SẮC LỆNH
SẮC
LỆNH SỐ 43 VỀ MỖI KỲ MỘT “ HỘI ĐỒNG PHÁN ĐỊNH THẨM QUYỀN GIỮA TÒA ÁN QUÂN SỰ,
TÒA ÁN ĐẶC BIỆT VÀ TÒA ÁN THƯỜNG” CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ
CỘNG HOÀ SỐ 43 NGÀY 3 THÁNG 4 NĂM 1946
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Chiểu chi Sắc lệnh
ngày 23-11-1945 về Toà án đặc biệt;
Chiểu chi Sắc lệnh ngày
14-2-1946 về Toà án quân sự;
Chiểu chi nghị định Bộ trưởng Bộ
Tư pháp ngày 25-2-1946 về Toà án quân sự;
Xét cần phải thiết lập một cơ
quan cao cấp để giải quyết những vụ phân tranh quyền hạn giữa Toà án quân sự,
Toà án đặc biệt cùng Toà án thường;
Sau khi đã được Hội đồng Chính
phủ thoả thuận,
RA
SẮC LỆNH:
Điều 1: Nay
lập tại mỗi kỳ một "Hội đồng phán định thẩm quyền giữa Toà án quân sự, đặc
biệt và Toà án thường".
Trụ sở của Hội đồng ấy là ở Hà
Nội, Thuận Hoá và Sài Gòn.
Điều 2: Hội
đồng phán định thẩm quyền gồm có:
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp hoặc
người đại diện là Chủ tịch Uỷ ban hành chính kỳ Chủ tịch
- Chánh nhất Toà Thượng thẩm Hội
viên
- Chưởng lý Toà Thượng thẩm Hội
viên
Một viên lục sự do ông Chưởng lý
chỉ định sẽ giúp Hội đồng và giữ giấy má.
Điều 3: Hội
đồng phán định thẩm quyền có thẩm quyền phán định:
1- Các việc phân tranh về thụ lý;
2- Các việc phân tranh về di lý;
giữa Toà án quân sự, Toà án đặc biệt và Toà án thường.
Điều 4: Các
người sau này có quyền khởi tụng về phân tranh quyền hạn:
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
- Bộ trưởng Bộ Nội vụ;
- Công cáo uỷ viên các Toà án
quân sự;
- Chưởng lý và Biện lý.
Điều 5: Mỗi khi có một
tội phạm do hai toà án mà một là hoặc Toà án quân sự, hoặc Toà án đặc biệt,
hoặc Toà án thường cùng thụ lý, thì toà án nào nếu xét rằng mình thực có thẩm
quyền có thể viết giấy yêu cầu toà án đối phương hoặc di lý và trả hồ sơ cho
mình, hoặc nếu không sẽ phải để hồ sơ lên H.D.P.D.T.Q. xét. Bản yêu sách thẩm
quyền đó sẽ nói rõ các lý do của mình.
Bản thanh tra đặc biệt hoặc Biện
lý hoặc Công cáo uỷ viên của Toà án đối phương khi nhận được bản yêu sách đó
trong hạn 5 ngày phải:
1- Hoặc trao hồ sơ vụ án tương
tranh sang toà án yêu sách có thẩm quyền, và như thế thì việc đến đấy là xong.
2- Hoặc nếu không bằng lòng bản
yêu sách đó, sẽ trả lời cho toà án đối phương biết và làm một tờ thuyết trình
binh vực quan điểm của mình, kèm cả bản yêu sách thẩm quyền của toà án đối
phương cùng cả hồ sơ vụ án tương tranh lên ông Chủ tịch H.D.P.D.T.Q. xét.
Điều 6: Nếu
một toà án đã nhận được bản yêu sách thẩm quyền mà không chịu di lý và cũng
không chịu giả lời cùng đệ hồ sơ lên ông Chủ tịch H.D.P.D.T.Q., thì toà án yêu
sách thẩm quyền có thể gửi bản sao bản yêu sách của mình cùng hồ sơ, nếu có,
lên ông Chủ tịch H. D. P. D. T. Q để khởi tụng vụ phân tranh quyền hạn.
Điều 7: Mỗi
khi cả Toà án quân sự hay Toà án đặc biệt lẵn Toà án thường đều lần lượt tuyên
án không có thẩm quyền xét xử một việc thì Ban thanh tra đặc biệt hoặc Biện lý
hoặc Công cáo uỷ viên của toà án nào sau cùng đã tuyên án về thẩm quyền sẽ đệ
hồ sơ lên ông Chủ tịch H.D.P.D.T.Q. để khởi tụng về phân tranh di lý nói trên.
Điều 8: Ông
Chủ tịch H.D.P.D.T.Q. có thể tự mình hoặc cử một hội viên trong Hội đồng làm uỷ
viên thuyết trình vụ phân tranh trước H.D.P.D.T.Q.
Vì uỷ viên thuyết trình đó có
thể hỏi các toà án tương tranh cho những tài liệu cần thiết để giúp ích cho sự
phân định của Hội đồng.
Điều 9: H.D.P.D.T.Q.
nếu xét cả hai toà án tương tranh đều vô thẩm quyền có thể giao việc phạm pháp
cho một toà án thứ ba xét xử.
Điều 10: H.D.P.D.T.Q.
sẽ quyết nghị trong một hạn ngăn nhất sau khi nhận được hồ sơ vụ án phân tranh
quyền hạn.
Điều 11: H.D.P.D.T.Q.
xét xử ở trong phòng kín, chỉ bằng vào giấy má bút lục; những quyết nghị của
Hội đồng ấy sẽ chung thẩm.
Điều 12: Bản
quyết nghị phán định thẩm quyền sẽ do viên lục sự giúp việc H.D.P.D.T.Q. gửi
cùng với cả hồ sơ vụ án trả toà án nào có thẩm quyền. Đồng thời một bản sao bản
quyết nghị đó sẽ gửi báo cho toà án đối phương biết.
Điều 13: Một nghị định Bộ
trưởng Bộ Tư pháp, nếu cần, sẽ ấn định các chi tiết để thi hành Sắc lệnh này.
Điều 14: Các
ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp có nhiệm vụ thi hành Sắc lệnh này.