BỘ GIÁO DỤC
VÀ ĐÀO TẠO
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 976/QĐ-BGDĐT
|
Hà Nội, ngày
20 tháng 3 năm 2014
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT CHƯƠNG TRÌNH, TÀI LIỆU VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM
NHŨNG TRONG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP
BỘ TRƯỞNG BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Căn cứ Nghị định số 36/2012/NĐ-CP ngày 18
tháng 4 năm 2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ;
Căn cứ Nghị định số 32/2008/NĐ-CP ngày 19
tháng 3 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Bộ Giáo dục và Đào tạo;
Căn cứ Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02
tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Giáo dục; Nghị định số 31/2011/NĐ-CP ngày 11/5/2011 của Chính phủ
sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm
2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Giáo dục; Nghị định số 07/2013/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi điểm b khoản 13 Điều
1 của Nghị định số 31/2011/NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 2011và sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục;
Căn cứ Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 12 tháng 6
năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc đưa nội dung phòng, chống tham nhũng
vào giảng dạy tại các cơ sở giáo dục, đào tạo từ năm học 2013 -2014;
Căn cứ kết luận của Hội đồng thẩm định Chương
trình và tài liệu phòng, chống tham nhũng dùng trong đào tạo trình độ trung cấp
chuyên nghiệp tại Biên bản họp Hội đồng thẩm định ngày 17/3/2011;
Theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ Giáo dục Chuyên
nghiệp,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt kèm
theo Quyết định này tài liệu về phòng, chống tham nhũng trong đào tạo trình độ
trung cấp chuyên nghiệp.
Điều 2. Quyết định này
có hiệu lực kể từ ngày ký. Chương trình, tài liệu nói trên được triển khai thực
hiện tại các trường trung cấp chuyên nghiệp và các cơ sở giáo dục có đào tạo
trung cấp chuyên nghiệp từ năm học 2013 - 2014.
Điều 3. Các ông (bà)
Chánh văn phòng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Chuyên nghiệp, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch -
Tài chính, Thủ trưởng các đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định
này./.
Nơi nhận:
- Bộ trưởng (để báo cáo);
- Ủy ban VHGDTNTN&NĐ của Quốc hội (để b/c);
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ (để ph/h);
- UBND các tỉnh, TP trực thuộc TƯ(để ph/h);
- Như điều 3;
- Lưu: VT, Vụ GDCN.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Bùi Văn Ga
|
CHƯƠNG TRÌNH, TÀI LIỆU
VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG DÙNG TRONG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ TRUNG
CẤP CHUYÊN NGHIỆP
(Phê duyệt theo Quyết định số 976 /QĐ-BGDĐT ngày 20 tháng 03 năm 2014 của
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Phần I
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO VỀ
PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
I. Mục tiêu
Sau khi học xong chương trình người học cần phải:
- Trình bày được khái niệm tham nhũng; nguyên
nhân, hậu quả của tham nhũng; ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác phòng, chống
tham nhũng; trách nhiệm của công dân trong việc phòng, chống tham nhũng.
- Hình thành thái độ, ý thức tự giác đối với
công tác phòng, chống tham nhũng để có thể tham gia, hỗ trợ, phối hợp với các
cơ quan chức năng trong công tác phòng, chống tham nhũng trong quá trình học tập
và hoạt động nghề nghiệp khi ra trường.
II. Thời lượng chương trình:
04 tiết
Chương trình, tài liệu về phòng, chống tham
nhũng được giảng dạy 4 tiết trong môn học Pháp luật TCCN với tổng số tiết của
chương trình không thay đổi, trong đó đã chuyển 4 tiết tự chọn (trong tổng số 6
tiết tự chọn) thành 4 tiết bắt buộc gồm 2 bài học về phòng, chống tham nhũng bổ
sung vào chương trình môn học này.
III. Nội dung
Giáo dục về phòng, chống tham nhũng trong đào tạo
trung cấp chuyên nghiệp bao gồm các nội dung cơ bản sau:
1. Khái niệm tham nhũng
2. Nguyên nhân, hậu quả của tham nhũng
3. Ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác phòng,
chống tham nhũng
4. Trách nhiệm của công dân trong việc phòng, chống
tham nhũng
IV. Đề cương chi tiết
Bài 1: Những vấn đề cơ bản về tham nhũng (02 tiết)
I. Khái niệm tham nhũng
1. Định nghĩa và những đặc trưng cơ bản của tham
nhũng
2. Các hành vi tham nhũng theo quy định của pháp
luật hiện hành
II. Nguyên nhân và điều kiện của tham nhũng
1. Nguyên nhân và điều kiện khách quan
2. Nguyên nhân và điều kiện chủ quan
III. Tác hại của tham nhũng
1. Tác hại về chính trị
2. Tác hại về kinh tế
3. Tác hại về xã hội.
Bài 2: Công tác phòng, chống tham nhũng (02 tiết)
I. Ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác phòng,
chống tham nhũng
II. Các giải pháp phòng, chống tham nhũng
1. Các giải pháp phòng ngừa tham nhũng
2. Các giải pháp phát hiện tham nhũng
3. Xử lý hành vi tham nhũng và tài sản tham
nhũng
III. Trách nhiệm của công dân trong việc phòng,
chống tham nhũng
1. Trách nhiệm của công dân tham gia phòng, chống
tham nhũng
2. Trách nhiệm của công dân trong tố cáo hành vi
tham nhũng
3. Trách nhiệm của học sinh TCCN trong việc tham
gia phòng, chống tham nhũng thông qua Ban thanh tra nhân dân, tổ chức mà mình
là thành viên
V. Tổ chức thực hiện chương
trình
1. Chương trình giáo dục phòng, chống tham nhũng
là nội dung kiến thức bắt buộc trong Chương trình môn học Pháp luật dùng trong
đào tạo trình độ trung cấp chuyên nghiệp. Việc tổ chức dạy, học, đánh giá kết
quả theo quy định của quy chế đào tạo trung cấp chuyên nghiệp hiện hành.
2. Phương tiện dạy - học: Các loại phương tiện
và đồ dùng dạy học (máy chiếu Overhead, Media projector, máy vi tính, các băng
tư liệu, các đĩa hình, …) có liên quan đến nội dung Chương trình, tài liệu giáo
dục phòng, chống tham nhũng.
3. Tài liệu tham khảo: Luật phòng, chống tham
nhũng số 55/2005/QH11, Quốc hội khóa 11 ban hành ngày 29/11/2005; Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng số 27/2012/QH13, Quốc hội
khóa 13 ban hành ngày 23/11/2012; các báo, tạp chí pháp luật có liên quan đến
chương trình đào tạo.
Phần II
TÀI LIỆU GIẢNG DẠY VỀ NỘI
DUNG PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
Bài 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THAM NHŨNG
I. KHÁI NIỆM THAM NHŨNG
1. Định nghĩa và những đặc trưng cơ bản của tham
nhũng
a. Định nghĩa
Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.
Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những
người làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị, nói
cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản
của Nhà nước. Việc giới hạn như vậy nhằm tập trung đấu tranh chống những hành
vi tham nhũng xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm thích hợp với
việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng như kê khai tài sản, công
khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, xử lý trách nhiệm
của người đứng đầu.
b. Những đặc trưng cơ bản của tham nhũng
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tham nhũng
có những đặc trưng cơ bản như sau:
- Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền
hạn
Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ,
công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ,
sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh
đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; người
được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ,
công vụ đó
- Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn
được giao
Khi thực hiện hành vi tham nhũng, kẻ tham nhũng phải
sử dụng “chức vụ, quyền hạn của mình” như một phương tiện để mang lại lợi ích
cho mình, cho gia đình mình hoặc cho người khác. Đây là yếu tố cơ bản để xác định
hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó đều được coi là hành vi tham nhũng. Ở đây
có sự giao thoa giữa hành vi này với các hành vi tội phạm khác, do vậy cần lưu
ý khi phân biệt hành vi tham nhũng với các hành vi vi phạm pháp luật khác.
- Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi
Hành vi tham nhũng là hành vi cố ý. Mục đích của
hành vi tham nhũng là vụ lợi. Nếu chủ thể thực hiện hành vi không cố ý thì hành
vi đó không là hành vi tham nhũng. Vụ lợi ở đây được hiểu là lợi ích vật chất
hoặc lợi ích tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đã đạt được hoặc có thể đạt
được thông qua hành vi tham nhũng.
Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định việc đánh
giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tham nhũng chủ yếu dựa trên căn cứ
xác định những lợi ích vật chất mà người có hành vi tham nhũng đạt được để từ
đó quyết định mức độ xử lý. Lợi ích vật chất hiện nay trong cơ chế thị trường
thể hiện ở rất nhiều dạng khác nhau, nếu chỉ căn cứ vào những tài sản phát hiện
hoặc thu hồi được để đánh giá lợi ích mà kẻ tham nhũng đạt được thì sẽ là không
đầy đủ. Thêm nữa, các lợi ích vật chất và tinh thần đan xen rất khó phân biệt,
ví dụ như việc dùng tài sản của nhà nước để khuyếch trương thanh thế, gây dựng
uy tín hay các mối quan hệ để thu lợi bất chính. Trong trường hợp này, mục đích
của hành vi vừa là lợi ích vật chất vừa là lợi ích tinh thần.
2. Các hành vi tham nhũng theo quy định của pháp
luật hiện hành
Bộ Luật hình sự, Luật phòng, chống tham nhũng hiện
hành đã phân loại tham nhũng theo hành vi. Theo đó, các hành vi sau đây thuộc
nhóm hành vi tham nhũng:
- Tham ô tài sản
Tham ô tài sản là lợi dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý.
- Nhận hối lộ
Nhận hối lộ là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn,
trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật
chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích
hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền
hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân.
- Lạm quyền trong khi thi hành công vụ
Lạm quyền trong khi thi hành công vụ là cá nhân
vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà vượt quá quyền hạn của mình làm trái
công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với
người khác để trục lợi
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với
người khác để trục lợi là cá nhân lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc
qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới
bất kỳ hình thức nào.
- Giả mạo trong công tác
Giả mạo trong công tác là cá nhân vì vụ lợi hoặc
động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các
hành vi sau đây:
+ Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài
liệu;
+ Làm, cấp giấy tờ giả;
+ Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn.
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi
người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị
hoặc địa phương vì vụ lợi
Đây là một biểu hiện mới của tệ tham nhũng. Khác
với trước kia, tham nhũng thường là những hiện tượng nhỏ lẻ được thực hiện bởi
một hoặc một vài cá nhân, thì hiện nay tham nhũng đã trở nên tinh vi, phức tạp
hơn và nhiều khi mang tính tập thể, có tổ chức. Lợi ích mà hành vi tham nhũng
nhằm đạt tới nhiều khi không trực tiếp mà "vòng vèo". Do vẫn còn tồn
tại cơ chế "xin - cho" trong nhiều lĩnh vực nên có nhiều cá nhân đại
diện cho cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương đã tìm cách hối lộ cho người
có chức vụ, quyền hạn phụ trách việc phê duyệt chương trình, dự án, cấp kinh
phí, ngân sách để được lợi cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình và
thông qua đó để đạt được các lợi ích cá nhân. Hành vi này được coi là hành vi
tham nhũng.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép
tài sản của Nhà nước vì vụ lợi
Đây là hành vi lợi dụng việc được giao quyền quản
lý tài sản của nhà nước để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc một nhóm người nào đó
thay vì phục vụ cho lợi ích công. Biểu hiện cụ thể của hành vi này thường là
cho thuê tài sản như: nhà xưởng, trụ sở, xe cộ và các tài sản khác để lấy tiền
chia nhau, nhiều khi là một số lượng rất lớn và tình trạng này có ở hầu hết các
cấp, từ trung ương đến địa phương và cần phải ngăn chặn kịp thời.
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi
Đây là hành vi thường xảy ra trong hoạt động của
cơ quan công quyền, nhất là tại các cơ quan hành chính, nơi trực tiếp giải quyết
công việc của công dân và doanh nghiệp. Một số cán bộ, công chức không thực hiện
trách nhiệm với thái độ công tâm và tinh thần phục vụ mà ngược lại thường tìm
cách lợi dụng những sơ hở hoặc không rõ ràng của các thủ tục, thậm chí tự ý đặt
ra các điều kiện gây thêm khó khăn cho công dân và doanh nghiệp để buộc công
dân và doanh nghiệp quà cáp, biếu xén cho mình. Thực chất của hành vi này là sự
ép buộc đưa hối lộ được che đậy dưới hình thức tinh vi rất khó có căn cứ để xử
lý. Cũng có thể coi hành vi nhũng nhiễu là hành vi "đòi hối lộ" một
cách gián tiếp hoặc ở mức độ chưa thật nghiêm trọng và có thể dùng biện pháp xử
lý hành chính.
- Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi
Đây là hành vi thường được gọi là "bảo
kê" của những người có trách nhiệm quản lý, đặc biệt là một số người làm
việc tại chính quyền địa phương cơ sở, đã "lờ" đi hoặc thậm chí tiếp
tay cho các hành vi vi phạm để từ đó nhận "lương" của những kẻ phạm pháp.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người
có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi, cản trở, can thiệp trái pháp luật vào
việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì
vụ lợi
Hành vi tham nhũng luôn được che chắn thậm chí
là đồng lõa của những người có chức vụ, quyền hạn ở cấp cao hơn. Vì vậy, việc
phát hiện và xử lý tham nhũng là hết sức khó khăn. Việc bao che cho người có
hành vi tham nhũng, việc cản trở quá trình phát hiện tham nhũng nhiều khi được
che đậy dưới rất nhiều hình thức khác nhau: thư tay, điện thoại, nhắc nhở,
tránh không thực hiện trách nhiệm của mình hoặc có thái độ, việc làm bất hợp
tác với cơ quan có thẩm quyền.
II. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA THAM NHŨNG
Những nghiên cứu về tham nhũng trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng cho thấy tham nhũng là hiện tượng xã hội gắn với sự
xuất hiện chế độ tư hữu, sự hình thành giai cấp và sự ra đời, phát triển của bộ
máy Nhà nước, quyền lực nhà nước và các quyền lực công khác. Tham nhũng tồn tại
ở mọi chế độ với những mức độ khác nhau. Khi Nhà nước và quyền lực chính trị
còn tồn tại thì còn có điều kiện để xảy ra tham nhũng. Nhận thức như vậy không
đồng nghĩa với việc coi tham nhũng trong bộ máy nhà nước là điều đương nhiên phải
chấp nhận mà để chúng ta có ý thức rõ ràng về nguy cơ tiềm tàng của nó đồng thời
có các giải pháp "ngăn chặn và từng bước đẩy lùi" tệ nạn này.
Cùng với sự phát triển của các hình thái Nhà nước,
đặc biệt là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, các quan hệ chính trị
- kinh tế tạo ra những tiền đề khách quan quan trọng làm cho tham nhũng phát
triển. Lợi ích là yếu tố chủ quan dẫn đến tham nhũng. Khi còn điều kiện để lợi
ích kết hợp với sự lạm quyền của những người có chức vụ, quyền hạn thì còn có
khả năng xảy ra tham nhũng.
Có nhiều nguyên nhân và điều kiện phát sinh tham
nhũng, trong đó có những nguyên nhân, điều kiện cơ bản như sau:
1. Nguyên nhân và điều kiện khách quan
- Việt Nam là nước đang phát triển, trình độ quản
lý còn thấp, mức sống chưa cao, pháp luật chưa hoàn thiện
Thực tế cho thấy, tham nhũng thường xuất hiện ở
những nước chậm phát triển hoặc đang phát triển. Xuất phát từ chức năng nhiệm vụ
của mình, Nhà nước đại diện cho xã hội quản lý mọi mặt của đời sống. Nếu Nhà nước
quản lý xã hội lỏng lẻo sẽ tạo ra các kẽ hở cho tệ tham nhũng nảy sinh và phát
triển. Qua gần 20 năm đổi mới, mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng
kể nhưng trình độ quản lý còn lạc hậu, mức sống thấp. Vì vậy, nạn tham nhũng có
điều kiện xảy ra trong nhiều lĩnh vực, nhiều ngành, nhiều cấp.
- Quá trình chuyển đổi cơ chế, tồn tại và đan
xen giữa cái mới và cái cũ
Quá trình chuyển đổi đòi hỏi phải có thời gian,
vừa làm vừa rút kinh nghiệm để tiếp tục hoàn thiện. Cơ chế cũ bị thay thế nhưng
nếp nghĩ, thói quen thì vẫn còn. Trong khi đó, cơ chế mới đang hình thành còn
sơ khai ngay trong nhận thức nên quá trình thực hiện không tránh khỏi lúng
túng. Tình trạng không rõ ràng trong cơ chế quản lý trên một số lĩnh vực là điều
kiện cho nạn tham nhũng phát triển.
- Ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới,
chúng ta đã áp dụng việc quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và đã đạt được những thành tích cơ bản, đáng tự hào. Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, cơ chế thị trường đã bộc lộ nhiều nhược điểm.
Đó là sự cạnh tranh khốc liệt, sự ngự trị của đồng tiền làm cho người sản xuất
kinh doanh có xu hướng tối đa hoá lợi nhuận bằng mọi giá, tìm cách hối lộ công
chức nhà nước để tạo lợi thế trong kinh doanh. Những nghiên cứu gần đây cho thấy
tác hại to lớn của những yếu tố tiêu cực từ mặt trái cơ chế thị trường thật sự
đã đến mức báo động, chính điều này đã góp phần làm gia tăng tệ tham nhũng
thông qua việc thúc đẩy các hành vi phạm pháp của cán bộ, công chức ganh đua
làm giàu phi pháp, đục khoét tiền của Nhà nước và nhân dân.
- Do ảnh hưởng của tập quán văn hoá
Tập quán văn hoá của người Á Đông nói chung và
người Việt Nam nói riêng có những yếu tố dễ bị lợi dụng để thực hiện các hành
vi tham nhũng, mà biểu hiện tập trung nhất là nạn quà cáp hối lộ, có cơ sở tồn
tại và phát triển.
2. Nguyên nhân và điều kiện chủ quan
a. Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng
viên bị suy thoái, công tác quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên yếu kém
Trước tác động của mặt trái của cơ chế thị trường,
nhiều cán bộ, đảng viên do không tự giác rèn luyện, tu dưỡng đã có những hành
vi vi phạm pháp luật, không giữ được đạo đức "cần, kiệm, liêm,
chính". Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá
X) nhận định “Công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục cán bộ, đảng
viên, công chức nói riêng còn yếu kém. Một bộ phận không nhỏ đảng viên, cán bộ,
công chức suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống. Không
ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp,
còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu trong cuộc
sống đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm.”
b. Chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng
bộ, thiếu nhất quán
Sự nghiệp đổi mới mà trọng tâm là đổi mới quản
lý kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đặt
ra yêu cầu hết sức quan trọng là phải xây dựng một hệ thống cơ chế chính sách pháp
luật đầy đủ, từng bước hoàn thiện. Trong khi đó, mặc dù chúng ta đã có rất nhiều
cố gắng nhưng việc xây dựng thể chế pháp luật vẫn không đáp ứng nhu cầu, chưa
phản ánh và điều chỉnh kịp thời những vấn đề đang đặt ra trong quá trình phát
triển.
Cơ chế, chính sách, pháp luật trong thời kỳ đổi
mới chưa hoàn thiện, thiếu cụ thể, có nhiều sơ hở và thậm chí có những vấn đề
thiếu nhất quán. Việc phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, phân biệt
quản lý nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh có phần chưa rõ. Quá trình cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước diễn ra chậm chạp và thiếu sự kiểm soát chặt chẽ,
cơ chế quản lý tài sản công, quản lý vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước
còn lỏng lẻo.
c. Cải cách hành chính vẫn còn chậm và lúng
túng, cơ chế "xin - cho" trong hoạt động công vụ còn phổ biến; thủ tục
hành chính phiền hà, nặng nề, bất hợp lý
Cơ chế "xin - cho" được nhìn nhận là một
trong những nguy cơ của tệ tham nhũng, hối lộ chưa có cách khắc phục. Chế độ
công vụ của cán bộ, công chức mới bắt đầu được quan tâm xây dựng, hiện tại còn
thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả. Chế độ trách nhiệm của cán bộ, công
chức chưa rõ ràng, cụ thể đặc biệt là trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo đối với
những sai phạm, tiêu cực xảy ra trong cơ quan, đơn vị mình. Chế độ tiền lương đối
với đội ngũ cán bộ, công chức còn bất hợp lý, chậm được cải cách. Lương không đủ
đảm bảo nhu cầu của cuộc sống cho cán bộ, công chức dẫn đến tình trạng vì cuộc
sống của bản thân và gia đình, cán bộ, công chức thực hiện hành vi tham nhũng,
tiêu cực khi có điều kiện, cơ hội. Công tác quản lý đất đai còn nhiều yếu kém,
việc đăng ký quyền sử dụng đất, cấp đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển giao
quyền sử dụng đất, v.v…, còn nhiều kẽ hở, tạo điều kiện cho tiêu cực, sai phạm
nảy sinh. Cơ chế quản lý tài chính công, mua sắm công, quản lý đầu tư xây dựng
cơ bản phải trải qua nhiều khâu, nhiều "cửa". Trình tự, thủ tục này
tưởng như chặt chẽ nhưng trên thực tế, cơ chế kiểm soát lại rất lỏng lẻo, tạo
điều kiện cho tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, thất thoát. Việc đổi mới phương
thức thanh toán còn chậm làm cho việc kiểm soát và phát hiện được các giao dịch
phi pháp khó khăn.
Việc kiểm soát và minh bạch hoá thu nhập và tài
sản của cán bộ, công chức còn gặp nhiều khó khăn và chưa đạt kết quả mong muốn.
Chế định kê khai tài sản đối với cán bộ, công chức đã được áp dụng nhưng chỉ
mang tính hình thức, một phần do chế độ quản lý tiền tệ và thanh toán qua ngân
hàng còn chưa hiệu quả, mặt khác, việc quản lý tài sản, đặc biệt là nhà đất ở
nước ta, vì nhiều lý do, hầu như không thực hiện được. Bên cạnh đó, việc không
có cơ quan chủ trì, tổng hợp, kiểm tra, xử lý, đồng thời, không có các quy định
về trách nhiệm của cán bộ, công chức trong vấn đề kê khai tài sản đã dẫn đến sự
thực thi không triệt để các quy định về kê khai tài sản, mặc dù đây là một chủ
trương đúng đắn, tích cực được xã hội đồng tình, ủng hộ.
d. Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng,
chống tham nhũng trong một số trường hợp chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên,
xử lý chưa nghiêm đối với hành vi tham nhũng
Những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành
nhiều Nghị quyết, chỉ thị, văn bản quy phạm pháp luật về đấu tranh chống tham
nhũng, tuy nhiên việc tổ chức thực hiện trên thực tế còn nhiều hạn chế. Nhiều cấp
ủy, tổ chức Đảng và cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp chưa đề cao trách nhiệm
của người đứng đầu, chưa có kế hoạch, giải pháp để tích cực phòng, chống tham
nhũng trong cơ quan, ngành mình. Công tác ngăn ngừa, phát hiện hành vi tham
nhũng tuy đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Một
số vụ án tham nhũng lớn đã được phát hiện và đưa ra xét xử nghiêm minh, tạo nên
sự tin tưởng của nhân dân. Tuy nhiên, dư luận vẫn băn khoăn đối với việc xử lý
một số vụ án. Đây là những vấn đề làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả, hiệu lực
của cuộc đấu tranh chống tham nhũng những năm qua.
e. Thiếu các công cụ phát hiện và xử lý tham
nhũng hữu hiệu
Những năm qua hoạt động điều tra, thanh tra, kiểm
tra, kiểm toán, giám sát đã thu được một số kết quả tích cực nhưng trên thực tế
vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Cơ chế phối hợp của các cơ quan nói trên còn có những hạn chế, nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của từng cơ quan trong cuộc đấu tranh chung còn chưa rõ
ràng, cụ thể dẫn đến tình trạng lẫn lộn, chồng chéo, thiếu hiệu quả trong hoạt
động phát hiện và xử lý tham nhũng.
Về pháp luật, chúng ta chưa có những quy định
cho phép các cơ quan chức năng áp dụng các biện pháp đặc biệt để có thể phát hiện
các hành vi tham nhũng nên hiệu quả phát hiện tham nhũng chưa cao. Tham nhũng
là một loại tội phạm đặc biệt, chủ thể của nó là những người có chức vụ quyền hạn,
có trình độ, thực hiện hành vi tham nhũng rất tinh vi, khó phát hiện và trong
nhiều trường hợp kẻ vi phạm dùng nhiều thủ đoạn, kể cả dưới danh nghĩa nhà nước
để cản trở việc điều tra và truy cứu trách nhiệm. Đặc biệt, việc thu thập chứng
cứ để chứng minh hành vi phạm tội tham nhũng là cực kỳ khó khăn, nhất là đối với
hành vi nhận hối lộ. Các cơ quan tiến hành tố tụng khó khăn trong việc quy
trách nhiệm hoặc buộc phải kết luận hành vi sai phạm của họ là cố ý làm trái .
. . hoặc "thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng". Đó là những
hành vi không bị coi là tham nhũng và có mức xử lý nhẹ hơn hành vi tham nhũng.
f. Việc huy động lực lượng đông đảo của nhân dân
cũng như sự tham gia của lực lượng báo chí vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng
còn chưa được quan tâm đúng mức
Báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng
đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phát hiện và đấu tranh chống những
hành vi vi phạm trong hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là tệ tham nhũng. Báo
chí vừa có tác dụng cảnh báo những nơi có nguy cơ tham nhũng, vừa tham gia phát
hiện và đặc biệt là tạo nên dư luận mạnh mẽ đối với việc xử lý tham nhũng. Đây
là kinh nghiệm chung của các nước trên thế giới.
Trong những năm qua, báo chí ở nước ta đã phát
huy vai trò nhất định của mình trong đấu tranh chống tham nhũng nhưng nhìn
chung sự đóng góp của báo chí đối với công tác đấu tranh chống tham nhũng vẫn
còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân bắt nguồn từ phía các cơ quan quản lý nhà nước
và từ bản thân cơ quan báo chí, nhất là sự phối hợp giữa hai cơ quan này. Vì những
lý do khác nhau mà một số quan chức nhà nước còn e ngại trước sự tham gia của
báo chí, hoặc là vì bản thân sự thông tin đôi khi không chính xác hoặc không
đúng thời điểm đã gây khó khăn cho việc phát hiện và xử lý triệt để các vụ việc
tham nhũng. Thêm nữa, báo chí mới chỉ đấu tranh chống tham nhũng bằng việc phê
phán những hành vi tiêu cực mà chưa coi trọng việc truyền đạt kịp thời những chủ
trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước, những gương
người tốt, việc tốt, sáng kiến hay, những hoạt động lành mạnh, những thông tin
tích cực, biểu dương và cổ vũ, động viên đến toàn xã hội để tạo môi trường tốt
cho sự phát triển, để cái tốt lấn át cái xấu, để tham nhũng dần dần không có chỗ
trong các tiêu chí chuẩn mực và trong các quan hệ xã hội. Đây có thể coi là một
hạn chế không nhỏ trong hoạt động báo chí hiện nay với tư cách là công cụ của Đảng
và nhân dân trong đấu tranh chống tham nhũng.
Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã
hội về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng mặc dù đã nhận được sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước nhưng chưa tạo ra một sự chuyển biến tích cực trong ý thức
xã hội trong việc phản ứng với tệ nạn tham nhũng cũng như đề cao ý thức trách
nhiệm của người dân trong việc tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
III. TÁC HẠI CỦA THAM NHŨNG
1. Tác hại về chính trị
Tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình đổi
mới đất nước và làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với
sự nghiệp xây dựng đất nước, tiến lên Chủ nghĩa xã hội.
Chiến lược quốc gia phòng chống tham nhũng đến
năm 2020 tiếp tục khẳng định "tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp
trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu
quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng
và sự quản lý nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm
tăng thêm khoảng cách giàu nghèo. Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành
công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của
chế độ”.
2. Tác hại về kinh tế
Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của
Nhà nước, của tập thể và của công dân ở nước ta, trong thời gian qua, nạn tham
nhũng diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, gây thiệt hại lớn đến
tài sản của Nhà nước, tiền, thời gian, công sức của nhân dân. Hàng loạt vụ tham
nhũng lớn, nghiêm trọng đã bị phát hiện, giá trị tài sản bị thiệt hại, bị thất
thoát liên quan tới tham nhũng của mỗi vụ lên tới hàng chục, hàng trăm, thậm
chí là hàng ngàn tỷ đồng. Trong điều kiện là một nước đang phát triển, mọi nguồn
lực cần phải huy động tối đa cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng
thời phải nỗ lực cho việc xoá đói, giảm nghèo và thực hiện các chính sách xã hội
khác thì việc lãng phí, thất thoát tài sản, tiền của, thời gian, công sức do
tham nhũng cần được coi là một thứ tội ác phải đấu tranh và xử lý mạnh mẽ.
Ở mức độ thấp hơn, việc một số cán bộ, công chức
quan liêu, sách nhiễu đối với nhân dân trong khi thực thi công vụ, lạm dụng quyền
hạn trong khi thi hành công vụ khiến cho nhân dân phải mất rất nhiều thời gian,
công sức, tiền bạc để có thể thực hiện được công việc của mình như xin cấp các
loại giấy phép, giấy chứng nhận, hoặc các loại giấy tờ khác. Nếu xét từng trường
hợp một thì giá trị vật chất bị lãng phí có thể không quá lớn, nhưng nếu tổng hợp
những vụ việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong cuộc sống hàng ngày thì con
số bị thất thoát đã ở mức độ nghiêm trọng.
3. Tác hại về xã hội
Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo
lộn những chuẩn mực đạo đức xã hội, tha hoá đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Trước những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được khi thực hiện hành vi tham
nhũng, nhiều cán bộ, công chức đã không giữ được phẩm chất đạo đức của người
cán bộ cách mạng. Tham nhũng không chỉ phát sinh ở trong các lĩnh vực kinh tế,
tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai . . . mà còn có
xu hướng lan sang các lĩnh vực từ trước tới nay ít có khả năng xảy ra tham
nhũng như văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục thể thao. Hành vi tham nhũng còn xảy
ra trong một số chương trình trợ cấp cho thương binh, liệt sỹ, các gia đình
chính sách; tham nhũng cả tiền, hàng hóa cứu trợ cho đồng bào gặp thiên tai,
tham nhũng trong cả xét duyệt công nhận di tích lịch sử, văn hoá, thi đua khen
thưởng. Tham nhũng còn xảy ra ở một số cơ quan bảo vệ pháp luật, những cơ quan
tượng trưng cho công lý và công bằng xã hội.
Bài 2. CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
I. Ý NGHĨA VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÔNG TÁC PHÒNG,
CHỐNG THAM NHŨNG
Với những tác hại và sự ảnh hưởng xấu tới quá
trình phát triển của đất nước của tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã xác định
công tác phòng, chống tham nhũng có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt. Nghị
quyết 14/NQ/TW ngày 15/5/1996 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: Đấu tranh chống tham
nhũng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh
cách mạng của Đảng và nhân dân ta hiện nay. Nó góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo
của Đảng, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ
máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền dân chủ của nhân dân… Đấu
tranh chống tham nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới kinh tế - xã hội,
giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi
hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
II. CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
1. Các giải pháp phòng ngừa tham nhũng
a. Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ
quan, tổ chức, đơn vị
Đây là biện pháp quan trọng đầu tiên để ngăn ngừa
tham nhũng. Công khai, minh bạch sẽ tạo điều kiện để người dân cũng như toàn xã
hội tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Với việc công khai
minh bạch trong hoạt động tại các cơ quan nhà nước, người dân sẽ dễ dàng nhận
biết được các quyền và nghĩa vụ của mình để chủ động thực hiện theo các quy định
của pháp luật cũng như đòi hỏi cơ quan Nhà nước và các cán bộ, công chức nhà nước
thực hiện các quy định đó. Công khai, minh bạch sẽ làm cho công chức nhà nước
có ý thức hơn trong việc thực hiện chức trách, công vụ của mình theo đúng trình
tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật quy định bởi, mọi hành vi vi phạm, phiền
hà, sách nhiễu hay lợi dụng chức trách để tư lợi đều có thể bị phát hiện và xử
lý.
Luật phòng, chống tham nhũng hiện hành quy định
công khai minh bạch trở thành một nguyên tắc chung cho hoạt động của mọi cơ
quan, tổ chức đơn vị. Các cơ quan, tổ chức đơn vị không được lấy lý do nào khác
để từ chối việc công khai hoạt động của mình nhằm tránh sự kiểm soát của người
dân và xã hội trừ những nội dung thuộc bí mật nhà nước.
* Quy định về công khai minh bạch trong một số
lĩnh vực cụ thể
Ngoài việc nêu nguyên tắc và cơ chế bảo đảm công
khai minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức đơn vị nói chung, Luật
phòng, chống tham nhũng hiện hành quy định những nội dung công khai, minh bạch
trong một số lĩnh vực mà thực tế xảy ra nhiều tham nhũng, gây thất thoát một lượng
lớn tiền, tài sản của Nhà nước cũng như có nhiều sự phiền hà, sách nhiễu, gồm:
- Công khai, minh bạch trong mua sắm công và xây
dựng cơ bản.
- Công khai, minh bạch trong quản lý dự án đầu
tư xây dựng.
- Công khai, minh bạch về tài chính và ngân sách
nhà nước.
- Công khai, minh bạch việc huy động và sử dụng
các khoản đóng góp của nhân dân.
- Công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng các
khoản viện trợ.
- Công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp
nhà nước.
- Công khai, minh bạch trong cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước.
- Kiểm toán việc sử dụng ngân sách nhà nước.
- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực tài
nguyên- môi trường.
- Công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng
nhà ở.
- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực giáo dục,
cụ thể:
+ Việc tuyển sinh, thi, kiểm tra, cấp văn bằng,
chứng chỉ phải được công khai.
+ Cơ quan quản lý giáo dục, cơ sở giáo dục có sử
dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước phải công khai việc quản lý, sử dụng ngân
sách, tài sản của Nhà nước, việc thu, quản lý, sử dụng học phí, lệ phí tuyển
sinh, các khoản thu từ hoạt động tư vấn, chuyển giao công nghệ, các khoản hỗ trợ,
đầu tư cho giáo dục và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực y tế.
- Công khai minh bạch trong lĩnh vực khoa học -
công nghệ.
- Công khai minh bạch trong lĩnh việc thể dục,
thể thao.
- Công khai, minh bạch trong hoạt động thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm toán nhà nước.
Thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm
toán nhà nước là những hoạt động rất quan trọng trong việc đánh giá tình hình
chấp hành chính sách, pháp luật của các cơ quan, tổ chức. Trong thời gian gần
đây, kết luận của cơ quan thanh tra và cơ quan kiểm toán hầu hết đều chỉ ra sai
phạm kinh tế và trách nhiệm của những cơ quan, tổ chức có liên quan. Nhiều vụ
tham nhũng, tiêu cực được phát hiện qua công tác thanh tra, kiểm toán. Tuy
nhiên, thực tế cũng cho thấy, kết luận thanh tra và kiểm toán luôn có những vấn
đề mà dư luận thường thắc mắc, nhất là những thay đổi trong quá trình kết luận
và xử lý kết quả thanh tra, kiểm toán. Điều này gây ra ảnh hưởng không nhỏ tới
hiệu quả hoạt động của các cơ quan này.
- Công khai, minh bạch trong hoạt động giải quyết
các công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân.
Luật phòng, chống tham nhũng hiện hành quy định
tính công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm của cơ quan Nhà nước và cán bộ,
công chức cũng như quyền của người dân và doanh nghiệp trong quá trình thực hiện
các thủ tục hành chính, tạo điều kiện để công dân và doanh nghiệp đấu tranh với
các biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tạo cơ sở để cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền xử lý những cơ quan, cá nhân có hành vi vi phạm.
- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực tư pháp.
- Công khai, minh bạch trong công tác tổ chức -
cán bộ.
- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực thông tin
và truyền thông.
- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực nông nghiệp
và phát triển nông thôn.
- Công khai, minh bạch trong việc thực hiện
chính sách dân tộc.
- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực thực hiện
chính sách an sinh xã hội.
Công tác cán bộ là vấn đề hết sức quan trọng và
nhạy cảm. Việc tuyển dụng người vào cơ quan, tổ chức cũng như việc bổ nhiệm, đề
bạt cán bộ, công chức viên chức luôn được Đảng và Nhà nước ta giám sát chặt chẽ
và nghiêm túc để có một đội ngũ vừa hồng vừa chuyên, đáp ứng được yêu cầu của
công việc, làm việc có trách nhiệm và thực sự là công bộc của dân. Tuy nhiên,
thời gian qua, lĩnh vực này đã xảy ra không ít hiện tượng tiêu cực. Một trong
những biện pháp hết sức cần thiết và có thể thực hiện ngay đó chính là việc
công khai minh bạch trong công tác tổ chức - cán bộ.
b. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức,
tiêu chuẩn
Chế độ, định mức, tiêu chuẩn trong các lĩnh vực
quản lý luôn liên quan đến việc sử dụng tài sản, vốn và Ngân sách nhà nước. Việc
thực hiện một cách tuỳ tiện và trái phép các tiêu chuẩn, chế độ, định mức đó sẽ
dẫn đến việc tài sản của Nhà nước bị thất thoát, tiền bạc hoặc những lợi ích vật
chất rơi vào một số ít người, thực chất đó là sự hưởng lợi bất chính của những
người có chức vụ, quyền hạn hoặc những người có quan hệ thân quen với người có
chức vụ quyền hạn. Đây chính là hành vi tham nhũng cần ngăn chặn.
c. Quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp,
việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức
Các nước trên thế giới mặc dù có chế độ chính trị
khác nhau nhưng về cơ bản, việc thực hiện quyền lực công đều phải thông qua hoạt
động công vụ của đội ngũ công chức. Vì vậy, để chống tham nhũng, không có cách
gì tốt hơn là tăng cuờng kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước, cụ thể là
tác động vào đội ngũ cán bộ, công chức và quá trình thực hiện công vụ. Ngoài
ra, trong chừng mực nào đó, cần kiểm soát cả những quan hệ xã hội của họ, những
quan hệ có nguy cơ bị lợi dụng và nảy sinh tham nhũng. Trên một quan niệm chung
như vậy, Luật phòng, chống tham nhũng hiện hành đã đưa ra nhiều giải pháp liên
quan đến cán bộ, công chức.
d. Vấn đề minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ,
công chức
Luật phòng, chống tham nhũng hiện hành đã quy định
một cách khá toàn diện và đầy đủ những nội dung cơ bản nhất của một hệ thống
minh bạch tài sản, bao gồm những vấn đề chính như sau:
- Cán bộ, công chức phải kê khai tài sản hàng
năm. Để tránh che dấu, tẩu tán tài sản tham nhũng, ngoài việc kê khai tài sản của
bản thân, cán bộ, công chức còn phải kê khai tài sản của vợ hoặc chồng và con
chưa thành niên.
- Việc xác minh tài sản được tiến hành trong một
số trường hợp nhất định.
- Bản kết luận về sự minh bạch trong kê khai tài
sản được công khai trong một số trường hợp nhất định theo yêu cầu và trên cơ sở
quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
- Người có nghĩa vụ kê khai tài sản sẽ phải chịu
trách nhiệm kỷ luật nếu kê khai không trung thực, nếu là người ứng cử thì sẽ bị
loại khỏi danh sách bầu cử, người được dự kiến bổ nhiệm, phê chuẩn thì sẽ không
được bổ nhiệm, phê chuẩn vào chức vụ dự kiến.
e. Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng
Đề cao trách nhiệm người đứng đầu là một yếu tố
quan trọng trong quản lý nhà nước và chống tham nhũng nói riêng. Luật phòng, chống
tham nhũng quy định một cách chi tiết về vấn đề này, bao gồm những nội dung
chính sau:
- Phân định trách nhiệm của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức với cấp phó được giao phụ trách các lĩnh vực; theo đó, người đứng
đầu chịu trách nhiệm chung và chịu trách nhiệm trực tiếp đối với lĩnh vực do
mình quản lý, cấp phó chịu trách nhiệm trực tiếp đối với lĩnh vực được giao phụ
trách;
- Phân cấp trách nhiệm rõ ràng cho người đứng đầu
đơn vị, phải chịu trách nhiệm trực tiếp khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong
đơn vị mình.
f. Cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản
lý và phương thức thanh toán nhằm phòng ngừa tham nhũng
Nhà nước thực hiện cải cách hành chính nhằm tăng
cường tính độc lập và tự chịu trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị; đẩy mạnh
việc phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương, giữa các cấp
chính quyền địa phương; phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan nhà
nước; công khai, đơn giản hoá và hoàn thiện thủ tục hành chính; quy định cụ thể
trách nhiệm của từng chức danh trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Luật phòng, chống tham nhũng hiện hành cũng quy
định có tính chất định hướng cho các cơ quan nhà nước áp dụng khoa học, công
nghệ trong quản lý nhằm giảm bớt cơ hội và nguy cơ xảy ra tham nhũng, nhất là
việc tiếp xúc trực tiếp giữa người quản lý và người bị quản lý trong những trường
hợp không cần thiết. Theo đó, cơ quan, tổ chức, đơn vị thường xuyên cải tiến
công tác, tăng cường áp dụng khoa học, công nghệ trong hoạt động của mình, tạo
thuận lợi để công dân, cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm hướng dẫn trình tự, thủ tục
giải quyết công việc để cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân chủ động thực hiện mà
không phải trực tiếp tiếp xúc với cán bộ, công chức, viên chức.
Một giải pháp phòng ngừa tham nhũng quan trọng nữa
mà Luật phòng, chống tham nhũng hiện hành có quy định đó là vấn đề đổi mới
phương thức thanh toán. Hiện nay, về cơ bản nền kinh tế của chúng ta vẫn là nền
kinh tế tiền mặt các giao dịch chủ yếu bằng tiền mặt, rất khó kiểm soát, ngay cả
các khoản thu nhập của cán bộ, công chức từ ngân sách nhà nước. Vì vậy, cùng với
việc áp dụng khoa học công nghệ trong quản lý, cần phải đổi mới phương thức
thanh toán để kiểm soát chặt chẽ hơn các giao dịch, nhất là những khoản chi có
sử dụng ngân sách nhà nước và các khoản chi liên quan đến cán bộ, công chức,
viên chức để bảo đảm sự minh bạch trong các nguồn thu nhập của họ.
2. Các giải pháp phát hiện tham nhũng
Phát hiện tham nhũng là việc tìm ra vụ việc tham
nhũng và có biện pháp kịp thời để hạn chế thiệt hại xảy ra, đồng thời xác định
mức độ trách nhiệm của người có hành vi vi phạm, có hình thức xử lý thích đáng
và nghiêm minh. Việc phát hiện tham nhũng đòi hỏi sự nỗ lực của mọi cơ quan, tổ
chức đặc biệt là các cơ quan có chức năng thanh tra, điều tra, giám sát, kiểm
sát cũng như sự tham gia tích cực của công dân. Luật phòng, chống tham nhũng hiện
hành quy định việc phát hiện tham nhũng thông qua ba hoạt động chủ yếu:
- Công tác kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà
nước.
- Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm
toán.
- Tố cáo của công dân.
a. Phát hiện tham nhũng thông qua công tác kiểm
tra của cơ quan quản lý nhà nước
- Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có trách
nhiệm thường xuyên tổ chức kiểm tra việc chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức,
đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình nhằm kịp thời phát hiện hành vi
tham nhũng.
- Khi phát hiện có hành vi tham nhũng, thủ trưởng
cơ quan quản lý nhà nước phải kịp thời xử lý theo thẩm quyền hoặc thông báo cho
cơ quan thanh tra, điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền.
Ngoài ra, Luật phòng, chống tham nhũng cũng quy
định trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc tự kiểm
tra nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị mình, kiểm tra việc thi hành nhiệm vụ, công
vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức do mình quản lý để phát hiện tham
nhũng.
b. Phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động
thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, xét xử, giám sát
Đây là những hoạt động chủ yếu trong việc phát
hiện và xử lý tham nhũng. Các cơ quan thanh tra, điều tra, kiểm toán, xét xử và
giám sát là lực lượng chính trong cuộc đấu tranh chống vi phạm pháp luật, có chức
năng bảo vệ pháp luật và kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm minh những hành vi vi
phạm trong đó có tham nhũng.
Các hoạt động này được quy định rất chặt chẽ và
đầy đủ trong các văn bản pháp luật cao nhất của nhà nước. Một mặt, pháp luật
trao cho các cơ quan này quyền hạn lớn để có thể đấu tranh với những vi phạm pháp
luật, mặt khác cũng quy định chặt chẽ để hoạt động của các cơ quan này phải
tuân thủ pháp luật, bảo đảm tính chính xác, khách quan trong khi đánh giá, kết
luận những vụ việc và người có hành vi vi phạm để tránh oan sai.
c. Tố cáo và giải quyết tố cáo về hành vi tham
nhũng
Tố cáo là việc công dân báo cho cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ
chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Tố cáo là một kênh quan
trọng trong phát hiện hành vi tham nhũng. Luật phòng, chống tham nhũng quy định
những nguyên tắc chung và nội dung cơ bản của tố cáo hành vi tham nhũng. Luật
quy định cơ chế bảo vệ người tố cáo, quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị trong tiếp nhận và xử lý tố cáo hành vi tham
nhũng, khen thưởng người tố cáo...
* Quyền và trách nhiệm của công dân trong việc tố
cáo hành vi tham nhũng
- Công dân có quyền tố cáo hành vi tham nhũng với
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
- Người tố cáo phải tố cáo trung thực, nêu rõ họ,
tên địa chỉ, cung cấp thông tin, tài liệu mà mình có và hợp tác với cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo.
- Người tố cáo mà cố tình tố cáo sai sự thật phải
bị xử lý nghiêm minh, nếu gây thiệt hại cho người bị tố cáo thì phải bồi thường
theo quy định của pháp luật.
* Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và những
người có thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết tố cáo của công dân đối với hành vi
tham nhũng
- Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm
tạo điều kiện thuận lợi để công dân tố cáo trực tiếp, gửi đơn tố cáo, tố cáo
qua điện thoại, tố cáo qua mạng thông tin điện tử và các hình thức khác theo
quy định của pháp luật.
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
khi nhận được tố cáo hành vi tham nhũng phải xem xét và xử lý theo thẩm quyền;
giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin khác theo yêu cầu của
người tố cáo, áp dụng kịp thời các biện pháp cần thiết để bảo vệ người tố cáo khi
có biểu hiện đe doạ, trả thù trù dập người tố cáo hoặc khi người tố cáo yêu cầu,
thông báo kết quả giải quyết tố cáo cho người tố cáo khi có yêu cầu.
* Các hình thức tố cáo hành vi tham nhũng
- Tố cáo trực tiếp.
- Gửi đơn tố cáo.
- Tố cáo qua điện thoại.
- Tố cáo bằng thông điệp dữ liệu.
Người tố cáo phải nêu rõ họ, tên, địa chỉ, nội
dung tố cáo và cung cấp các thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo
mà mình có.
3. Xử lý hành vi tham nhũng và tài sản tham
nhũng
Xử lý tham nhũng, trong đó có xử lý người có
hành vi tham nhũng và xử lý tài sản tham nhũng là vấn đề quan trọng, là khâu cuối
cùng trong quá trình đấu tranh với một hành vi hay vụ việc tham nhũng.
a. Xử lý người có hành vi tham nhũng và bao che
hành vi vi phạm pháp luật khác
Luật phòng, chống tham nhũng hiện hành không chỉ
quy định đối tượng có hành vi tham nhũng bị xử lý mà quy định cả các đối tượng
khác có hành vi vi phạm liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hay trách nhiệm của
mình mà pháp luật đã có quy định, cụ thể:
- Người có hành vi tham nhũng.
- Người không báo cáo, tố giác khi biết được
hành vi tham nhũng.
- Người không xử lý báo cáo, tố giác, tố cáo, về
hành vi tham nhũng.
- Người có hành vi đe doạ, trả thù, trù dập người
phát hiện, báo cáo, tố giác, tố cáo, cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng.
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy
ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ
trách.
Đối với cán bộ, công chức, viên chức (là nhóm chủ
yếu trong số những người có chức vụ, quyền hạn) thì hình thức xử lý phổ biến
khi có hành vi tham nhũng nhưng chưa đến mức xử lý hình sự là:
- Khiển trách.
- Cảnh cáo.
- Hạ bậc lương.
- Giáng chức.
- Cách chức.
- Buộc thôi việc.
Nếu hành vi vi phạm đến mức độ nguy hiểm cao gây
thiệt hại lớn về tiền và tài sản của Nhà nước thì bị truy cứu trách nhiệm hình
sự.
b. Xử lý tài sản tham nhũng
- Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải áp dụng
các biện pháp cần thiết để, thu hồi, tịch thu tài sản tham nhũng.
- Tài sản tham nhũng phải được trả lại cho chủ sở
hữu, người quản lý hợp pháp hoặc sung quỹ nhà nước.
- Người đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước
khi bị phát hiện hành vi đưa hối lộ thì được trả lại tài sản đã dùng để hối lộ.
- Việc tịch thu tài sản tham nhũng, thu hồi tài sản
tham nhũng được thực hiện bằng quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật.
III. TRÁCH NHIỆM CỦA CÔNG DÂN TRONG PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG
1. Trách nhiệm của công dân tham gia phòng, chống
tham nhũng
- Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật về phòng, chống
tham nhũng; lên án, đấu tranh với những người có hành vi tham nhũng; phản ánh với
Ban thanh tra nhân dân, tổ chức mà mình là thành viên về hành vi tham nhũng, vụ
việc tham nhũng để Ban thanh tra nhân dân, tổ chức đó kiến nghị với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật; cộng tác với
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc xác minh vụ việc tham nhũng
khi được yêu cầu.
- Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa
đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về phòng, chống tham
nhũng; góp ý kiến với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc xây dựng các
văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
2. Trách nhiệm của công dân trong tố cáo hành vi
tham nhũng
Khi tố cáo hành vi tham nhũng với cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền, công dân phải nêu rõ họ, tên, địa chỉ, nội dung tố cáo
và cung cấp các thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo mà mình có được
cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
Người tố cáo được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
bảo vệ khi bị đe doạ, trả thù, trù dập do việc tố cáo hành vi tham nhũng và có
thể được khen thưởng nếu đã giúp cơ quan nhà nước phát hiện hành vi tham nhũng,
thu hồi tài sản tham nhũng.
3. Trách nhiệm của học sinh TCCN trong việc tham
gia phòng, chống tham nhũng thông qua Ban thanh tra nhân dân, tổ chức mà mình
là thành viên
- Nhân dân ở xã, phường, thị trấn, cán bộ, công
chức, viên chức, người lao động trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh
nghiệp nhà nước khi phát hiện hành vi có dấu hiệu tham nhũng, vụ việc tham
nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mình có quyền:
+ Phản ánh với Ban thanh tra nhân dân ở xã, phường,
thị trấn hoặc ở cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước nơi
mình cư trú hoặc làm việc;
+ Phản ánh với tổ chức mà mình là thành viên.
- Việc phản ánh về hành vi có dấu hiệu tham
nhũng, vụ việc tham nhũng phải khách quan, trung thực.
- Ban thanh tra nhân dân có trách nhiệm tiếp nhận
ý kiến phản ánh của nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động về
hành vi có dấu hiệu tham nhũng, xem xét và kiến nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh
nghiệp nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm xem xét, giải quyết
theo quy định của pháp luật và giám sát việc giải quyết đó.