VĂN PHÒNG CHÍNH
PHỦ
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 186/TB-VPCP
|
Hà Nội, ngày 12
tháng 12 năm 2002
|
THÔNG BÁO
CỦA VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ SỐ 186/TB-VPCP NGÀY 12 THÁNG 12 NĂM
2002 VỀ Ý KIẾN CỦA PHÓ THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG TẠI BUỔI LÀM VIỆC VỀ TÌNH HÌNH
THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NĂM 2002 VÀ KẾ HOẠCH NĂM 2003 CỦA BỘ CÔNG NGHIỆP
Ngày 23 tháng 11 năm 2002, Phó
thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã làm việc với Bộ Công nghiệp về tình hình thực hiện
kế hoạch năm 2002 và kế hoạch năm 2003 của ngành công nghiệp. Cùng dự có lãnh đạo
các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Thương mại, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
và lãnh đạo các Tổng công ty: Điện lực Việt Nam, Than Việt Nam, Thép Việt Nam,
Hoá chất Việt Nam, Dệt may Việt Nam, Giấy Việt Nam, Thuốc lá Việt Nam.
Sau khi nghe Bộ trưởng Bộ Công
nghiệp báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch năm 2002 và kế hoạch năm 2003 của
ngành công nghiệp, ý kiến của lãnh đạo các Bộ và một số Tổng công ty, Phó thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có ý kiến kết luận như sau:
1. Nhất trí với
nội dung báo cáo của Bộ Công nghiệp về đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 10
tháng và dự kiến cả năm 2002; mục tiêu, định hướng và các giải pháp thực hiện kế
hoạch năm 2003.
Mười tháng năm 2002, sản xuất
công nghiệp có tốc độ tăng trưởng khá (14,2% so với cùng kỳ năm trước) và đồng
đều ở các thành phần kinh tế. Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu như điện,
thép cán, than sạch, xi măng, động cơ diezen, động cơ điện, ôtô, máy thu hình,
vải lụa các loại... có tốc độ tăng trưởng cao, đáp ứng nhu cầu của các ngành sản
xuất và sinh hoạt của nhân dân.
Bên cạnh những mặt tích cực nêu
trên, ngành công nghiệp còn nhiều tồn tại, yếu kém, trước hết là năng suất, hiệu
quả sản xuất và sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp còn thấp, chi phí trung
gian còn lớn, giá thành nhiều loại sản phẩm còn cao; nhiều mặt hàng có khả năng
sản xuất trong nước nhưng vẫn phải nhập khẩu. Sự chủ động vươn lên của ngành
công nghiệp để phát triển trong cơ chế thị trường nhìn chung còn hạn chế, nhất
là đối với ngành công nghiệp chế biến.
2. Về kế hoạch
năm 2003:
a. Bộ Công nghiệp cần tập trung
xây dựng kế hoạch phát triển công nghiệp trong 3 năm còn lại của kế hoạch 5 năm
2001-2005 trên cơ sở quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng: rà soát
lại các quy hoạch ngành. Quy hoạch sản phẩm. Quy hoạch vùng cho phù hợp với các
mục tiêu, phương hướng của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm và
phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2001-2005.
b. Để hoàn thành tốt nhất chỉ
tiêu kế hoạch năm 2003, ngành công nghiệp cần tập trung thực hiện tốt các giải
pháp chủ yếu, như: phát huy nội lực thông qua việc huy động các nguồn vốn, phát
triển thị trường, đẩy mạnh khả năng sản xuất, chế tạo trong nước; chuyển dịch
cơ cấu theo hướng năng động hơn, luôn bám sát thị trường; đổi mới công nghệ,
đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, giảm chi phí trung gian để tăng khả năng cạnh
tranh; điều hành sâu sát, quyết liệt với tinh thần chịu trách nhiệm cao.
c. Trước mắt, Bộ Công nghiệp cần
khẩn trương chỉ đạo các công việc sau:
- Tập trung đầu tư phát triển
ngành công nghiệp chế biến, là ngành hiện có lợi thế cạnh tranh, có nguồn
nguyên liệu khá dồi dào, có thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu; giảm
dần tỷ lệ sơ chế, đẩy nhanh việc đổi mới công nghệ để tăng cường chế biến tinh,
nâng cao chất lượng hàng hoá, sức cạnh tranh của sản phẩm.
- Xây dựng Chiến lược, Quy hoạch
phát triển các ngành công nghiệp nặng sản xuất tư liệu sản xuất, như: cơ khí chế
tạo, luyện kim (thép, đồng, nhôm, kim loại quý hiếm...), điện, than, hoá chất
cơ bản, phân bón, một số loại vật liệu xây dựng. Đồng thời đẩy mạnh phát triển
lĩnh vực công nghệ cao, như: thông tin, sinh học, vật liệu mới và công nghiệp
phục vụ quốc phòng.
- Chú trọng phát triển các ngành
công nghiệp có khả năng phát huy nhanh các lợi thế hiện có, tăng cường chiếm
lĩnh thị trường hàng tiêu dùng thiết yếu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu các sản
phẩm may mặc, da giàu, than, điện tử, một số sản phẩm cơ khí và hàng tiêu
dùng... Phát triển mạnh các cơ sở sản xuất công nghiệp nhỏ và vừa với ngành nghề
đa dạng.
- Đẩy nhanh tiến độ, tìm nguồn vốn
đối với một số dự án lớn, quan trọng như: khai thác bauxít, sản xuát alumin và
điện phân nhôm tại Lâm Đồng; thép cán nóng, cán nguội; sản xuất phân đạm từ
than; sản xuất bột giấy ở Kon Tum, Bắc Kạn, Thanh Hoá; mở rộng giai đoạn 2 nhà
máy Giấy Bãi Bằng...
- Tính toán chính sách bảo hộ hợp
lý cho một số sản phẩm trọng điểm phù hợp với điều kiện hội nhập, không bảo hộ
tràn lan. Xây dựng chương trình và kế hoạch hội nhập phù hợp với lộ trình cắt
giảm thuế quan để tạo thế chủ động, có hiệu quả trong hội nhập kinh tế quốc tế.
d. Bộ Công nghiệp phải tăng cường
hơn nữa công tác quản lý nhà nước, nhanh chóng hoàn thiện Nghị định khuyến
công, Chiến lược phát triển ngành Điện Việt Nam giai đoạn 2001-2010 và điều chỉnh
Quy hoạch điện V, Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam
theo các vùng lãnh thổ đến năm 2010, Quy hoạch của các ngành: Than, Hoá chất,
ôtô và Quy hoạch điều chỉnh ngành Giấy... trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
phối hợp với các Bộ ngành liên quan hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện Luật
doanh nghiệp; ban hành theo thẩm quyền hoặc trình Thủ tướng Chính phủ ban hành
các văn bản về cơ chế, chính sách tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp.
d. Bộ Công nghiệp tiếp tục đẩy mạnh
công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị
quyết trung ương 3; nâng cao năng lực quản lý và trình độ công nghệ để tăng chất
lượng, hạ giá thành sản phẩm, từng bước cải thiện điều kiện làm việc và đời sống
của công nhân viên; thực hiện từng bước hợp tác hoá và chuyên môn hoá trong sản
xuất và đầu tư, tránh đầu tư chồng chéo không hiệu quả.
3. Đối với một
số kiến nghị cụ thể của Bộ Công nghiệp:
a. Giao Bộ Tài chính:
- Phối hợp với Bộ Công nghiệp, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Quỹ Hỗ trợ phát triển nghiên cứu, đề xuất
cơ chế hỗ trợ lãi suất sau đầu tư hoặc bù lãi suất đối với các dự án thuộc
Chương trình phát triển cơ khí, phát triển các sản phẩm công nghiệp trọng điểm,
chương trình tăng tốc ngành dệt may, chương trình phát triển các vùng nguyên liệu...
(nếu Quỹ hỗ trợ phát triển không đủ nguồn vốn).
- Nghiên cứu đề xuất, trình Thủ
tướng Chính phủ cơ chế cho vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước để hỗ
trợ thực hiện các phương thức mua bán trả góp, trả chậm, đại lý và hợp đồng hai
chiều với nông dân đối với một số máy móc, tư liệu sản xuất thiết yếu phục vụ
canh tác, chế biến nông sản, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản.
- Nghiên cứu, đề xuất mức thuế
giá trị gia tăng hợp lý đối với một số mặt hàng công nghiệp, đảm bảo khuyến
khích sản xuất, trình Thủ tướng Chính phủ khi xem xét trong quá trình chỉnh, sửa
Luật thuế giá trị gia tăng.
- Chỉ đạo Tổng cục Hải quan ban
hành danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được miễn kiểm tra thực tế hải
quan.
b. Bộ Thương mại phối hợp với Bộ
Tài chính và các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu, bổ sung Quy chế thưởng kim ngạch
xuất khẩu.
c. Bộ Công nghiệp:
- Chủ trì phối hợp với Bộ Tài
chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đề xuất cơ chế bán trả góp đối với sản phẩm
động cơ diezen để triển khai thực hiện.
- Trình Thủ tướng Chính phủ uỷ
quyền xem xét, phê duyệt Chiến lược phát triển một số ngành công nghiệp cụ thể.
- Phối hợp với Bộ Tài chính, Quỹ
Hỗ trợ phát triển và các cơ quan liên quan rà soát, đề xuất cơ chế, chính sách
ưu đãi đối với một số dự án thuộc ngành cơ khí, sản phẩm công nghiệp trọng điểm
theo hướng bù lãi suất hoặc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.
Văn phòng Chính phủ xin thông
báo để các Bộ, ngành liên quan biết, thực hiện.