QUY CHẾ
ĐỐI THOẠI TRỰC
TIẾP VỚI CÔNG DÂN, TỔ CHỨC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH THUẬN
(Ban hành kèm theo Quyết định số 15/2013/QĐ-UBND ngày 11 tháng 3 năm
2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận)
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Quy chế này quy định nguyên tắc, nội dung,
phương thức đối thoại trực tiếp với công dân, tổ chức trên tất cả các lĩnh vực,
ở các địa phương, cơ quan, đơn vị trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Quy chế này áp dụng đối với các cơ quan, đơn vị,
địa phương trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.
Điều 3. Đối thoại là việc người đứng đầu
các cơ quan nhà nước, đơn vị, địa phương (gọi tắt là cơ quan, đơn vị) tiếp xúc
trực tiếp với công dân, tổ chức nhằm: tiếp nhận các thông tin về tình hình
triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước; phát hiện những vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện; tinh thần,
thái độ phục vụ nhân dân, những sai phạm của cán bộ, công chức, để giải quyết,
chấn chỉnh, xử lý kịp thời.
Thông qua đối thoại để các cơ quan, đơn vị cung
cấp và giải thích (nếu có) kịp thời cho công dân, tổ chức các thông tin về chủ
trương, chính sách, chế độ, về quy trình, thủ tục quản lý, kiểm tra, giám sát;
kết quả xử lý kiến nghị, giải quyết vướng mắc phát sinh, đồng thời thu thập và
củng cố những thông tin về các bất cập trong thực thi pháp luật của các cơ
quan, đơn vị nhằm giải quyết bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của công dân,
tổ chức; tạo điều kiện hỗ trợ cho công dân, tổ chức tự giác chấp hành, thực
hiện đúng chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, các quy định của địa
phương, cơ quan, đơn vị.
Điều 4. Đối thoại vừa là quyền lợi, vừa
là trách nhiệm của công dân, tổ chức trong việc phản ánh hạn chế, vướng mắc
trong thực tiễn khi thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, tham gia đề xuất,
kiến nghị sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách, cải tiến quy trình, thủ tục trên
các lĩnh vực nhằm phục vụ cho công dân, tổ chức tốt hơn.
Đối thoại được tổ chức theo chuyên đề, thường
xuyên theo yêu cầu, nhiệm vụ đặc thù. Mỗi cơ quan, đơn vị trong tỉnh tổ chức
đối thoại với công dân, tổ chức ít nhất 02 lần/năm.
Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, ngoài việc tổ
chức tiếp công dân định kỳ cần phải có trách nhiệm đối thoại với công dân, tổ
chức. Đây là một trong những nội dung quan trọng của công tác dân vận trong các
cơ quan Nhà nước, góp phần hạn chế các đơn, thư khiếu nại, tố cáo; khiếu nại,
tố cáo vượt cấp nhằm tạo sự đồng thuận trong nhân dân.
Điều 5. Nguyên tắc đối
thoại
1. Việc tổ chức đối thoại phải đảm bảo tính dân
chủ, công khai, minh bạch, trên tinh thần hợp tác, xây dựng và có hiệu quả
thiết thực, với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” theo
quy định về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
2. Khi triển khai các chương trình, đề án có
liên quan đến địa bàn dân cư, liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của công dân,
tổ chức, thủ trưởng cơ quan, đơn vị đó phải tổ chức đối thoại ngay từ đầu để
tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Điều 6. Căn cứ vào nhu cầu thực tế, tính
chất, nội dung đối thoại, cơ quan đơn vị có thể tự tổ chức hoặc phối hợp với
các cơ quan khác có liên quan cùng tổ chức đối thoại với công dân, tổ chức
trong phạm vi quản lý.
Trong phạm vi, quyền hạn của mình, các cơ quan,
đơn vị có trách nhiệm trả lời, giải quyết dứt điểm, đúng thời hạn theo quy định
những vấn đề được nêu ra trong và sau đối thoại. Những vấn đề vượt quá thẩm
quyền giải quyết của mình, những vướng mắc về chính sách, chế độ phải báo cáo
kịp thời lên cấp trên.
Đối với những kiến nghị thuộc trách nhiệm của
các cơ quan, ban, ngành khác thì phải chuyển đến cơ quan có chức năng giải quyết
kiến nghị đó, đồng thời thông báo cho công dân, tổ chức kiến nghị biết.
Điều 7. Trong buổi đối thoại mọi người
tuyệt đối không được mang vũ khí, chất nổ, chất độc vào phòng làm việc, mọi
người phải tuân thủ sự điều hành của người chủ trì, nếu vi phạm tùy theo tính
chất, mức độ sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật (Điều này áp dụng cho các
cuộc đối thoại có tính chất quan trọng, phức tạp).
Điều 8. Người chủ trì đối thoại có quyền
từ chối đối thoại với người không có đủ năng lực hành vi, người uống rượu, bia
hoặc dùng các chất kích thích khác, người không có quyền và lợi ích liên quan.
Điều 9. Thủ trưởng cơ quan, đơn vị chọn
địa điểm đối thoại phải đảm bảo trang trọng, có đủ điều kiện cần thiết phục vụ
cho việc đối thoại và đảm bảo an toàn về an ninh, trật tự theo đúng quy định
của pháp luật.
Khi tham gia đối thoại, mọi cán bộ, công chức
phải mặc trang phục chỉnh tề (nếu có trang phục của ngành phải mặc), đeo thẻ
công chức đúng quy định. Mọi công dân, tổ
chức tham gia cuộc đối thoại phải xuất trình chứng minh nhân dân, giấy mời làm
việc, giấy ủy quyền (nếu được ủy quyền), nếu là tổ chức được mời, phải là người
đứng đầu của cơ quan, tổ chức đó đại diện theo quy định của pháp luật (áp dụng
trong các cuộc đối thoại liên quan đến khiếu nại, tố cáo).
Chương II
CÔNG TÁC CHUẨN BỊ CHO ĐỐI THOẠI
Điều 10. Cơ quan, đơn vị tổ chức đối
thoại có trách nhiệm lập kế hoạch, xây dựng chương trình, nội dung; căn cứ kế
hoạch và nhu cầu thực tế để xác định quy mô, thành phần tham dự cho từng cuộc
đối thoại; quyết định việc tổ chức cuộc đối thoại độc lập hoặc phối hợp với các
cơ quan khác có liên quan tổ chức đối thoại chung.
Điều 11. Cơ quan, đơn vị tổ chức đối
thoại phải chủ động chuẩn bị chu đáo các nội dung và tài liệu phục vụ đối thoại
theo trình tự sau:
1. Căn cứ vào kế hoạch, mục tiêu cụ thể của mỗi
cuộc đối thoại, tiến hành thu thập ý kiến tham gia thông qua các hình thức: thư
mời; phiếu thăm dò ý kiến; trang thông tin điện tử của ngành, kiến nghị của
công dân, tổ chức gửi đến; các vấn đề được phản ánh trên các phương tiện thông
tin đại chúng.
2. Nghiên cứu, khai thác các ý kiến gửi đến để
nắm bắt các vướng mắc phát sinh và yêu cầu của công dân, tổ chức; phân loại
theo từng chuyên đề, từng nội dung, theo mức độ cấp thiết của vấn đề kiến nghị,
trên cơ sở đó phân công cụ thể cho các đơn vị, bộ phận có liên quan chuẩn bị
nội dung trả lời.
3. Tổ chức thảo luận thống nhất về các vấn đề
kiến nghị và dự kiến nội dung trả lời để báo cáo cấp trên; đồng thời phân công
giải quyết ngay các kiến nghị thuộc thẩm quyền của mình trước khi thực hiện đối
thoại hoặc xin ý kiến cấp trên về hướng giải quyết những nội dung vượt quá thẩm
quyền của cấp mình.
4. Tất cả các ý kiến thu thập được và nội dung
chuẩn bị trả lời đều phải tập hợp vào tài liệu đối thoại, trong đó nêu rõ: tên
tổ chức, cá nhân nêu kiến nghị; nội dung kiến nghị; nội dung trả lời, kết quả
đã giải quyết hoặc hướng giải quyết, thời gian giải quyết, cấp giải quyết. Tài
liệu đối thoại cần sắp xếp phân loại theo chuyên đề, nội dung kết hợp với mức độ
xử lý: những việc trả lời ngay tại cuộc đối thoại; những việc cần kiểm tra làm
rõ, trả lời sau; những việc ghi nhận và báo cáo cấp trên.
Điều 12. Trước khi tổ chức cuộc đối
thoại, thủ trưởng cơ quan, đơn vị tổ chức đối thoại quyết định nhân sự tham gia
đối thoại, tổ thư ký và bộ phận tham mưu (gồm đại diện các đơn vị, bộ phận có
liên quan thuộc phạm vi quản lý) giúp thủ trưởng điều hành chương trình đối
thoại; giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cá nhân, từng bộ phận đảm nhiệm trong các
giai đoạn: chuẩn bị đối thoại, tiến hành đối thoại và xử lý công việc sau đối
thoại.
Trường hợp phối hợp với các cơ quan, đơn vị khác
cùng tiến hành đối thoại, phải trao đổi thống nhất về chủ trương, nội dung,
thời gian và thành phần tham gia đối thoại. Trên cơ sở đó phân công nhiệm vụ
cho từng cơ quan, đơn vị chuẩn bị trước nội dung, tài liệu và nhân sự để tham
gia đối thoại.
Điều 13. Khi công tác chuẩn bị đã đạt yêu
cầu, cơ quan, đơn vị tổ chức đối thoại phải gửi thư mời công dân, tổ chức tham
dự trong thời gian ít nhất là 05 ngày làm việc trước khi tiến hành đối thoại.
Thư mời phải nêu rõ thời gian, địa điểm, thành phần, nội dung để công dân, tổ
chức tham dự nghiên cứu, chuẩn bị trước ý kiến tham gia. Kèm theo thư mời phải
có phiếu đăng ký nội dung phát biểu tại cuộc đối thoại để bố trí, sắp xếp
chương trình.
Chương III
THỰC HIỆN ĐỐI THOẠI
Điều 14. Tất cả các ý kiến nêu ra tại
cuộc đối thoại đều được cơ quan, đơn vị tổ chức đối thoại lắng nghe, ghi chép
đầy đủ, tiếp thu nghiêm túc và trả lời kịp thời.
Điều 15. Thủ trưởng cơ quan, đơn vị chủ
trì tổ chức đối thoại, cơ quan, đơn vị phối hợp tổ chức đối thoại điều hành
chương trình cuộc đối thoại. Bộ phận tham mưu, tổ thư ký cuộc đối thoại giúp
thủ trưởng điều hành chương trình đối thoại có nhiệm vụ sau:
1. Tổ thư ký chịu trách nhiệm: tiếp nhận các
phiếu đăng ký phát biểu từ công dân, tổ chức, phân loại sơ bộ các nhóm vấn đề
mà công dân, tổ chức nêu ý kiến để chuyển cho bộ phận tham mưu sắp xếp chương
trình, ghi chép đầy đủ các ý kiến của công dân, tổ chức và nội dung trả lời của
thủ trưởng, tổng hợp kết quả đối thoại.
2. Bộ phận tham mưu thực hiện các nhiệm vụ: phân
loại ý kiến để sắp xếp chương trình; dự kiến số công dân, tổ chức đối thoại;
theo dõi, ghi chép đầy đủ các ý kiến của công dân, tổ chức; chuẩn bị các căn cứ
pháp lý và nội dung chính giúp thủ trưởng trả lời tại cuộc đối thoại hoặc ghi
nhận trả lời sau; trực tiếp đối thoại với công dân, tổ chức nêu ý kiến khi thủ
trưởng yêu cầu.
3. Người trả lời đối thoại trực tiếp phải căn cứ
vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Nhà nước giao của cơ quan mình, cấp
mình để trả lời rõ ràng, cặn kẽ, chính xác, ngắn gọn và dễ hiểu. Những vấn đề
có tính chất phức tạp hoặc có hồ sơ, văn bản kèm theo thì phải trả lời bằng văn
bản hoặc mời công dân, tổ chức nêu ý kiến đến làm việc cụ thể tại trụ sở cơ
quan. Những vấn đề không thuộc trách nhiệm, thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền
của cấp mình thì chỉ được phép ghi nhận để chuyển giao cho cơ quan có trách
nhiệm hoặc báo cáo cấp trên để trả lời sau.
4. Thủ trưởng cơ quan, đơn vị tổ chức đối thoại
chịu trách nhiệm trước thủ trưởng cơ quan cấp trên về việc trả lời các ý kiến
tham gia đối thoại, kể cả trong trường hợp chỉ định người khác trả lời thay.
Điều 16. Đối với công dân, tổ chức trong
buổi đối thoại phải tôn trọng, lắng nghe, tiếp thu các ý kiến phát biểu, trả
lời của chủ trì và các ngành liên quan, sau đó mới có ý kiến phản hồi (nếu được
chủ trì cho phép), không được tự ý cắt ngang, làm mất trật tự hoặc có hành vi
gây rối.
Điều 17. Khi kết thúc các cuộc đối thoại
trong biên bản phải có chữ ký của các bên tham gia. Trường hợp công dân, tổ
chức tham dự không ký biên bản, người ghi biên bản phải ghi rõ lý do không ký
biên bản đối thoại.
Chương IV
XỬ LÝ CÔNG VIỆC SAU ĐỐI THOẠI
Điều 18. Sau cuộc đối thoại, cơ quan nhà
nước các cấp phải tiến hành tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm nội bộ và phân
công các đơn vị, bộ phận chức năng khẩn trương giải quyết các công việc sau:
1. Trả lời bằng văn bản cho công dân, tổ chức
nêu kiến nghị về nội dung đã được thủ trưởng ghi nhận, hứa trả lời sau khi đã
kiểm tra, xác minh.
2. Trình cơ quan cấp trên giải quyết các vấn đề
vượt quá thẩm quyền đã được nêu ra và ghi nhận tại cuộc đối thoại; đề xuất,
kiến nghị với các cơ quan cấp trên về sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính
sách cho phù hợp với thực tiễn.
3. Chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết đối
với các kiến nghị thuộc trách nhiệm của cơ quan đó theo chức năng, nhiệm vụ
được Nhà nước phân công, đồng thời thông báo cho công dân, tổ chức nêu kiến
nghị biết.
4. Xây dựng chương trình, kế hoạch, biện pháp
sửa đổi, hoàn thiện hoặc ban hành các quy trình, thủ tục quản lý.
Điều 19. Trong thời hạn 10 (mười) ngày
làm việc sau khi kết thúc cuộc đối thoại, cơ quan tổ chức đối thoại phải báo
cáo kết quả của cuộc đối thoại với cơ quan cấp trên bằng văn bản. Báo cáo phải
nêu rõ: nội dung tổ chức đối thoại, thành phần tham gia, các kết quả đạt được
qua đối thoại kèm theo tổng hợp các vấn đề đã được nêu ra trong quá trình chuẩn
bị và trong thời gian đối thoại, kết quả giải quyết kiến nghị đã trả lời tại
cuộc đối thoại; những vấn đề ghi nhận để trả lời sau và thời hạn giải quyết
hoặc trả lời; những vấn đề cần tiếp thu, báo cáo cấp trên để bổ sung, sửa đổi
chính sách, chế độ hoặc quy trình thủ tục quản lý; những vấn đề phát sinh chưa
giải quyết được và biện pháp xử lý tiếp theo.
Nội dung tổng hợp các vấn đề kiến nghị và kết
quả trả lời đối thoại phải được gửi đến công dân hoặc đại diện của công dân, tổ
chức tham gia đối thoại để họ theo dõi, giám sát việc thực hiện.
Chương V
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 20. Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị
trong phạm vi quyền hạn của mình chịu trách nhiệm: phối hợp với Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị xã hội tổ chức tốt đối thoại với công dân, tổ chức
theo quy định; cụ thể hoá các quy định của quy chế phù hợp với đặc điểm, điều
kiện của cơ quan, đơn vị, địa phương; chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện khi
có những vấn đề nổi cộm, khi triển khai nhiệm vụ, chương trình, dự án liên quan
đến công dân, những kiến nghị, khiếu nại, tố cáo phải tiến hành đối thoại trực
tiếp với công dân, không để vấn đề phát sinh.
Điều 21. Các cơ quan, đơn vị hàng năm tổ
chức sơ, tổng kết việc triển khai thực hiện công tác đối thoại; định kỳ hằng
quý, 6 tháng, năm và đột xuất báo cáo kết quả về Ủy ban nhân dân tỉnh (thông
qua Thanh tra tỉnh) để tham mưu chỉ đạo; kịp thời khen thưởng các cơ quan, đơn
vị, cá nhân thực hiện tốt công tác đối thoại. Cơ quan, đơn vị và cá nhân vi
phạm Quy chế này tùy theo tính chất, mức độ sẽ bị xử lý theo pháp luật hiện
hành.
Điều 22. Chánh Thanh tra tỉnh có trách
nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thủ
trưởng các sở, ban, ngành thuộc tỉnh; Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thành
phố trong việc thực hiện QHy chế này, thường xuyên báo cáo kết quả về Ủy ban
nhân dân tỉnh để chỉ đạo.
Trong quá trình triển khai thực hiện quy chế,
nếu có phát sinh khó khăn, vướng mắc, các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân
phản ảnh về Thanh tra tỉnh để tổng hợp trình Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét,
quyết định./.