BỘ
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
-----
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------
|
Số:
237/TB-BNN-VP
|
Hà
Nội, ngày 10 tháng 01năm 2008
|
THÔNG BÁO
KẾT LUẬN CỦA THỨ TRƯỞNG NGUYỄN VIỆT THẮNG TẠI HỘI NGHỊ TOÀN
QUỐC VỀ “TỔ CHỨC KHAI THÁC HẢI SẢN HIỆU QUẢ, AN TOÀN” TẠI ĐỒ SƠN – HẢI PHÒNG
Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn đã tổ chức Hội nghị toàn quốc về “Tổ chức khai thác hải sản hiệu quả,
an toàn” trong 02 ngày 03-04/12/2007, tại Đồ Sơn, Hải Phòng,
Tham dự Hội nghị có Lãnh đạo Sở
Thuỷ sản, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có quản lý thuỷ sản của 28 tỉnh
ven biển và tỉnh An Giang. Về phía các Cơ quan Trung ương có đại diện một số Bộ,
ngành, các cơ quan thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Uỷ ban Quốc
gia tìm kiếm Cứu nạn; Ban chỉ đạo Phòng, chống lụt, bão Trung ương, Viện Nghiên
cứu Hải sản Hải phòng, Viện Kinh tế và Qui hoạch thuỷ sản; Hội nghề cá Việt
Nam, đại diện các cơ quan thông tấn, báo chí ở Trung ương và Hải Phòng. Bộ trưởng
Cao Đức Phát, Thứ trưởng Nguyễn Việt Thắng, Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành
phố Hải Phòng Nguyễn Văn Thành cùng Cục trưởng Cục Khai thác và bảo vệ nguồn lợi
thuỷ sản Chu Tiến Vĩnh chủ trì Hội nghị.
Mục tiêu của Hội nghị là trao đổi
các giải pháp quản lý, khoa học công nghệ, đảm bảo tổ chức khai thác hải sản hiệu
quả, an toàn; đóng góp ý kiến hoàn thiện Chương trình tổng thể khai thác, bảo vệ
và phát triển nguồn lợi thuỷ sản đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020; thảo luận
về tổng kết khai thác hải sản năm 2007 và triển khai kế hoạch khai thác hải sản
năm 2008.
Trên cơ sở các báo cáo và tham
luận của các đại biểu, ý kiến chỉ đạo của Bộ trưởng Cao Đức Phát, Thứ trưởng
Nguyễn Việt Thắng kết luận Hội nghị như sau :
1. Chủ trương của
ngành Thuỷ sản là duy trì ổn định sản lượng khai thác hải sản trên cơ sở khoa học,
không ngừng nâng cao hiệu quả và an toàn thông qua việc ứng dụng các tiến bộ
khoa học công nghệ, như cải tiến ngư lưới cụ, giảm tiêu hao nhiên liệu, giảm
hao hụt sau khai thác, an toàn vệ sinh sản phẩm …; tổ chức lại khai thác hải sản
trên các vùng biển và đổi mới, cải tiến nội dung, phương thức quản lý, kết hợp
chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ; giữa việc giải quyết
những tình huống trước mắt với lâu dài.
2. Những công
việc trọng tâm cần tập trung giải quyết :
2.1 Về tăng
cường quản lý tàu cá
Để nhanh chóng khắc phục những yếu
kém trong việc kiểm soát, quản lý tàu cá, tổ chức lại công tác quản lý, đảm bảo
an toàn cho người và tàu cá hoạt động thuỷ sản, một số công việc trọng tâm cần
tập trung giải quyết :
a) Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn
lợi thuỷ sản :
- Chủ trì phối hợp với các Chi cục
địa phương nhanh chóng rà soát, bổ sung và hoàn thiện cơ sở dữ liệu về tàu cá
trên cơ sở phân loại theo nghề, tuyến và vùng biển hoạt động. Đánh giá lại thực
trạng chất lượng đội tàu cá Việt Nam. Cả 02 việc trên phải hoàn tất và báo cáo
Bộ vào cuối quí I/2008.
- Tăng cường quản lý, hướng dẫn
và kiểm tra công tác đăng kiểm tàu cá. Tổ chức xét và phân công các Chi cục thực
hiện công tác đăng kiểm tàu cá có chiều dài đường nước thiết kế từ 20m trở lên.
Ngoài ra, phối hợp với Vụ Khoa học Công nghệ xúc tiến việc xây dựng qui trình
kiểm tra an toàn kỹ thuật đối với khối tàu cá lứp máy từ 50cv trở xuống để ban
hành trong năm 2008.
- Chủ trì phối hợp với Tổ công
tác của Bộ, nhanh chóng khảo sát, đánh giá tình hình, đặc biệt xác định nguyên
nhân các tàu bị các nước bắt, giữ và xử lý, từ đó có các giải pháp giải quyết,
đưa ngư dân về nước; đấu tranh chống các hành vi ngược đãi ngư dân. Ngoài ra phải
tiếp tục công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến rộng rãi đến từng ngư dân về
những qui định của các nước, cung cấp đủ bản đồ công bố ranh giới trên biển, nhất
là các vùng chồng lấn. Tất cả những thông tin về tàu cá bị nước ngoài bắt, giữ,
xử lý phải được ưu tiên, thông báo kịp thời đến các cơ quan chức năng, có thẩm
quyền giải quyết.
- Chủ trì phối hợp với Vụ Kế hoạch,
Tài chính và Cục Quản lý xây dựng, đẩy nhanh tiến độ triển khai, giải ngân các
dự án đã được phê duyệt như dự án xây dựng Hệ thống thông tin quản lý nghề cá
trên biển giai đoạn I (2007 – 2008); các khu neo đậu theo Quyết định
288/2005/QĐ-TTg ; Quy hoạch cảng cá, bến cá và chợ cá … Xem xét lại thiết kế,
quy trình quản lý vận hành các công trình hạ tầng kỹ thuật nghề cá, đảm bảo an
toàn, hiệu quả. Rà soát, đánh giá tình hình triển khai thực hiện các chương
trình, dự án có liên quan và có kế hoạch điều chỉnh, bổ xung đầu tư xây dựng
các công trình và có báo cáo Bộ chậm nhất 31/3/2008.
b) Các Sở Thuỷ sản, Sở Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn :
- Chỉ đạo các Chi cục tăng cường
công tác tuyên truyền, hướng dẫn các chủ tàu đăng ký tàu cá và thuyền viên, phấn
đấu hoàn thành cơ bản công tác đăng ký tàu cá trước mùa mưa bão năm 2008. Đối với
nhóm tàu cá lắp máy từ 20cv trở xuống và thuyền không lắp máy, nghiên cứu và
phân cấp quản lý về xã, phường. Nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách và bổ
trí cán bộ chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân xã, phường quản lý tàu cá;
- Chủ trì phối hợp với Bộ đội Biên
phòng, chủ tàu và chính quyền cấp cơ sở để nắm chắc thông tin về hoạt động của
các tàu cá; nghiên cứu nhân rộng mô hình tổ chức khai thác hải sản trên biển
theo tổ, đội … như cách làm của Đà Nẵng, Quảng Ngãi. Đồng thời tăng cường công
tác tuyên truyền, giáo dục làm cho ngư dân hiểu và có trách nhiệm trong việc tự
đảm bảo an ninh và phương tiện khi tham gia khai thác hải sản trên các vùng biển.
2.2 Nâng cao
hiệu quả khai thác :
Mục tiêu nâng cao hiệu quả khai
thác hải sản chỉ có thể thực hiện được, khi công tác phát triển ngư dân, ngư
trường và ngư nghiệp, thực sự được quan tâm và phương hướng phát triển khai
thác được xác định trên nguyên tắc “Thị trường là mục tiêu, khoa học công nghệ
là động lực và tổ chức lại sản xuất là công tác mang tính quyết định, trọng
tâm”. Hỗ trợ, giúp ngư dân ổn định sản xuất, thu nhập và cuộc sống trước những
biến động về giá nhiên liệu, vật liệu … hiện nay. Để đạt được mục tiêu trên,
các đơn vị cần tập trung :
a) Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn
lợi thuỷ sản :
- Chủ trì phối hợp với Viện
Nghiên cứu Hải sản Hải Phòng và các Sở Thuỷ sản, Sở Nông nghiệp có quản lý thuỷ
sản kiện toàn lại công tác dự báo hướng dẫn ngư dân ngư trường khai thác, trước
hết là dự báo ngư trường khai thác vụ Bắc năm 2008, ngư trường xa bờ; điều chỉnh,
chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp khai thác sử dụng nhiều nhiên liệu (lưới kéo đáy)
sang các nghề khai thác sử dụng ít nhiên liệu; công nghệ bảo quản, chế biến sản
phẩm hạn chế hao hụt thấp nhất, cải tiến ngư cụ, máy móc tăng năng suất, giảm
chi phi;
- Nghiên cứu, đề xuất Chính phủ
những chính sách, trước hết giúp ngư dân phát huy nội lực sẵn có; tăng cường
năng lực quản lý, kỹ năng sản xuất để khai thác, sử dụng có hiệu quả từ sự hỗ
trợ của nhà nước, như vay vốn tín dụng ưu đãi phát triển phương tiện; ứng dụng
công nghệ tiên tiến trong khai thác (khuyến ngư), sử dụng cơ sở hạ tầng kỹ thuật
nghề cá; phát triển nguồn nhân lực …;
- Phối hợp với Cục Hợp tác xã và
Phát triển nông thôn, các Sở Thuỷ sản, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
nhanh chóng tổng kết các mô hình khai thác hải sản (tổ, đội, hợp tác xã,tập
đoàn…) có hiệu quả, nghiên cứu và có kế hoạch phổ biến, nhân rộng trên phạm vi
cả nước, trước mắt phối hợp với dự án hợp phần “Tăng cường quản lý khai thác
thuỷ sản (SCAFI) chuẩn bị và tổ chức Hội nghị tổng kết tổ, đội sản xuất trên biển;
- Chủ trì phối hợp với Viện
nghiên cứu Hải sản Hải phòng tổ chức công tác điều tra, khảo sát nguồn lợi hải
sản vùng biển ven bờ, xa bờ, tổ chức, cải tiến công tác dự báo thông tin ngư
trường, có độ tin cậy cao, kịp thời và phù hợp với trình độ của đại đa số thuyền
trường. Đồng thời nhanh chóng đưa Trung tâm kiểm soát nghề cá vào hoạt động, tiếp
nhận tổng hợp các nguồn thông tin, kể cả từ địa phương và có cơ chế khai thác,
sử dụng hiệu quả, an toàn;
- Chủ trì phối hợp với Vụ Hợp tác
quốc tế nghiên cứu trình Bộ phương án hợp tác với các nước trong và ngoài khu vực
về việc đưa tàu cá Việt Nam ra ngoài vùng biển Việt Nam khai thác.
b) Trung tâm Khuyến ngư quốc gia
:
Chủ trì phối hợp với Cục, các
Chi cục nghiên cứu đề xuất các mô hình ứng dụng và có kế hoạch bố trí vốn để
triển khai chuyển giao ứng dụng tiến bộ kỹ thuật cho dân những tiến bộ công nghệ
khai thác, như : máy bắn câu, thả vây đuôi tàu, máy dò ngang …
c) Vụ Tổ chức cán bộ :
Sắp xếp tổ chức lại công tác đào
tạo ngư dân, nhất là đào tạo máy trưởng, thuyền trưởng, lao động phổ thông làm
việc trên các tàu cá.
2.3 Về trung
hạn, dài hạn :
Dự thảo Chương trình tổng thể
khai thác, bảo vệ và phảt tiển nguồn lợi thuỷ sản về cơ bản đã đưa ra được những
định hướng lớn, dựa trên thực trạng nguồn lợi thuỷ sản, năng lực sản xuất hiện
có, khả năng phát triển. Nội dung Chương trình phù hợp với chủ trương của ngành
về khai thác, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản, trong đó khai thác hải sản
phải đảm bảo hiệu quả và an toàn, thông qua ứng dụng khoa học công nghệ, đầu tư
hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật nghề cá; phảt triển nguồn nhân lực, tăng
cường và đổi mới công tác quản lý và tổ chức lại sản xuất triên biển. Giao Cục
Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản sớm hoàn thành Chương trình để Bộ trình
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chậm nhất là tháng 01/2008.
2.4 Các vấn đề
khác liên quan đến triển khai kế hoạch 2008, trong đó :
a) Giao Cục Khai thác và Bảo vệ
nguồn lợi thuỷ sản phối hợp với các cơ quan đơn vị có liên quan :
- Rà soát lại các tiêu chuẩn,
quy trình qui phạm, có kế hoạch chỉnh sửa, bổ sung, trước hết các tiêu chuẩn về
chất lượng tàu cá (vỏ tàu, máy thuỷ, các trang thiết bị an toàn … lắp đặt trên
tàu cá); tiêu chuẩn, quy trình khai thác, sử dụng cầu cảng, bến cá, khu neo đậu
tránh trú bão cho tàu cá và có báo cáo Bộ chậm nhất cuối quí I/2008.
- Nghiên cứu, tìm các giải pháp
nhanh chóng hỗ trợ ngư dân đối phó với tình trạng tăng giá nhiên liệu, vật tư
…, trước hết những biện pháp tiết kiệm nhiên liệu, giảm hao hụt sau khai thác,
khai thác có lựa chọn … Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về các chính
sách trên phải hoàn tất trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 01/2008.
d) Giao Viện Nghiên cứu Hải sản
Hải Phòng chủ trì phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan rà soát các kết
quả của các chương trình, đề tài điều tra, khảo sát nguồn lợi thuỷ sản trong những
năm gần đây để đánh giá lại nguồn lợi hải sản biển Việt Nam và báo cáo Bộ số liệu
chính thức về trữ lượng, khả năng cho phép khai thác hải sản trên các vùng biển.
Trên đây là ý kiến kết luận của
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Việt Thắng, Văn phòng
Bộ xin thông báo các cơ quan, đơn vị có liên quan để thực hiện.
|
TL. BỘ TRƯỞNG
CHÁNH VĂN PHÒNG
Bạch Quốc Khang
|