BAN CHẤP
HÀNH TRUNG ƯƠNG
--------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
---------------
|
Số: 19-NQ/TW
|
Hà Nội, ngày
25 tháng 10 năm 2017
|
NGHỊ QUYẾT
HỘI NGHỊ LẦN THỨ SÁU
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHOÁ XII
VỀ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ,
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP
I- TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1- Trong những năm qua, các cấp, các ngành
đã tích cực triển khai chủ trương của Đảng về đổi mới hệ thống tổ chức và quản
lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập,
đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. Hệ thống các đơn vị sự nghiệp công
lập với đông đảo đội ngũ trí thức, các nhà khoa học, các nhà giáo dục và các
nhà văn hoá đã có đóng góp to lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
góp phần thực hiện các mục tiêu giảm nghèo bền vững, hoàn thành phổ cập giáo dục
mầm non cho trẻ em 5 tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học, tăng cường bình đẳng giới,
nâng cao sức khoẻ nhân dân, góp phần bảo đảm bền vững môi trường, công bằng xã
hội và hoàn thành cơ bản các mục tiêu Thiên niên kỷ.
Hệ thống cung ứng dịch vụ sự nghiệp công đã hình
thành ở hầu hết các địa bàn, lĩnh vực; mạng lưới cơ sở giáo dục, y tế, văn
hoá, thể thao trải rộng đến tận khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, địa bàn
khó khăn, biên giới, hải đảo trong cả nước. Các đơn vị sự nghiệp công lập giữ
vai trò chủ đạo, vị trí then chốt trong cung ứng dịch vụ sự nghiệp công và thực
hiện chính sách an sinh xã hội. Hệ thống pháp luật về đơn vị sự nghiệp công từng
bước được hoàn thiện. Việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các
đơn vị sự nghiệp công lập đã đạt được kết quả bước đầu. Chính sách xã hội hoá
cung ứng dịch vụ sự nghiệp công đã góp phần mở rộng mạng lưới, tăng quy mô, số
lượng và nâng cao chất lượng các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập.
2- Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của các
đơn vị sự nghiệp công lập vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém và còn không ít những
khó khăn, thách thức phải vượt qua. Nhiều văn bản pháp luật về đơn vị sự nghiệp
công lập chậm được ban hành hoặc chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung. Công tác đổi mới
hệ thống tổ chức các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm. Quy hoạch mạng lưới
đơn vị sự nghiệp công lập chủ yếu còn theo đơn vị hành chính, chưa chú trọng
quy hoạch theo ngành, lĩnh vực, đặc điểm vùng miền và nhu cầu thực tế. Hệ thống
tổ chức các đơn vị sự nghiệp còn cồng kềnh, manh mún, phân tán, chồng chéo; quản
trị nội bộ yếu kém, chất lượng, hiệu quả dịch vụ thấp. Chi tiêu ngân sách nhà
nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập còn quá lớn, một số đơn vị thua lỗ, tiêu
cực, lãng phí. Cơ cấu đội ngũ cán bộ, viên chức chưa hợp lý, chất lượng chưa
cao, năng suất lao động thấp. Thực hiện cơ chế tự chủ tài chính còn hình thức,
có phần thiếu minh bạch; việc chuyển đổi từ phí sang giá và lộ trình điều chỉnh
giá dịch vụ sự nghiệp công chưa kịp thời. Việc thực hiện xã hội hoá lĩnh vực dịch
vụ sự nghiệp công còn chậm. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước còn hạn chế.
Công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát và xử lý sai phạm trong hoạt
động của đơn vị sự nghiệp công lập còn bất cập.
3- Những hạn chế, yếu kém nêu trên chủ yếu
là do nguyên nhân chủ quan. Việc thể chế hoá các chủ trương của Đảng thành
chính sách, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực sự nghiệp công còn chậm, chưa đầy
đủ, đồng bộ và phù hợp với tình hình. Nhiều cấp uỷ đảng, lãnh đạo và người đứng
đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nhận thức chưa đầy đủ, thiếu quyết tâm chính trị,
thiếu quyết liệt và đồng bộ trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện đổi mới, sắp xếp lại,
quản lý biên chế các đơn vị sự nghiệp công lập; chưa chủ động chuyển các đơn vị
sự nghiệp công lập sang hoạt động theo cơ chế tự chủ. Công tác tuyên truyền,
quán triệt chủ trương, chính sách, pháp luật chưa thường xuyên; tư tưởng trông
chờ, ỷ lại vào Nhà nước trong thụ hưởng dịch vụ sự nghiệp công còn phổ biến.
II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ MỤC
TIÊU
1- Quan điểm chỉ đạo
(1) Đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên hàng đầu, là nhiệm vụ chính trị vừa cấp
bách, vừa lâu dài của tất cả các cấp uỷ đảng, chính quyền và toàn hệ thống
chính trị.
(2) Nhà nước chăm lo, bảo đảm cung cấp dịch vụ sự
nghiệp công cơ bản, thiết yếu, nâng cao khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ
sự nghiệp công cho mọi tầng lớp nhân dân trên cơ sở giữ vững, phát huy tốt hơn
nữa vai trò chủ đạo, vị trí then chốt, bản chất tốt đẹp, ưu việt, hoạt động
không vì mục tiêu lợi nhuận của các đơn vị sự nghiệp công lập.
(3) Đẩy mạnh xã hội hoá, nhất là trong các
ngành, lĩnh vực và địa bàn mà khu vực ngoài công lập làm được và làm tốt; huy động
và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển lành mạnh thị trường
dịch vụ sự nghiệp công trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Thực hiện công khai, minh bạch, không thương mại hoá. Bảo đảm công bằng,
bình đẳng giữa các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập.
(4) Thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ,
giải pháp đã đề ra trong quá trình đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng
cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, gắn với đổi
mới hệ thống chính trị và cải cách hành chính, đồng thời có lộ trình và bước đi
phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tổng
kết thực tiễn để kịp thời bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách.
(5) Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước, quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm toàn diện về thực hiện nhiệm vụ,
tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập, phát huy
vai trò giám sát của người dân trong quá trình đổi mới hệ thống tổ chức và quản
lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
2- Mục tiêu
2.1- Mục tiêu tổng quát
Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống
các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực
tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; giữ vai
trò chủ đạo, then chốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công; cung ứng dịch vụ
sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao. Giảm mạnh đầu mối,
khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải và trùng lắp; tinh giản biên chế gắn với
cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức. Giảm mạnh tỉ trọng,
nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập để cơ cấu
lại ngân sách nhà nước, cải cách tiền lương và nâng cao thu nhập cho cán bộ,
viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường dịch vụ sự
nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch
vụ sự nghiệp công.
2.2- Mục tiêu cụ thể
Giai đoạn đến năm 2021
- Cơ bản hoàn thành việc thể chế hoá các chủ
trương của Đảng về đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính và tổ chức lại hệ
thống đơn vị sự nghiệp công lập.
- Giảm mạnh về đầu mối, tối thiểu bình quân cả
nước giảm 10% đơn vị sự nghiệp công lập. Giảm tối thiểu 10% biên chế sự nghiệp
hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2015. Cơ bản chấm dứt số hợp đồng
lao động không đúng quy định trong các đơn vị sự nghiệp công lập (trừ những đơn
vị đã bảo đảm tự chủ tài chính).
- Phấn đấu có 10% đơn vị tự chủ tài chính, giảm
bình quân 10% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp công
lập so với giai đoạn 2011 - 2015.
- Hoàn thành cơ bản việc chuyển đổi các đơn vị sự
nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác có đủ điều kiện thành công ty cổ phần (trừ các
bệnh viện và trường học).
- Hoàn thành lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp
công (tính đủ tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và khấu hao tài sản)
đối với một số lĩnh vực cơ bản như y tế, giáo dục - đào tạo, giáo dục nghề nghiệp.
Giai đoạn đến năm 2025 và 2030
Hoàn thiện đầy đủ và đồng bộ hệ thống pháp luật
để thể chế hoá các chủ trương của Đảng về đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài
chính, tổ chức và hoạt động đơn vị sự nghiệp công lập.
Đến năm 2025
- Tiếp tục giảm tối thiểu bình quân cả nước 10%
đơn vị sự nghiệp công lập và 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách
nhà nước so với năm 2021. Chấm dứt số hợp đồng lao động không đúng quy định
trong các đơn vị sự nghiệp công lập (trừ các đơn vị bảo đảm tự chủ tài chính).
- Phấn đấu có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài
chính.
- 100% đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp
khác có đủ điều kiện hoàn thành chuyển đổi thành công ty cổ phần.
- Tiếp tục giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ
ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2016 - 2020.
Đến năm 2030
- Tiếp tục thực hiện việc giảm đầu mối, phấn đấu
chỉ còn các đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ nhiệm vụ chính trị, phục vụ quản
lý nhà nước và các đơn vị cung ứng các dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu.
- Giảm 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ
ngân sách nhà nước so với năm 2025.
- Giảm bình quân 15% chi trực tiếp từ ngân sách
nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2021 - 2025.
III- NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP
1- Đẩy mạnh công tác thông
tin, tuyên truyền về mục tiêu, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung đổi mới cơ chế quản
lý, cơ chế tài chính và tổ chức lại hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập nhằm
nâng cao nhận thức, tạo đồng thuận ở các ngành, các cấp, các đơn vị sự nghiệp
và toàn xã hội trong việc thực hiện chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hoá dịch vụ sự nghiệp công.
2- Sắp xếp, tổ chức lại các
đơn vị sự nghiệp công lập
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tiêu
chí phân loại, điều kiện thành lập, sáp nhập, hợp nhất, giải thể các đơn vị sự
nghiệp công lập theo từng ngành, lĩnh vực. Trên cơ sở đó, sắp xếp, tổ chức lại
đơn vị sự nghiệp công lập của từng ngành, lĩnh vực theo nguyên tắc: (1) Pháp luật
chuyên ngành không quy định việc thành lập tổ chức bộ máy các đơn vị sự nghiệp
công lập; (2) Trường hợp cần thiết phải thành lập mới đơn vị sự nghiệp công lập,
thì đơn vị đó phải tự bảo đảm toàn bộ về tài chính (trừ trường hợp phải thành lập
mới để cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu); (3) Một đơn vị sự
nghiệp công lập có thể cung ứng nhiều dịch vụ sự nghiệp công cùng loại nhằm giảm
mạnh đầu mối, khắc phục chồng chéo, dàn trải, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ;
(4) Cơ cấu lại hoặc giải thể các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động không hiệu
quả; (5) Đẩy mạnh xã hội hoá, chuyển các đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp
khác đủ điều kiện thành công ty cổ phần.
Việc sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp
công lập của từng ngành, lĩnh vực cụ thể như sau:
2.1- Đối với lĩnh vực giáo dục - đào tạo
- Đối với giáo dục đại học:
Sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể các trường đại học, cơ sở giáo dục - đào tạo
hoạt động không hiệu quả, không nhất thiết tỉnh nào cũng có trường đại học. Sắp
xếp, tổ chức lại, tập trung xây dựng một số trường sư phạm trọng điểm để đào tạo
đội ngũ giáo viên và quản lý giáo dục. Nhà nước tập trung đầu tư chiều sâu, cơ
sở vật chất, nguồn nhân lực chất lượng cao đối với các trường đại học công lập ở
một số lĩnh vực mang tầm cỡ khu vực và quốc tế. Các trường trong Quân đội, Công
an chỉ thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho lực lượng vũ trang.
- Đối với giáo dục mầm non, phổ
thông: Sắp xếp, tổ chức lại gắn với nâng cao chất lượng giáo dục, hình
thành trường phổ thông nhiều cấp học (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông) phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tế của mỗi địa phương, địa bàn cụ
thể. Rà soát, sắp xếp, điều chỉnh lại quy mô lớp học một cách hợp lý; thu gọn lại
các điểm trường trên nguyên tắc thuận lợi cho người dân và phù hợp với điều kiện
thực tế của vùng, miền, địa phương. Tạo điều kiện chuyển đổi mô hình các cơ sở
giáo dục mầm non, trung học phổ thông từ công lập ra ngoài công lập ở những nơi
có khả năng xã hội hoá cao.
2.2- Đối với lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp
- Sắp xếp, tổ chức lại hệ thống cơ sở giáo dục
nghề nghiệp theo hướng mở và linh hoạt đáp ứng nhu cầu nhân lực của thị trường
lao động; bảo đảm quy mô, cơ cấu và hợp lý về ngành nghề, trình độ đào tạo, chuẩn
hoá, hiện đại hoá, có phân tầng chất lượng. Nhà nước tập trung đầu tư một số cơ
sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho
các nhóm đối tượng đặc thù phù hợp với khả năng đầu tư của Nhà nước và khả năng
huy động nguồn lực của xã hội.
- Sáp nhập trường trung cấp vào trường cao đẳng;
giải thể các trường trung cấp, cao đẳng hoạt động không hiệu quả. Về cơ bản,
trên địa bàn cấp tỉnh chỉ còn một đầu mối đào tạo nghề công lập. Sáp nhập trung
tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm giáo dục hướng nghiệp, trung tâm dạy nghề
thành một cơ sở giáo dục dạy nghề trên địa bàn cấp huyện.
2.3- Đối với lĩnh vực y tế
- Tổ chức các cơ sở y tế theo hướng toàn diện,
liên tục và lồng ghép theo 3 cấp: Chăm sóc ban đầu, chăm sóc cấp 2, chăm sóc cấp
3. Sắp xếp lại các đơn vị làm nhiệm vụ kiểm nghiệm, kiểm định, kiểm chuẩn thành
đơn vị kiểm soát dược phẩm, thực phẩm và thiết bị y tế.
- Xây dựng một số bệnh viện hiện đại ngang tầm
khu vực và quốc tế. Sớm hoàn thành việc sắp xếp các đơn vị làm nhiệm
vụ y tế dự phòng cấp tỉnh và Trung ương thành trung tâm phòng ngừa và kiểm soát
dịch bệnh cùng cấp trên cơ sở sáp nhập các tổ chức, đơn vị có cùng chức năng,
nhiệm vụ và hoạt động lồng ghép.
- Thực hiện thống nhất mô hình mỗi cấp huyện chỉ
có một trung tâm y tế đa chức năng (trừ các huyện có bệnh viện đạt hạng II trở
lên), bao gồm y tế dự phòng, dân số, khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức
năng và các dịch vụ y tế khác; trung tâm trực tiếp quản lý trạm y tế xã và phòng
khám đa khoa khu vực (nếu có). Rà soát, sắp xếp hợp lý các phòng khám đa khoa
khu vực. Nơi đã có cơ sở y tế trên địa bàn cấp xã thì có thể không
thành lập trạm y tế xã.
- Điều chỉnh, sắp xếp lại các bệnh viện bảo đảm
mọi người dân đều có thể tiếp cận thuận lợi về mặt địa lý. Chuyển dần các bệnh
viện thuộc Bộ Y tế và các bộ, cơ quan nhà nước ở Trung ương về địa phương quản
lý (trừ các bệnh viện thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an; một số ít bệnh viện
chuyên khoa đầu ngành, bệnh viện của các trường đại học).
2.4- Đối với lĩnh vực khoa học và công nghệ
- Rà soát, sắp xếp lại hệ thống tổ chức khoa học
và công nghệ nhằm giảm mạnh đầu mối, kể cả ở các bộ, cơ quan Trung ương và địa
phương, khắc phục tình trạng chồng chéo, dàn trải, trùng lắp về chức năng, nhiệm
vụ, lĩnh vực nghiên cứu, gắn với quá trình cơ cấu lại ngành khoa học và công
nghệ. Về cơ bản, chỉ nên tổ chức một đơn vị sự nghiệp công lập thuộc sở khoa học
và công nghệ.
- Lựa chọn để tập trung đầu tư một số tổ chức
nghiên cứu khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng đạt trình độ khu vực và thế giới.
Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ,
phát triển mạnh mẽ thị trường khoa học và công nghệ phù hợp với cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ 4.
- Chuyển một số tổ chức khoa học và công nghệ hoạt
động nghiên cứu ứng dụng mà sản phẩm khoa học có khả năng thương mại hoá thành
doanh nghiệp hoặc chuyển về trực thuộc các tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Có
cơ chế tăng cường liên kết giữa các tổ chức khoa học và công nghệ với các trường
đại học và doanh nghiệp để gắn kết nghiên cứu khoa học với hoạt động đào tạo và
sản xuất kinh doanh.
- Nghiên cứu chuyển một số tổ chức khoa học và
công nghệ công lập hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu cơ bản về trực thuộc các
trường đại học, học viện để thúc đẩy gắn kết giữa nghiên cứu với đào tạo.
2.5- Đối với lĩnh vực
văn hoá, thể dục, thể thao
- Sắp xếp lại, nâng cao năng lực các đơn vị nghệ
thuật biểu diễn công lập theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả. Tiếp tục
duy trì các đơn vị nghệ thuật truyền thống tiêu biểu. Mỗi tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chỉ giữ lại một đoàn nghệ thuật công lập truyền thống tiêu biểu
của địa phương. Đối với các đơn vị nghệ thuật khác chuyển sang hình thức ngoài
công lập. Hợp nhất trung tâm văn hoá và đoàn nghệ thuật cấp tỉnh thành một đầu
mối.
- Kiện toàn, củng cố thư viện công cộng cấp huyện
với các mô hình, thiết chế đã có; việc thành lập mới chỉ được thực hiện tại các
địa phương có nhu cầu và điều kiện cho phép.
- Hoàn thiện, nâng cao chất lượng và mở rộng phạm
vi hoạt động cấp quốc gia đối với một số bảo tàng chuyên ngành có các bộ sưu tập
quý hiếm, có giá trị nghiên cứu khoa học để thu hút khách tham quan và phát triển
du lịch.
- Thực hiện chủ trương sáp nhập các trung tâm có
chức năng, nhiệm vụ tương đồng thuộc sở văn hoá, thể thao và du lịch thành một
đầu mối. Sáp nhập các trung tâm văn hoá, trung tâm thể thao, nhà văn hoá… trên
địa bàn cấp huyện thành một đầu mối.
2.6- Đối với lĩnh vực thông tin và truyền
thông
- Lĩnh vực báo chí: Đẩy
mạnh thực hiện việc sắp xếp theo Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí đến
năm 2025 đã được Bộ Chính trị khoá XI thông qua nhằm khắc phục tình trạng chồng
chéo, dàn trải đầu tư, buông lỏng quản lý, hoạt động xa rời tôn chỉ, mục đích,
gắn với việc xác định rõ trách nhiệm lãnh đạo, quản lý báo chí của các cấp uỷ đảng,
chính quyền, nhất là của người đứng đầu cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí.
- Lĩnh vực xuất bản: Chuyển
hầu hết các nhà xuất bản sang đơn vị sự nghiệp có thu; trường hợp thật sự cần
thiết, đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thì cho phép chuyển sang công
ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên 100% vốn nhà nước.
- Lĩnh vực công nghệ thông tin: Kiện
toàn tổ chức, nâng cao năng lực hoạt động của các đơn vị sự nghiệp về an toàn
thông tin. Tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công nghệ thông tin khác, bao gồm:
Giải thể, sáp nhập, chuyển đổi loại hình đối với những đơn vị sự nghiệp công lập
quy mô nhỏ, hoạt động không hiệu quả, không phục vụ quản lý nhà nước hoặc hoạt
động trong lĩnh vực đã xã hội hoá cao.
- Lĩnh vực bưu chính, viễn thông: Rà
soát, sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tinh gọn, nâng cao năng
lực hoạt động để đáp ứng yêu cầu phục vụ quản lý nhà nước.
- Các lĩnh vực thông tin và truyền
thông khác: Rà soát, hoàn thiện mô hình tổ chức, hoạt động của các đơn
vị sự nghiệp thuộc các cơ quan Trung ương, địa phương để bảo đảm tính thống nhất
trong quản lý, chỉ đạo, điều hành về hoạt động thông tin và truyền thông.
2.7- Sự nghiệp kinh tế, sự nghiệp khác
- Chuyển mạnh các đơn vị sự nghiệp kinh tế, sự
nghiệp khác có đủ điều kiện thành công ty cổ phần. Giải thể các đơn vị sự nghiệp
kinh tế hoạt động không hiệu quả.
- Về lĩnh vực bảo trợ xã hội,
chăm sóc người có công: Tổ chức lại các cơ sở trợ giúp xã hội theo hướng
hỗ trợ chăm sóc phục hồi chức năng, trợ giúp các nhóm đối tượng dựa vào cộng đồng.
Phát triển các trung tâm nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công phù hợp với điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hợp nhất các trung tâm bảo trợ
có chức năng, nhiệm vụ tương đồng thành trung tâm bảo trợ đa chức năng.
- Về lĩnh vực nông nghiệp và phát
triển nông thôn: Sắp xếp lại, giảm mạnh đầu mối và nâng cao hiệu quả
hoạt động các đơn vị sự nghiệp. Hợp nhất trạm chăn nuôi và thú y, trạm trồng trọt
và bảo vệ thực vật, trạm khuyến nông, khuyến ngư,… cấp huyện thành trung tâm dịch
vụ nông nghiệp trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện và chuyển một số chức năng,
nhiệm vụ về quản lý nhà nước ở các đơn vị này về phòng nông nghiệp (hoặc phòng
kinh tế) cấp huyện. Sáp nhập các cơ quan tương ứng ở cấp tỉnh, đưa chức năng quản
lý nhà nước của các cơ quan này về sở nông nghiệp và phát triển nông thôn. Rà
soát, sắp xếp lại, kiện toàn các ban quản lý rừng phòng hộ theo hướng tinh gọn,
hiệu quả.
- Về lĩnh vực tài nguyên và môi trường: Chuyển
các trung tâm phát triển quỹ đất về trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện quản
lý.
2.8- Nghiên cứu việc hợp nhất các cơ sở đào tạo
về lý luận chính trị của Đảng với các cơ sở đào tạo về quản lý hành chính ở địa
phương theo hướng tinh gọn tổ chức bộ máy, tạo sự thống nhất và liên
thông giữa các khu vực, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đào tạo cán bộ
cho hệ thống chính trị. Nghiên cứu, đổi mới mô hình tổ chức của các trung tâm bồi
dưỡng chính trị cấp huyện, giao cho các trường chính trị tỉnh chịu trách nhiệm
về hướng dẫn chuyên môn, tăng cường cán bộ giảng dạy kiêm nhiệm của cấp uỷ cấp
huyện.
3- Quản lý biên chế và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực
- Đổi mới cơ chế xác định và giao biên chế theo
hướng quản lý, giám sát chặt chẽ biên chế của các đơn vị sự nghiệp công lập do
ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ hoặc một phần chi thường xuyên; đẩy mạnh thí
điểm việc thi tuyển và thực hiện thuê giám đốc điều hành tại các đơn vị sự nghiệp
công lập. Thực hiện chế độ hợp đồng viên chức có thời hạn đối với những trường
hợp tuyển dụng mới (trừ các đơn vị sự nghiệp công lập ở vùng sâu, vùng xa, vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn). Không thực hiện chế độ công
chức trong đơn vị sự nghiệp công lập (trừ các đơn vị phục vụ nhiệm vụ chính trị
và phục vụ quản lý nhà nước). Thực hiện nghiêm việc đánh giá, phân loại viên chức
hằng năm theo quy định hiện hành để đưa ra khỏi đội ngũ những người 2 năm liên
tiếp không hoàn thành nhiệm vụ.
- Chấm dứt việc tự phê duyệt và giao biên chế sự
nghiệp vượt quá số lượng được cơ quan có thẩm quyền giao hoặc thẩm định; có kế
hoạch và giải pháp để giải quyết dứt điểm số viên chức và số người lao động vượt
quá số biên chế được giao (trừ các đơn vị đã tự chủ tài chính). Các cơ quan,
đơn vị chưa sử dụng hết số biên chế được giao phải xem xét, cắt giảm phù hợp.
- Tổ chức phân loại viên chức theo vị trí việc
làm và sắp xếp, bố trí lại cơ cấu viên chức theo hướng vị trí chuyên môn, nghiệp
vụ chiếm tỉ lệ ít nhất 65%. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng
lực, trình độ, bố trí, sử dụng hợp lý, hiệu quả đội ngũ này. Rà soát, sắp xếp,
cơ cấu lại và tinh giản biên chế đối với các chức danh kế toán, y tế học đường
tại các trường mầm non, phổ thông và các chức danh lái xe, bảo vệ, nhân viên phục
vụ trong các đơn vị sự nghiệp công lập.
- Quy định và thực hiện nghiêm về số lượng lãnh
đạo cấp phó. Trong thời gian thực hiện sắp xếp lại, số lượng cấp phó của các
đơn vị sự nghiệp công lập do sáp nhập, hợp nhất có thể cao hơn quy định, nhưng
khi có cấp phó nghỉ hưu hoặc điều chuyển công tác thì không được bổ sung; đồng
thời phải có giải pháp điều chuyển, sắp xếp lại số lượng cấp phó trong thời hạn
tối đa 3 năm kể từ ngày sáp nhập, hợp nhất. Trường hợp điều chuyển giữ chức vụ
thấp hơn thì được bảo lưu phụ cấp chức vụ đến hết thời hạn bổ nhiệm.
- Đổi mới cơ chế, phương thức tuyển dụng, sử dụng
và quản lý viên chức (bao gồm cả cán bộ quản lý). Có chính sách thu hút nhân
tài, thu hút đội ngũ viên chức có chuyên môn, nghiệp vụ giỏi vào làm việc trong
đơn vị sự nghiệp công lập. Thực hiện đào tạo lại, hỗ trợ thích hợp đối với viên
chức và người lao động dôi dư do sáp nhập, giải thể hoặc chuyển thành đơn vị sự
nghiệp ngoài công lập.
4- Đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự
nghiệp công theo cơ chế thị trường, thúc đẩy xã hội hoá dịch vụ sự nghiệp
công
- Rà soát, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính
sách tạo điều kiện đẩy mạnh cung ứng dịch vụ sự nghiệp công theo cơ chế thị trường
và thúc đẩy xã hội hoá trong việc cung cấp các dịch vụ sự nghiệp công: (1) Xác
định các dịch vụ sự nghiệp công do ngân sách nhà nước phải bảo đảm, nhất là đối
với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng điều kiện kinh tế -
xã hội khó khăn; các dịch vụ công khác không sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước,
xác định giá theo cơ chế thị trường, đơn vị được quyết định các khoản thu, mức
thu bảo đảm bù đắp chi phí hợp lý, có tích luỹ để thu hút nhà đầu tư thuộc các
thành phần kinh tế ngoài công lập tham gia cung cấp dịch vụ sự nghiệp
công; (2) Có chính sách khuyến khích ưu đãi về đất đai, thuế, phí, tín dụng,… tạo
điều kiện hỗ trợ cho các đơn vị ngoài công lập, nhà đầu tư tham gia đầu
tư, nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công; (3) Có chính sách đối xử bình đẳng
giữa các đơn vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập trong việc cung cấp dịch vụ
công; các đơn vị sự nghiệp ngoài công lập được tham gia đấu thầu cung cấp dịch
vụ sự nghiệp công của Nhà nước.
- Đẩy mạnh việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp
công lập sang mô hình tự chủ hoàn toàn cả về chi đầu tư, chi thường xuyên, thực
hiện quản lý, kế toán theo mô hình doanh nghiệp. Các đơn vị được Nhà nước giao
vốn, tài sản để thực hiện cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, từng bước tính đủ
chi phí đầu vào (kể cả khấu hao) để xác định giá dịch vụ. Các đơn vị đã bảo đảm
chi đầu tư và chi thường xuyên được quyền quyết định số lượng người làm việc,
tiền lương theo kết quả hoạt động, được Nhà nước hỗ trợ về thuế, phí để tăng cường
năng lực tài chính và khả năng tự cân đối.
- Chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập có đủ
điều kiện sang công ty cổ phần. Không tách, điều chuyển các cơ sở đào tạo, giáo
dục nghề nghiệp và khám, chữa bệnh trong các tập đoàn, tổng công ty nhà nước
khi các tập đoàn, tổng công ty này thực hiện cổ phần hoá.
- Đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế tự chủ, xã hội
hoá, trước hết là các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp và các cơ sở
y tế, tổ chức khoa học và công nghệ ở các địa bàn có khả năng xã hội hoá cao.
Có chính sách thí điểm đổi mới theo lộ trình, đẩy mạnh xã hội hoá các cơ sở
giáo dục mầm non và phổ thông ở các địa bàn có khả năng xã hội hoá cao để mở rộng
quy mô, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của xã hội, nhất là đối với
các thành phố, đô thị lớn có dân số tăng nhanh do nhập cư.
- Thực hiện chuyển đổi hoạt động của các đơn vị
sự nghiệp công lập đủ điều kiện sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hạch
toán như doanh nghiệp, kiên quyết chuyển sang cơ chế tự bảo đảm hoàn toàn về
tài chính đối với nhóm các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp các dịch vụ sự
nghiệp công có khả năng xã hội hoá cao trên cơ sở Nhà nước thực hiện lộ trình bảo
đảm kinh phí hoạt động có thời hạn.
- Khuyến khích thành lập các đơn vị sự nghiệp
ngoài công lập, nhất là trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, giáo dục nghề nghiệp,
y tế, khoa học và công nghệ.
- Có cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận
lợi để thành lập doanh nghiệp đa sở hữu trong các viện nghiên cứu, trường đại học
nhằm thực hiện hoạt động ứng dụng, triển khai, thương mại hoá các kết quả
nghiên cứu và cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.
- Tăng cường gắn kết giữa cơ sở giáo dục nghề
nghiệp với doanh nghiệp theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp phát triển các
cơ sở giáo dục nghề nghiệp để đào tạo đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và thị
trường lao động. Xây dựng chính sách để doanh nghiệp được tham gia giáo dục nghề
nghiệp theo hình thức đặt hàng của Nhà nước và của doanh nghiệp khác; được tham
gia xây dựng danh mục ngành, nghề đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo, đào tạo
tại cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đánh giá kết quả học tập của học sinh, sinh
viên.
- Có chính sách thuận lợi để tổ chức khoa học và
công nghệ công lập được quyền sở hữu và có cơ chế phân chia lợi ích hợp lý đối
với kết quả nghiên cứu khoa học sử dụng ngân sách nhà nước, tạo điều kiện và
thúc đẩy quá trình thương mại hoá ứng dụng kết quả nghiên cứu.
- Tiếp tục thực hiện cơ chế kết hợp công - tư về
nhân lực và thương hiệu trong lĩnh vực y tế; xây dựng cơ chế hợp tác đầu tư giữa
bệnh viện công và bệnh viện tư, giữa các bệnh viện công. Minh bạch hoá các hoạt
động liên doanh, liên kết, hợp tác công - tư, nhất là ở các đơn vị thuộc lĩnh vực
do Nhà nước cấp phép hoạt động; bảo toàn và phát triển vốn, tài sản nhà nước.
5- Nâng cao năng lực quản trị của
đơn vị sự nghiệp công lập
- Đổi mới phương thức quản lý, nâng cao năng lực
quản trị đơn vị, bảo đảm chặt chẽ, hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng hoạt
động cung ứng các dịch vụ sự nghiệp công, đáp ứng yêu cầu của xã hội.
- Rà soát, hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy bên
trong từng đơn vị theo hướng tinh gọn, giảm mạnh đầu mối, bỏ cấp trung gian, đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và khoa học - công nghệ tiên tiến, áp dụng
các tiêu chuẩn, chuẩn mực quản trị quốc tế.
- Nâng cao chất lượng quản trị tài chính, tài sản
công của đơn vị. Ban hành quy chế quản lý tài chính, tài sản công, xác định rõ
thẩm quyền, trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân, nhất là trách nhiệm người đứng
đầu. Hoàn thiện chế độ kế toán, thực hiện chế độ kiểm toán, giám sát, bảo đảm
công khai, minh bạch hoạt động tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập.
- Áp dụng mô hình quản trị đối với các đơn vị sự
nghiệp tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư như mô hình quản trị doanh
nghiệp. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả cơ chế hội đồng trường trong các trường đại
học theo hướng, hội đồng trường là cơ quan thực quyền cao nhất của trường đại học;
bí thư đảng uỷ kiêm chủ tịch hội đồng trường.
- Thực hiện kiểm định, đánh giá và xếp hạng các
đơn vị sự nghiệp công lập, nhất là đối với trường đại học, bệnh viện.
6- Hoàn thiện cơ chế tài chính
- Hoàn thiện pháp luật về cơ chế tự chủ đối với
các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc các ngành, lĩnh vực trên cơ sở mức độ tự chủ
về tài chính, tăng cường phân cấp và tăng tính chủ động cho các đơn vị sự nghiệp
công lập.
- Có cơ chế tài chính phù hợp để huy động mọi
nguồn lực xã hội đầu tư cho lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công, nhất là cho y tế
và giáo dục, kể cả hình thức hợp tác công - tư, liên doanh, liên kết.
- Phân định rõ hoạt động thực hiện nhiệm vụ
chính trị do Nhà nước giao với hoạt động kinh doanh dịch vụ của các đơn vị sự
nghiệp công lập. Xây dựng và hoàn thiện các danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử
dụng ngân sách nhà nước theo nguyên tắc: Đối với các dịch vụ thiết yếu thì Nhà
nước bảo đảm kinh phí; đối với các dịch vụ cơ bản thì Nhà nước hỗ trợ kinh phí
để thực hiện; đối với các dịch vụ mang tính đặc thù của một số ngành, lĩnh vực
thì thực hiện theo cơ chế đặt hàng hoặc đấu thầu để tạo điều kiện cho các cơ sở
ngoài công lập cùng tham gia; đối với các dịch vụ khác thì đẩy mạnh thực hiện
theo cơ chế xã hội hoá, huy động sự tham gia cung ứng của các thành phần kinh tế.
- Đẩy nhanh tiến độ chuyển đổi từ phí sang thực
hiện giá dịch vụ sự nghiệp công theo hướng Nhà nước quy định khung giá dịch vụ,
từng bước tính đủ các chi phí đối với các loại dịch vụ cơ bản, thiết yếu, đồng
thời cần gắn với chính sách hỗ trợ phù hợp cho người nghèo, đối tượng chính
sách. Đối với giá dịch vụ sự nghiệp công không sử dụng ngân sách nhà nước, giao
quyền tự chủ cho các đơn vị cung ứng dịch vụ tự quyết định theo nguyên tắc bảo
đảm bù đắp chi phí và có tích luỹ.
- Đổi mới cơ chế phân bổ nguồn lực, quản lý, cấp
phát ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước bảo đảm đầu tư cho các dịch vụ công
cơ bản, thiết yếu (giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông; y tế dự phòng, y tế cơ
sở, khám, chữa các bệnh phong, lao, tâm thần; nghiên cứu khoa học cơ bản; văn
hoá, nghệ thuật dân gian truyền thống, đào tạo huấn luyện vận động viên, huấn
luyện viên thể thao quốc gia; bảo trợ xã hội và chăm sóc người có công,...) và
đối với các đơn vị sự nghiệp công lập ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc ít người.
Ngân sách nhà nước chuyển từ hỗ trợ cho các đơn
vị sự nghiệp công lập sang hỗ trợ trực tiếp cho đối tượng người nghèo, đối tượng
chính sách khi sử dụng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu; chuyển từ hỗ
trợ theo cơ chế cấp phát bình quân sang cơ chế Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ
cung cấp dịch vụ sự nghiệp công căn cứ vào chất lượng đầu ra hoặc đấu thầu cung
cấp dịch vụ sự nghiệp công. Thực hiện cơ chế giao vốn, tài sản cho đơn vị sự
nghiệp công lập; xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu về tài chính và tài sản
công của đơn vị sự nghiệp công lập trong toàn quốc.
- Phân loại các đơn vị sự nghiệp công lập theo mức
độ tự chủ khác nhau về tài chính. Đối với đơn vị đã tự chủ về tài chính, được
trả lương theo kết quả hoạt động. Đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường
xuyên, thực hiện trả lương theo ngạch, bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp theo
quy định hiện hành; đối với phần tăng thu, tiết kiệm chi, được trích lập các quỹ
bổ sung thu nhập và phát triển hoạt động sự nghiệp. Các đơn vị được giao tự chủ
tài chính ổn định từ 3 đến 5 năm theo phương án thu chi tài chính được cấp có
thẩm quyền phê duyệt. Đối với các đơn vị được Nhà nước bảo đảm toàn bộ kinh phí
hoạt động, cần đẩy mạnh thực hiện cơ chế khoán chi.
- Rà soát các quy định về thuế nhằm khuyến khích
tự chủ tài chính và có tích luỹ cho đầu tư. Đối với đơn vị đã tự chủ về tài
chính, được tính chi phí tiền lương theo doanh thu hoặc quỹ lương khoán trong
chi phí hợp lệ để tính thuế thu nhập.
- Có cơ chế, chính sách đủ mạnh để tạo điều kiện
thuận lợi, khuyến khích việc tinh giản biên chế, bổ sung vào diện tinh giản
biên chế một số đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Bảo đảm nguồn kinh
phí để giải quyết chính sách đối với những người dôi dư do sắp xếp, tổ chức lại
đơn vị sự nghiệp công lập và thực hiện tinh giản biên chế. Đối với công chức,
viên chức làm việc trong đơn vị tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động thường
xuyên, kinh phí lấy từ nguồn thu sự nghiệp của đơn vị. Đối với công chức, viên
chức làm việc trong đơn vị do ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần hoặc bảo đảm
toàn bộ kinh phí hoạt động thì lấy từ nguồn kinh phí hoạt động của đơn vị. Trường
hợp kinh phí của đơn vị không đủ thì ngân sách nhà nước bổ sung theo quy định
hiện hành về phân cấp ngân sách.
7- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước
- Sửa đổi, bổ sung pháp luật về công chức, viên
chức, đội ngũ nhà giáo và pháp luật có liên quan. Đẩy mạnh việc phân cấp, giao
quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng phân định rõ việc quản
lý nhà nước với quản trị đơn vị sự nghiệp công lập và việc cung ứng dịch vụ sự
nghiệp công.
- Chuyển các đơn vị sự nghiệp công lập có tính
chất cung cấp dịch vụ sự nghiệp công của bộ, ngành về chính quyền địa phương quản
lý; bộ chỉ thực hiện chủ quản đối với các đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ nhiệm
vụ quản lý nhà nước của bộ và những đơn vị trọng điểm, chuyên sâu.
- Rà soát, hoàn thiện quy hoạch định hướng mạng
lưới các đơn vị sự nghiệp công lập gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của cả nước và từng địa phương; chuyển từ quy hoạch theo đơn vị hành chính sang
quy hoạch theo ngành, lĩnh vực, nhu cầu của xã hội và thị trường.
- Ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật đối với từng
loại hình dịch vụ sự nghiệp công; tiêu chí phân loại các đơn vị sự nghiệp công
lập; tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ và chất lượng dịch vụ của đơn
vị theo ngành, lĩnh vực; hệ thống tiêu chuẩn chức danh những người làm việc
trong đơn vị sự nghiệp công lập; thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu
trong quản lý, điều hành đơn vị sự nghiệp công lập, cơ chế giám sát, kiểm tra
trách nhiệm của người đứng đầu. Lấy kết quả thực hiện tinh giản bộ máy, biên chế
hằng năm là một trong những tiêu chí để đánh giá, xếp loại kết quả công tác của
người đứng đầu cấp uỷ, đơn vị sự nghiệp công lập.
- Tăng cường phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà
nước chuyên ngành với cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, tài chính các cấp
trong quản lý ngân sách nhà nước chi cho lĩnh vực sự nghiệp, nâng cao hiệu quả
sử dụng ngân sách nhà nước, tránh chồng chéo, lãng phí. Quy định rõ quyền hạn gắn
với trách nhiệm người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, đặc
biệt là người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập. Tăng cường công khai, minh bạch
và trách nhiệm giải trình của các đơn vị cung ứng dịch vụ sự nghiệp công.
- Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, kiên quyết
xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, cố tình né tránh hoặc không thực hiện nhiệm
vụ được giao đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Hình thành các tổ chức kiểm định,
đánh giá độc lập về chất lượng dịch vụ sự nghiệp công theo ngành, lĩnh vực.
8- Tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng; phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính
trị - xã hội
- Các cấp uỷ và tổ chức đảng phải thường xuyên
quan tâm lãnh đạo tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Ban
hành quy định về vai trò và chức năng lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng trong
đơn vị sự nghiệp công lập.
- Phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội trong giám sát, phản biện xã hội đối với tổ
chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo bổ sung
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, ưu tiên các dự án luật trực tiếp phục vụ
triển khai thực hiện Nghị quyết; tăng cường giám sát của Quốc hội, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội đối với việc tiếp tục đổi
mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của
các đơn vị sự nghiệp công lập.
2- Các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban đảng, ban
cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương xây dựng chương trình, kế
hoạch hành động thực hiện Nghị quyết với lộ trình và phân công cụ thể trách nhiệm
cho các cơ quan, đơn vị thực hiện phù hợp với điều kiện cụ thể của từng ngành,
lĩnh vực, địa phương và đơn vị.
3- Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối
hợp với các cơ quan liên quan tổ chức việc học tập, quán triệt và tuyên truyền
sâu rộng Nghị quyết, kết quả thực hiện Nghị quyết.
4- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị - xã hội các cấp xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát thực hiện Nghị
quyết.
5- Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp
với Văn phòng Trung ương Đảng và các cơ quan liên quan thường xuyên theo dõi,
kiểm tra, đôn đốc triển khai, tổ chức thực hiện Nghị quyết, định kỳ sơ kết, tổng
kết, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư./.
|
T/M BAN CHẤP
HÀNH TRUNG ƯƠNG
TỔNG BÍ THỨ
Nguyễn Phú Trọng
|