm vụ
(trong hạn).
Thành phố Hải Phòng là một trung tâm
kinh tế, có vị trí địa kinh tế quan trọng, là cảng biển lớn nhất miền Bắc, có
lượng hàng hóa lưu thông qua cảng đạt hơn 58 triệu tấn trong 8 tháng đầu năm
2017, chiếm khoảng 30% lượng hàng hóa thông quan qua các cửa khẩu trong cả nước.
Những năm qua, thành phố Hải Phòng có bước phát triển toàn diện, đóng góp quan
trọng vào phát triển chung của đất nước; đổi mới mạnh mẽ về
tư duy, cách làm; có nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, cải thiện môi trường
kinh doanh; năm 2016 là năm thứ 4 liên tục thành phố xếp thứ 2 cả nước về chỉ số
CCHC và là một trong 10 địa phương hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư Việt
Nam. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tiếp tục có những đột
phá; các chỉ tiêu kinh tế 8 tháng đầu năm 2017 tăng trưởng
cao so với cùng kỳ: Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 20,61% so với cùng kỳ;
kim ngạch xuất khẩu tăng 22,33% so với cùng kỳ; sản lượng hàng hóa qua cảng 8
tháng ước đạt 58 triệu tấn tăng 14,15% so với cùng kỳ. Thu ngân sách nhà nước ước
đạt 46.334,2 tỷ đồng tăng 19,23% so với cùng kỳ.
Bên cạnh kết quả đạt được, thành phố
Hải Phòng còn một số bất cập, như: Vấn đề quy hoạch chung của thành phố, quỹ đất
nông nghiệp chiếm tỷ lệ còn cao; tình hình tai nạn giao
thông, vấn đề ô nhiễm môi trường còn phức tạp; việc thu phí sử dụng công trình
kết cấu hạ tầng, tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu cảng biển Hải Phòng
chưa tạo được sự đồng thuận cao trong cộng đồng doanh nghiệp...
3. Kết quả kiểm
tra tại Bộ Y tế
Trong thời gian qua, Bộ Y tế đã có
nhiều cố gắng, nỗ lực trong việc hoàn thiện thể chế (đã xây dựng, trình Chính
phủ ban hành 12 Nghị định, ban hành 70 Thông tư theo thẩm quyền); tích cực
trong đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính và cải
cách dịch vụ công để tăng sự hài lòng của người dân, và
doanh nghiệp, đã thực hiện 33 dịch vụ công trực tuyến mức
độ 4 và 6 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 100% các thủ tục hành chính công
đã được cung cấp ở mức độ 2. Việc thực hiện nhiệm vụ giao liên quan đến quản
lý, KTCN đối với hàng hóa xuất nhập khẩu được Bộ triển khai thực hiện tích cực,
đã hoàn thành 7 nhiệm vụ trong tổng số 9 nhiệm giao tại
Quyết định 2026/QĐ-TTg; một số bất cập, tồn tại trong công tác kiểm tra chuyên
ngành được khắc phục, như việc ban hành danh mục hàng hóa gắn mã số HS, một số mặt hàng đã áp dụng quản lý rủi ro (dược phẩm); chỉ
định bổ sung đơn vị kiểm tra chuyên ngành (15 cơ quan)...
Tuy nhiên, công tác KTCN còn nhiều bất
cập, gây khó khăn, tốn kém chi phí cho doanh nghiệp, như: việc yêu cầu phải
công bố sự phù hợp; kiểm tra còn chồng chéo; danh mục hàng hóa phải kiểm tra
chuyên ngành còn nhiều, trong khi chưa ban hành đầy đủ quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc gia, chủ yếu kiểm tra bằng cảm
quan và trên hồ sơ nên tỷ lệ phát hiện lô hàng vi phạm chỉ 0,03%; chưa đẩy mạnh
việc công nhận lẫn nhau; việc triển khai các thủ tục trên cơ chế một cửa quốc
gia còn chậm (mới thực hiện 05 thủ tục trong 27 thủ tục đã đăng ký); chưa đẩy mạnh
thực hiện phân cấp cho các cơ quan chuyên môn tại địa phương trong tiếp nhận hồ
sơ đăng ký và cấp giấy tiếp nhận bản công bố hợp quy và giấy xác nhận công bố
phù hợp quy định an toàn thực phẩm, dược mỹ phẩm và thiết bị y tế... Tại buổi
kiểm tra, Bộ Y tế chưa đưa ra được con số cụ thể danh mục hàng hóa phải KTCN sẽ
cắt giảm, bao nhiêu mặt hàng sẽ thực hiện kiểm tra giảm theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ tại Thông báo số 685/TB-TCTTTg ngày 31 tháng 8 năm 2017.
4. Kết quả kiểm
tra tại Bộ Công Thương
Bộ Công Thương đã tích cực triển khai
thực hiện các nhiệm vụ được giao, đã sửa đổi, bổ sung 9 văn bản quy phạm pháp
luật trong tổng số 10 văn bản được giao phải sửa đổi, bổ sung.
Với sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo
Bộ, sự nỗ lực, đồng thuận của các đơn vị trực thuộc, Bộ Công Thương đã khắc phục
được những bất cập, tồn tại trong thực tiễn công tác KTCN
thuộc phạm vi quản lý của Bộ, như việc bãi bỏ kiểm tra formaldehyte đối với sản
phẩm dệt may, thủ tục dán nhãn năng lượng; áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro để
giảm tần suất kiểm tra; xóa bỏ 420 mã hàng (giảm 58,3%) trong số 720 mã hàng phải
kiểm tra trước thông quan, ban hành phương án cắt giảm,
đơn giản 675 điều kiện đầu tư, kinh doanh thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ
Công Thương (là Bộ dẫn đầu trong việc rà soát, bãi bỏ danh mục hàng hóa phải kiểm
tra chuyên ngành, xây dựng phương án cắt giảm thủ tục đầu tư kinh doanh); kịp
thời công bố danh mục sản phẩm hàng hóa nhập khẩu phải kiểm tra việc bảo đảm chất
lượng, quy chuẩn kỹ thuật và an toàn thực phẩm trước khi thông quan; chỉ
định thêm nhiều đơn vị đủ điều kiện thực hiện kiểm tra nhà nước về
an toàn thực phẩm nhằm xóa bỏ độc quyền trong kiểm tra, kiểm nghiệm ... Tuy
nhiên, do quy định của các Luật khác nhau, dẫn đến tình trạng chồng chéo danh mục
hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành giữa Bộ Công Thương và các Bộ khác; chưa ký
được nhiều hiệp định về công nhận lẫn nhau với nước ngoài; còn một số loại hàng
hóa chưa ban hành được quy chuẩn; thủ tục/chứng từ liên quan đến kiểm tra
chuyên ngành cần cắt giảm hơn nữa...
II. ĐỐI VỚI CÁC KIẾN NGHỊ CỦA TỔ
CÔNG TÁC
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nhất
trí với các kiến nghị của Tổ công tác đã báo cáo tại phiên họp Chính phủ thường
kỳ tháng 9 và yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương nghiêm túc triển khai thực hiện
và báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện trước 25 tháng 10 năm 2017. Cụ
thể:
1. Đối với các
Bộ, cơ quan, địa phương:
Kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ chỉ đạo các Bộ, cơ quan, địa phương chấn chỉnh việc ban hành các văn
bản (văn bản hành chính, văn bản quy phạm pháp luật ban hành theo thẩm quyền)
chồng chéo, tạo ra thủ tục hành chính nhiêu khê, phức tạp (như một dạng giấy
phép con), mang tính co kéo lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ, lợi ích ngành, gây
khó khăn, tác động tiêu cực đến đời sống, hoạt động sản xuất kinh doanh của người
dân và doanh nghiệp.
2. Đối với các
Bộ quản lý chuyên ngành
- Nghiêm túc thực hiện các ý kiến chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo 685/TB-TCTTTg ngày 31 tháng 8 năm
2017.
- Khẩn trương rà soát, công bố danh mục
hàng hóa xuất nhập khẩu thuộc diện phải KTCN kèm theo mã số HS thuộc phạm vi quản
lý chuyên ngành của Bộ mình, cắt giảm, thu hẹp tối đa số lượng hàng hóa phải KTCN
(có số liệu cắt giảm cụ thể). Việc cắt giảm, thu hẹp danh mục hàng hóa phải kiểm
tra chuyên ngành bảo đảm thực chất, kiên quyết cắt giảm,
thu hẹp những danh mục hàng hóa phải KTCN còn gây khó khăn, tốn kém chi phí;
- Khẩn trương rà soát danh mục hàng
hóa phải kiểm tra chuyên ngành còn chồng chéo giữa Bộ mình với các Bộ khác, bị
KTCN bởi nhiều cơ quan khác nhau và bị điều chỉnh bởi nhiều văn bản quy phạm
pháp luật, phải thực hiện nhiều thủ tục KTCN (từ 2 thủ tục trở lên), cấp nhiều
chứng từ kiểm tra chuyên ngành đề xuất giải pháp khắc phục và báo cáo Tổ công
tác trước 15 tháng 10 năm 2017 (đồng thời gửi báo cáo cho Bộ Tài Chính).
- Tiếp tục rà soát, chuẩn hóa và công
bố công khai các thủ tục hành chính kiểm tra chuyên ngành thuộc lĩnh vực quản
lý của Bộ mình, bảo đảm minh bạch, rõ ràng, thuận tiện cho việc tiếp cận, tìm
hiểu thông tin.
- Minh bạch hóa quản lý, KTCN: Tối
thiểu hóa danh mục hàng hóa phải kiểm tra tại thời điểm
thông quan; rà soát để thống nhất mã số HS phù hợp với Danh mục hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu Việt Nam 2017 theo Thông tư 65/2017/TT-BTC của Bộ Tài chính.
- Đẩy mạnh áp dụng thông lệ quốc tế,
công nhận lẫn nhau và chủ động công nhân chất lượng của những nhãn hiệu, nhà sản
xuất nổi tiếng, những hàng hóa được sản xuất tại các nước,
khu vực có tiêu chuẩn chất lượng cao, tiên tiến (châu Âu, Mỹ, Nhật Bản...); đẩy
mạnh quản lý rủi ro, chuyển mạnh sang hậu kiểm, giảm danh mục hàng hóa phải
KTCN tại khâu thông quan để bảo đảm đạt mục tiêu giảm tỷ lệ
các lô hàng nhập khẩu phải KTCN tại giai đoạn thông quan từ
35% hiện nay xuống 15% đúng theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 19/NQ-CP.
- Phối hợp chặt chẽ với cơ quan hải
quan để lập hồ sơ thông tin doanh nghiệp hoạt động xuất nhập
khẩu liên quan đến KTCN để phân tích, đánh giá mức độ rủi ro, qua đó xác định
hình thức, phương pháp KTCN phù hợp.
- Hiện đại hóa thủ
tục quản lý, kiểm tra chuyên ngành: Điện tử hóa thủ tục; đẩy nhanh tiến độ việc
thực hiện các thủ tục hành chính trên Cơ chế một cửa quốc gia và Cơ chế một cửa
ASEAN.
3. Đối với Văn
phòng Chính phủ
Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp
với các Bộ quản lý chuyên ngành tham mưu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ giải pháp khắc phục tình trạng chồng chéo trong KTCN theo hướng giao
một Bộ quản lý chuyên ngành làm đầu mối, chủ trì thực hiện việc kiểm tra chuyên
ngành đối với các mặt hàng đang bị kiểm tra chuyên ngành bởi nhiều cơ quan khác
nhau, với nhiều hình thức khác nhau, bị điều chỉnh bởi nhiều văn bản, phải thực
hiện nhiều thủ tục (từ hai thủ tục trở lên).
4. Đối với các
Bộ, cơ quan, địa phương được kiểm tra
a) Đối với Bộ Y tế
- Khẩn trương rà soát và quyết liệt cắt
giảm danh mục hàng hóa phải KTCN; giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương: (1) tham mưu, đề xuất với Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ để giảm 90% lô hàng thực phẩm nhập
khẩu phải kiểm tra chuyên ngành so với hiện nay; (2) rà
soát, sửa đổi các quy định về KTCN đối với thực phẩm nhập khẩu theo hướng áp dụng kiểm tra giảm (chỉ kiểm tra hồ sơ) đối với tổ chức, cá nhân,
doanh nghiệp nhập khẩu thực phẩm cùng loại sản phẩm, xuất xứ mà có thông báo đạt
yêu cầu nhập khẩu 3 lần liên tiếp. Chuyển sang hậu kiểm đối với thực phẩm thông
thường, chỉ tiến hành KTCN tại khâu thông quan đối với một số thực phẩm có nguy
cơ mất an toàn cao để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp.
- Khẩn trương
xây dựng các quy chuẩn kỹ thuật đáp ứng công tác KTCN; phối hợp với Bộ Khoa học
và Công nghệ khẩn trương chuyển các quy định về ATTP theo tiêu chuẩn Codex (hiện đang được các văn bản trong nước quy định về các mức giới
hạn ATTP) thành các quy chuẩn kỹ thuật.
- Áp dụng quản
lý rủi ro, chuyển sang hậu kiểm đối với toàn bộ danh mục hàng hóa về thiết bị y
tế, dược và mỹ phẩm như đã cam kết với Tổ công tác.
- Nghiêm túc thực hiện chỉ đạo của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc tiếp thu các ý kiến góp ý của doanh
nghiệp và các Bộ, ngành liên quan vào Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định
38/2012/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật an toàn thực phẩm,
như bãi bỏ quy định liên quan tại Thông tư 19/2012/TT-BYT về công bố hợp quy đối
với sản phẩm thực phẩm chưa có quy chuẩn kỹ thuật; áp dụng quản lý rủi ro trong
kiểm tra ATTP; bổ sung thêm đối tượng được miễn kiểm tra ATTP như: hàng tạm nhập
tái xuất, hàng nhập khẩu kinh doanh cửa hàng miễn thuế, hàng quà biếu tặng nhập
khẩu trong định mức miễn thuế, hàng nhập khẩu để gia công, sản xuất hàng xuất
khẩu...
- Về việc kiểm tra các doanh nghiệp sản
xuất thực phẩm có sử dụng muối i ốt. Dù trên thực tế chưa có doanh nghiệp nào bị
kiểm tra nhưng đề nghị Bộ Y tế có văn bản hướng dẫn chỉ kiểm tra các doanh nghiệp
sản xuất muối I ốt, không kiểm tra các doanh nghiệp sản xuất thực phẩm có sử dụng
muối I ốt theo đúng chỉ đạo của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam để không gây bức xúc cho doanh nghiệp và các Hiệp hội chế biến thực phẩm.
b) Đối với Bộ Công Thương
- Tập trung chỉ đạo quyết liệt cho vấn
đề thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp, bảo đảm
thu hồi tối đa giá trị do nhà nước đầu tư; đẩy nhanh tiến độ xử lý các dự án
thua lỗ, yếu kém thuộc ngành Công Thương, bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định của
pháp luật, không để xảy ra thất thoát tài sản của nhà nước theo đúng chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ.
- Khẩn trương rà soát chuẩn hóa lại
mã số HS của các hàng hóa trong Danh mục hàng hóa nhóm 2 ban hành kèm theo
Thông tư số 29/2016/TT-BCT theo phiên bản 2017 tại Thông tư số 65/2017/TT-BTC của
Bộ Tài chính; khẩn trương ban hành Danh mục hàng hóa có mã
số HS thuộc diện phải kiểm tra hiệu suất năng lượng, hàng hóa không được nhập
khẩu, sản xuất và lưu thông theo Quyết định số 04/2017/QĐ-TTg ngày 09/03/2017 của
Thủ tướng Chính phủ để tạo sự thống nhất giữa cơ quan hải
quan và doanh nghiệp.
- Khẩn trương
ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung quy chuẩn Việt Nam đáp ứng yêu cầu công tác kiểm
tra chuyên ngành đối với các mặt hàng thuộc phạm vi quản lý của Bộ chưa có quy
chuẩn hoặc quy chuẩn không phù hợp theo đúng chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết
số 19-2017/NQ-CP.
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ quản
lý chuyên ngành khẩn trương rà soát, thống nhất một số loại chứng từ quản lý/kiểm tra chuyên ngành có tên gọi
khác nhau nhưng về bản chất nội dung kiểm tra tương tự nhau.
Cụ thể: Trong nhóm giấy phép, ngoài
giấy phép nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu tự động, giấy phép hạn ngạch thì còn
các loại khác như: xác nhận khai báo hóa chất, phê duyệt kinh doanh,...; Các loại
chứng từ khác như: Công bố tiêu chuẩn; Chứng từ xác nhận tổ chức, cá nhân đủ điều
kiện xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa
theo quy định của pháp luật đầu tư (giấy phép kinh doanh, phê
duyệt hợp đồng xuất khẩu, xác nhận cơ sở chế biến,...); Chứng
từ xác nhận hàng hóa đủ điều kiện xuất khẩu, nhập khẩu (hiệu
suất năng lượng, khai báo hóa chất,…),…
- Tiếp tục chủ trì và đôn đốc các Bộ
liên quan ban hành đầy đủ Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thuộc diện quản
lý, kiểm tra chuyên ngành trước khi thông quan kèm mã số HS theo quy định tại
Nghị định 187/2013/NĐ-CP để hạn chế vướng mắc; đồng thời khẩn trương tham mưu
trình Chính phủ sớm ban hành Nghị định hướng dẫn thực hiện
Luật Quản lý ngoại thương.
c. Đối với Bộ Tài chính
- Chỉ đạo cơ quan hải quan nói chung
và Cục Hải quan Hải Phòng nói riêng tiếp tục cải cách toàn diện, mạnh mẽ trong
việc thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến ngành hải quan; áp dụng phương thức
quản lý tiên tiến, ứng dụng công nghệ thông tin và thực hiện kết nối, chia sẻ
thông tin kịp thời, thường xuyên giữa cơ quan hải quan với các Bộ quản lý
chuyên ngành nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra chuyên ngành đối với hàng
hóa xuất nhập khẩu.
- Tiếp tục có giải pháp hiệu quả nâng
cao chất lượng, đạo đức và trách nhiệm thực thi công vụ của công chức, cán bộ
ngành hải quan; khắc phục triệt để hiện tượng tiêu cực,
“phí bôi trơn” còn xảy ra trong ngành hải quan như báo chí đã nêu và có biện
pháp xử lý nghiêm khắc những cán bộ có hành vi tiêu cực, sách nhiễu doanh nghiệp,
bảo đảm tính răn đe và phòng ngừa.
- Chủ trì, phối hợp với các Bộ quản
lý chuyên ngành đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có giải pháp đầu tư
cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng như con người để nâng cao hiệu quả hoạt động
của các địa điểm kiểm tra chuyên ngành tập trung để thực hiện hiện việc tiếp nhận,
kiểm tra hồ sơ, kiểm tra, kiểm nghiệm mẫu và trả kết quả
ngay tại các địa điểm này, góp phần giảm thời gian thông quan hàng hóa, giảm
chi phí cho doanh nghiệp; thúc đẩy việc trao đổi thông
tin, phối hợp công tác giữa các đơn vị liên quan tại cửa khẩu.
- Tiếp tục đôn đốc các Bộ, cơ quan
liên quan rà soát các mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu hiện
đang phải thực hiện cùng lúc nhiều thủ tục, cấp nhiều chứng từ kiểm tra chuyên
ngành để thống nhất đề xuất phương án đổi mới kiểm tra chuyên ngành phù hợp
theo hướng giảm các loại giấy tờ, chứng nhận kiểm tra chuyên ngành nhưng vẫn bảo đảm kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, đầy đủ các chỉ tiêu, yêu cầu cần
thiết về chất lượng, an toàn thực phẩm, kiểm dịch, môi trường.
d. Đối với Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng
- Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng
cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường, thúc đẩy phát triển kinh tế
phải song hành với các giải pháp hiệu quả bảo vệ môi trường, nhất là trong bối
cảnh thành phố có nhiều dự án đầu tư, nhiều nhà máy; tập trung, chỉ đạo quyết
liệt các đơn vị chức năng tăng cường kiểm tra, thanh tra và có biện pháp quản lý chặt chẽ, xử lý nghiêm các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh không tuân thủ nghiêm túc quy định về bảo vệ
môi trường theo đúng chỉ đạo của TTg Chính phủ tại Chỉ thị số 25/CT-TTg ngày 31
tháng 8 năm 2016,
- Thành phố Hải Phòng cần quan tâm tới công tác quy hoạch; đẩy nhanh tốc độ
đô thị hóa mang tính bền vững, kết nối với các tỉnh trong
vùng kinh tế trọng điểm; có giải pháp trong việc cân đối quỹ đất hợp lý với tốc
độ phát triển của đô thị loại I, với định hướng dành 70% quỹ đất cho đô thị; đẩy
nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng tích tụ ruộng đất để sản xuất
hàng hóa tập trung, quy mô lớn, công nghệ cao, liên kết theo chuỗi, nâng cao
giá trị gia tăng, gắn với thị trường; đẩy mạnh thu hút doanh nghiệp đầu tư vào
nông nghiệp, nông thôn theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
- Tập trung ưu tiên đầu tư phát triển
hạ tầng giao thông, nhất là hạ tầng giao thông đô thị và có giải pháp quyết liệt
giảm tai nạn giao thông trên địa bàn thành phố, nhất là tại
các điểm giao cắt
trên các quốc lộ 10, quốc lộ 5, tuyến đường 353... thường có mật độ phương tiện
qua lại dày đặc, lưu lượng xe đầu kéo ngày càng tăng nhanh trong khi hạ tầng
giao thông chưa đáp ứng yêu cầu.
- Tiếp tục rà soát, đánh giá, xem
xét, điều chỉnh lại mức phí sử dụng công trình kết cấu hạ tầng, công trình dịch
vụ, tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu cảng biển Hải Phòng đối với hàng
hóa xuất, nhập khẩu, đảm bảo hợp lý, giảm chi phí cho doanh nghiệp, đồng thời đảm
bảo nguồn thu để đầu tư, duy tu, bảo dưỡng hệ thống kết cấu
hạ tầng giao thông kết nối giữa cảng biển với hệ thống đường quốc lộ và các chi
phí dịch vụ công ích, báo cáo, trình Hội đồng nhân dân thành phố xem xét quyết
định tại cuộc họp gần nhất.
Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ
xin thông báo để các Bộ, cơ quan, địa phương liên quan biết, thực hiện./.
Nơi nhận:
- Thủ tướng, các Phó Thủ
tướng Chính phủ;
- Các thành viên Tổ công tác;
- Các Bộ: TC, KH&ĐT, CT, KH&CN, XD, GTVT, NN&PTNT, TN&MT,
VHTT&DL, TT&TT, YT; LĐTB&XH, Công an;
- UBND TP Hải Phòng;
- Tổng cục Hải quan;
- VPCP: Các PCN, Trợ lý TTg, các Vụ, đơn vị: CN, KTTH, NN, PL, QHQT, ĐMDN, NC, KSTTHC, Cổng thông tin điện tử CP;
- Lưu: VT, TCTTTg (3b).L
|
TỔ TRƯỞNG
BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM VPCP
Mai Tiến Dũng
|