SẮC LỆNH
CỦA
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ SỐ 19 NGÀY 16 THÁNG 2 NĂM 1947
CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ
Chiểu Sắc lệnh số 34 ngày
25-3-46 tổ chức Bộ Quốc phòng,
Chiểu Sắc lệnh số 71 ngày
23-5-46 ấn định Quy tắc Quân đội quốc gia Việt Nam);
Chiểu Sắc lệnh số 163 ngày
23-8-46 tổ chức Toà án binh lâm thời;
Chiểu Sắc lệnh số 4-SL ngày
28-12-46 về việc ân giảm;
Chiểu Thông lệnh số 11-NV/ct
ngày 26-12-46 về tổ chức và thẩm quyền các Toà án binh tại mặt trận,
Xét tình thế hiện thời,
Theo đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng và Bộ Tư pháp;
Sau khi Hội đồng Chính phủ đã
thoả hiệp;
RA
SẮC LỆNH:
Điều thứ 1
Trừ các Toà án Binh tại mặt trận
tổ chức theo Thông lệnh liên bộ số 11-NV/CT ngày 26-12-46, các Toà án binh trên
toàn cõi Việt Nam tổ chức như sau.
Điều thứ 2
Ở mỗi khu sẽ đặt một Toà án
Binh; Nhưng nếu xét cần Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có thể ký nghị định lập thêm
trong khu một hay nhiều Toà án Binh ở những nơi quân đội đóng.
Điều thứ 3
Mỗi Toà án Binh gồm có:
- 1 Chánh án và 2 hội thẩm ngồi
xử,
- 1 Uỷ viên Chính phủ đứng buộc
tội,
- 1 lục sự chép các điều tranh
luận, giữ án từ và giấy má.
Chánh án là Khu trưởng hoặc một
quân nhân từ cấp Trung đoàn trưởng trở lên do Khu trưởng đề cử và Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng chuẩn y.
Hội thẩm thứ nhất là một phẩm
phán đệ nhị cấp ngạch Tư pháp do Giám đốc Tư pháp Khu đề cử và Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng chuẩn y.
Hội thẩm thứ hai là một quân
nhân thuộc cấp chỉ huy do Khu trưởng đề cử và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chuẩn y.
Uỷ viên Chính phủ là chính trị
viên Khu hoặc một quân nhân thuộc cấp chính trị viện Trung đoàn trở lên do
Chính trị viên Khu đề cử và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chuẩn y.
Lục sự là một quân nhân do Khu
trưởng chỉ định.
Đối với mỗi chức vụ kể trên, sẽ
cử một nhân viên chính thức và một nhân viên sự khuyết thay nhân viên chính thức
khi mắc bận.
Điều thứ 4
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có thể uỷ
cho Uỷ ban kháng chiến Khu quyền lập Toà án binh ở hậu phương, hoặc quyền chuẩn
y việc cử các nhân viên hoặc cả hai quyền ấy.
Điều thứ 5
Toà án binh Khu có thẩm quyền
xét xử những quân nhân phạm vào:
a) Một hay nhiều tội định ở hình
luật chung, theo những hình phạt định ở trong ấy,
b) Một hay nhiều tội có tính
cách nhà binh, định ở Điều thứ 7 Sắc lệnh số 165 ngày 23-8-46 theo những hình
phạt định ở Điều ấy.
Điều thứ 6
Uỷ viên Chính phủ ở Toà án Binh
Khu giữ quyền công tố trong địa phận khu mình và nếu cần, kiêm công việc dự thẩm.
Cách làm việc của các Toà án
binh cũng theo những nguyên tắc định trong Sắc lệnh số 163 ngày 23-8-46 tổ chức
toà án binh lâm thời, từ Điều thứ 8 trở đi.
Điều thứ 7
Nếu trong một vụ phạm pháp có cả
quân nhân cả trường dân, việc ấy sẽ do Toà án Binh hoặc Toà án quân sự xét xử
tuỳ theo trường hợp và tính cách việc phạm pháp.
Điều thứ 8
Nếu có sự tranh quyền giữa một Toà
án binh và một Toà án quân sự, việc ấy sẽ giải quyết bởi một hội đồng phân định
thẩm quyền. Hội đồng ấy gồm có:
- Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến
khu Chủ tịch
- Chánh án toà án binh Khu Hội
viên
Điều thứ 9
Trong trường hợp Khu trưởng kiêm
hai chức vụ Chánh toà án binh Khu và Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến Khu thì Uỷ ban
Kháng chiến sẽ đề cử một trong những hai uỷ viên kia trong Uỷ ban Kháng chiến.
Khu làm Chủ tịch Hội đồng phân định thẩm quyền. Sự đề cử này phải được Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng chuẩn y.
Điều thứ 10
Các bản án của Toà án Binh Khu sẽ
thi hành ngay, trừ những án tử hình. Nếu truyền án tử hình, Chánh án bắt buộc
phải báo cho phạm nhân biết rằng y có quyền xin ân giảm.
Thủ tục về việc ân xá và ân giảm
theo Sắc lệnh số 4-SL ngày 28-12-46.
Điều thứ 11
Về phương tiện quản trị, Toà án
binh khu thuộc quyền Uỷ ban Kháng chiến Khu;
Về phương diện chuyên môn, các
Toà án binh đều thuộc quyền Quân Pháp cục Bộ Quốc phòng.
Điều thứ 12
Các điều khoản trái với Sắc lệnh
này đều bãi bỏ.
Điều thứ 13
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Bộ
trưởng Bộ Tư pháp chiểu Sắc lệnh thi hành.