VĂN
PHÒNG CHÍNH PHỦ
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
--------------
|
Số:
41/TB-VPCP
|
Hà
Nội, ngày 09 tháng 02 năm 2010
|
THÔNG BÁO
KẾT
LUẬN CỦA PHÓ THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ TRƯƠNG VĨNH TRỌNG TẠI HỘI NGHỊ TRIỂN KHAI CÔNG
TÁC NĂM 2010 CỦA NGÀNH TƯ PHÁP
Ngày 11 tháng 01 năm 2010, đồng
chí Trương Vĩnh Trọng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương đảng, Phó Thủ tướng
Chính phủ đã dự và chỉ đạo Hội nghị triển khai công tác năm 2010 của ngành Tư
pháp. Sau khi nghe đại diện Lãnh đạo Bộ Tư pháp trình bày Báo cáo tổng kết công
tác tư pháp năm 2009 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2010; ý kiến của đaị
diện một số cơ quan Tư pháp, cơ quan Thi hành án dân sự địa phương, Tổ chức
pháp chế Bộ, ngành, Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Vĩnh Trọng đã kết luận như
sau:
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG TÁC
TƯ PHÁP NĂM 2009
Năm 2009, mặc dù có nhiều khó
khăn, thách thức, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quyết liệt và
sáng tạo của Chính phủ, với những nỗ lực, quyết tâm cao của các cấp, các ngành,
của toàn dân và cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta đã thực hiện thành công mục
tiêu tổng quát là ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng hợp lý, ổn định
kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội. Trong bối cảnh kinh tế thế giới suy
thoái, Việt Nam vẫn là một trong số ít các nước có tốc độ tăng trưởng khá cao,
GDP cả năm ước đạt 5,32%; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; an sinh và phúc lợi xã
hội được quan tâm đặc biệt, người nghèo, công chức thu nhập thấp được hỗ trợ
đáng kể; giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 12,3%. Đó là kết quả rất đáng tự hào của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trong đó có phần đóng góp của ngành Tư
pháp cả nước.
Trong bối cảnh chung đó, ngành
Tư pháp đã có nhiều cố gắng, triển khai đồng bộ các mặt công tác, bám sát ý kiến
chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị toàn quốc triển khai công tác tư
pháp năm 2009, bám sát nhiệm vụ trọng tâm của Ngành, nhiệm vụ của từng địa
phương. Việc triển khai các đạo luật mới như: Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, Luật Thi hành án dân sự, Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi) đã huy động
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị tham gia công tác tư pháp. Hệ thống
cơ quan Tư pháp cả ba cấp đã được kiện toàn một bước quan trọng về tổ chức và
cán bộ. Đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp tiếp tục được tăng cường,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trách nhiệm nghề nghiệp được nâng cao. Công
tác chỉ đạo, điều hành các mặt công tác của Ngành được đổi mới một bước, ngành
Tư pháp đã tranh thủ được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, sự
phối hợp của các ngành. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong các lĩnh vực
công tác của Ngành được thực hiện tốt hơn, nhờ đó các mặt công tác của Ngành
trong năm qua đã đạt được nhiều thành tích, nổi bật như sau:
Một là, công tác xây dựng, thẩm
định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật được tiến hành
theo đúng tinh thần của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới, đảm bảo
chất lượng, tiến độ, thiết thực góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật mới, đảm
bảo chất lượng, tiến độ, thiết thực góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật của
Việt Nam. Công tác văn bản của các cơ quan Tư pháp địa phương và Tổ chức pháp
chế Bộ, ngành có những tiến bộ rõ rệt, từng bước tạo được sự tin cậy của Lãnh đạo
các Bộ, ngành, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, góp phần tăng cường hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh của địa
phương và cả nước. Bộ cũng đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề
án triển khai việc thực hiện công tác theo dõi thi hành pháp luật, tạo cơ sở
pháp lý quan trọng cho việc tổ chức thực hiện công tác này trong năm 2010.
Hai là, công tác thi hành án dân
sự đạt kết quả cao hơn những năm trước và vượt chỉ tiêu Chính phủ trình Quốc hội,
góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp. Số lượng án phải thi hành tăng nhiều
so với năm 2008, nhưng tỷ lệ thi hành xong hoàn toàn đạt tới 81,05% về vụ việc
và 57,64% về tiền trong tổng số các vụ án có điều kiện thi hành. Toàn Ngành đã
triển khai thực hiện Luật Thi hành án dân sự và Nghị quyết của Quốc hội về thi
hành Luật này. Hệ thống cơ quan Thi hành án dân sự được kiện toàn theo ngành dọc
từ Trung ương tới cấp huyện, đánh dấu sự hoàn thiện của hệ thống thi hành án
dân sự ở nước ta. Đề án thí điểm Thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh đã được
chuẩn bị và đang triển khai theo đúng yêu cầu của Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Ba là, công tác quản lý nhà nước
đối với các hoạt động bổ trợ tư pháp được tăng cường; việc xã hội hoá tiếp tục
được đẩy mạnh đã phục vụ tốt hơn nhiệm vụ cải cách tư pháp, cải cách hành chính
và hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội Đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất được
tổ chức thành công, lập ra Liên đoàn Luật sư Việt Nam, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp đầu tiên của giới luật sư Việt Nam trong toàn quốc. Nhiều Văn phòng công
chứng đã ra đời và hoạt động, bước đầu được dư luận xã hội hoan nghênh.
Bốn là, công tác hành chính tư
pháp có tiến bộ, các thủ tục hành chính trong lĩnh vực này tiếp tục được hoàn
thiện theo hướng tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp, tổ chức, công dân. Bộ Tư
pháp tham mưu cho Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội thông qua Luật Quốc tịch
Việt Nam (sửa đổi) với những nội dung mới đã góp phần tăng cường khối Đại đoàn
kết dân tộc. Luật Lý lịch tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đã
được ban hành.
Năm là, Bộ Tư pháp đã tham mưu
cho Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ ban hành các văn bản, chương trình,
đề án huy động lực lượng toàn xã hội tham gia công tác phổ biến giáo dục pháp
luật, trợ giúp pháp lý, đưa hoạt động này đi vào thực chất hơn, mang lại lợi
ích thiết thực cho nhân dân.
Sáu là, công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ và nghiên cứu khoa học pháp lý có kết quả tốt, góp phần kiện toàn tổ chức
và đội ngũ cán bộ của Ngành; từng bước đáp ứng nhu cầu về cán bộ pháp luật cho
xã hội, có những đóng góp cụ thể cho sự phát triển của khoa học pháp lý nước
nhà. Bộ đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ Đề án thành lập các Trường Trung
cấp Luật và đã triển khai tháo gỡ những khó khăn về nguồn nhân lực cho cán bộ
cơ sở, nhất là ở những địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Bên cạnh những kết quả đã nêu,
công tác của Ngành trong năm 2009 cũng còn bộc lộ một số bất cập, hạn chế cần
rút kinh nghiệm để thực hiện tốt hơn trong năm 2010 và những năm tiếp theo, nhất
là trong công tác thi hành án dân sự, giám định tư pháp và đào tạo nguồn nhân lực
pháp luật, nhất là ở trình độ trung cấp.
II. VỀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
NĂM 2010 CỦA NGÀNH TƯ PHÁP
Năm 2010 sẽ diễn ra nhiều sự kiện
chính trị trọng đại của đất nước (kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam; 65 năm thành lập nước CHXHCN Việt Nam; 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ
Chí Minh; 35 năm Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; Đại lễ 1.000 năm
Thăng Long - Hà Nội). Năm 2010 sẽ tiến hành Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng; năm cuối cùng của Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010. Năm 2010, bên cạnh thuận lợi là cơ bản, sẽ có
nhiều khó khăn thách thức, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nỗ lực
phấn đấu vượt qua, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, tạo
đà vững chắc cho sự phát triển của những năm sau.
Đối với ngành Tư pháp, năm 2010
là năm kỷ niệm 65 Ngày truyền thống, ngành Tư pháp phải nỗ lực phấn đấu hơn nữa,
công tác tư pháp góp phần tích cực vào thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước và của mỗi địa phương. Toàn Ngành cần tập trung thực hiện
tốt các nhiệm vụ cơ bản sau đây:
1. Ngành phải đầu tư nghiên cứu,
đóng góp trí tuệ cho việc xây dựng các văn kiện chính trị quan trọng sẽ trình Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Phải góp phần tích cực trong việc lý giải thấu
đáo các vấn đề đặt ra trong quá trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ
nghĩa, vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường gắn với phát triển bền vững,
đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách pháp luật và hội nhập quốc tế, phải tham
gia ý kiến để bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn
2011-2020; sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992; giúp Chính phủ chỉ đạo các Bộ,
ngành, các địa phương sơ kết việc thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính
trị về Chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, tầm
nhìn 2020. Bộ Tư pháp cũng cần xây dựng một bản chiến lược phát triển ngành dài
hạn đáp ứng đồi hỏi phát triển của đất nước trong thời kỳ tới.
2. Bộ Tư pháp, các cơ quan Tư
pháp địa phương và Tổ chức pháp chế các Bộ, ngành, địa phương phải là chỗ dựa
tin cậy, cơ quan tham mưu đắc lực cho Chính phủ, các Bộ, ngành, Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc xây dựng, ban hành và thực hiện văn bản
quy phạm pháp luật, góp phần xây dựng hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật
kinh tế, dân sự đầy đủ, đồng bộ, khả thi, minh bạch, nhưng phải dễ hiểu, dễ áp
dụng. Toàn ngành Tư pháp phải lấy việc nâng cao chất lượng thẩm định, kiểm tra
văn bản quy phạm pháp luật làm một trong những nhiệm vụ trọng tâm của mình.
Bộ Tư pháp phải tập trung chỉ đạo
và hoàn thành đúng thời hạn với chất lượng cao việc soạn thảo các pháp lệnh về
hợp nhất và pháp điển văn bản quy phạm pháp luật làm công cụ để rà soát, sắp xếp
lại hệ thống pháp luật rất rườm rà của chúng ta theo một trật tự nhất định và
trở nên gọn gàng, dễ tìm, dễ sử dụng hơn đối với mọi cá nhân, tổ chức. Đồng thời
phải giúp Chính phủ theo dõi sát tình hình thực hiện pháp luật, tổ chức thực hiện
tốt Đề án triển khai việc thực hiện công tác theo dõi thi hành pháp luật đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
3. Tiếp tục triển khai thực hiện
hiệu quả Luật Thi hành án dân sự, Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật này;
tập trung củng cố về tổ chức, đầu tư cán bộ cho hệ thống cơ quan Thi hành án
dân sự từ Trung ương tới địa phương. Hoàn thành Đề án về cơ sở vật chất, trang
thiết bị cho cơ quan Thi hành án các cấp; Đề án chuẩn bị các điều kiện cần thiết
giúp Chính phủ quản lý thống nhất về công tác thi hành án theo đúng tinh thần của
Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Bộ Tư pháp phải phối hợp chặt chẽ
với cấp uỷ và chính quyền TP. Hồ Chí Minh để chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện
thí điểm mô hình Thừa phát lại tại TP. Hồ Chí Minh, tiến hành sơ kết để tính
toán, đề xuất việc mở rộng mô hình này ở một số địa phương khác, tạo cơ sở cho
việc xã hội hoá một số hoạt động tư pháp. Phải phấn đấu giảm số lượng án không
có điều kiện thi hành, hoàn thành vượt mức chỉ tiêu thi hành án mà Quốc hội,
Chính phủ đã đặt ra.
4. Tiếp tục nâng cao chất lượng
hoạt động trong lĩnh vực hành chính tư pháp; triển khai thực hiện tốt Luật Quốc
tịch Việt Nam (sửa đổi), Luật Lý lịch tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước; tăng cường cán bộ tư pháp cơ sở, chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ; xúc tiến các công việc cần thiết để thành lập Trung tâm lý lịch tư
pháp quốc gia, đơn vị giúp Bộ quản lý nhà nước về bồi thường Nhà nước. Tăng cường
thanh tra, kiểm tra, hướng dẫn công tác chứng thực, hộ tịch, con nuôi.
5. Tăng cường năng lực cho các
cơ quan bổ trợ tư pháp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực
này. Hoàn thành việc quy hoạch các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn cả
nước. Triển khai thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 33-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư; xây dựng Chiến lược và quy
hoạch phát triển đội ngũ luật sư đến năm 2020. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
hữu quan tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về chế độ, chính sách trong hoạt động giám
định tư pháp; chủ động chuẩn bị các công việc cần thiết để xây dựng dự án Luật
Giám định tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động này.
6. Tổ chức thực hiện tốt hơn nữa
Chỉ thị số 32 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật của cán bộ, nhân dân. Cần huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính
trị để đưa công tác này đạt bước phát triển mới.
7. Tiếp tục kiện toàn về tổ chức,
cán bộ của Ngành; tạo chuyển biến rõ rệt về chất lượng đào tạo cán bộ pháp luật,
đặc biệt là đào tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp. Công tác tổ chức, cán
bộ của ngành Tư pháp phải hướng mạnh về cơ sở, xây dựng hệ thống cơ quan Tư
pháp, Thi hành án dân sự và đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là đội ngũ cán bộ tư
pháp cấp huyện, cấp xã và pháp chế các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân, Hội đồng
nhân dân, doanh nghiệp nhà nước thực sự có năng lực, trong sạch, vững mạnh, đủ
sức hoàn thành các nhiệm vụ được giao.
Bộ Tư pháp phải phối hợp chặt chẽ
với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các Bộ, ngành hữu quan để hoàn thành Đề án xây dựng
Trường Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Học viện Tư pháp
thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật, tư pháp và chủ động
chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện ngay sau khi đề án được
Chính phủ phê duyệt, đồng thời cần làm tốt công tác đào tạo tại Trường Trung cấp
Luật Buôn Ma Thuột; phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan và chính quyền tỉnh Hậu
Giang chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thành lập Trường Trung cấp Luật tại tỉnh
Hậu Giang.
Cán bộ, công chức ngành Tư pháp
cần không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn và
tinh thần trách nhiệm, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, đấu tranh phòng chống
tham nhũng, lãng phí, tiếp tục hưởng ứng tích cực cuộc vận động "Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" một cách thực chất, hiệu quả,
"Học tập" gắn liền với "Làm theo" tấm gương đạo đức của Người
trong từng công việc cụ thể.
Văn phòng Chính phủ xin thông
báo để các cơ quan biết và thực hiện./.
Nơi nhận:
- Thủ tướng, các PTTg (để báo cáo);
- Các Bộ: Quốc phòng, Công an, Nội vụ, Giáo dục và Đào tạo, Tài chính;
- TANDTC, VKSNDTC;
- Văn phòng Quốc hội;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW
- VPCP: BTCN, các PCN, Cổng TTĐT CP,
các Vụ: TH, TKBT;
- Lưu: VT, PL (5b), Th. 95
|
KT.
BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM
PHÓ CHỦ NHIỆM
Kiều Đình Thụ
|