UỶ
BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
******
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
29/2006/PL-UBTVQH11
|
Hà
Nội, ngày 05 tháng 04 năm 2006
|
PHÁP LỆNH
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA PHÁP LỆNH THỦ TỤC GIẢI
QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết
số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Pháp lệnh này sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 21 tháng 5 năm 1996 đã được sửa đổi,
bổ sung theo “Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính ngày 25 tháng 12 năm 1998
Điều 1
Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
1. Điều 2 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 2
l. Cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính về các
khiếu kiện quy định tại các khoản từ khoản 1 đến khoản 16 Điều
11 của Pháp lệnh này trong các trường hợp sau đây:
a) Đã khiếu nại
với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng, hết thời hạn giải
quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được
giải quyết mà không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại lần hai;
b) Đã khiếu nại
với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định của pháp luật
về khiếu nại, tố cáo, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần
đầu và không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần
hai;
c) Đã khiếu nại
với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng hết thời hạn giải
quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được
giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu trong trường hợp pháp luật quy định không được quyền khiếu nại
đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai;
d) Đã khiếu nại
với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai, nhưng hết thời hạn giải
quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được
giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại lần hai;
2. Cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính về khiếu
kiện quy định tại khoản 17 Điều 11 của Pháp lệnh này trong
các trường hợp sau đây:
a) Đối với quyết
định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết khiếu nại lần đầu,
nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết đó và không tiếp tục
khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
b) Đối với quyết
định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng
người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết đó.
3. Cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính về khiếu
kiện quy định tại khoản 18 Điều 1l của Pháp lệnh này nếu đã
khiếu nại với cơ quan lập danh sách cử tri, nhưng không đồng ý về cách giải quyết
của cơ quan đó.
4. Cán bộ, công
chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở xuống theo quy định của pháp
luật về cán bộ, công chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành
chính về khiếu kiện quy định tại khoản 19 Điều 11 của Pháp lệnh
này nếu đã khiếu nại với người đã ra quyết định kỷ luật, nhưng không đồng ý
với quyết định giải quyết đó và không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại tiếp theo.
5. Cá nhân, tổ
chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện quy
định tại khoản 20 Điều 1l của Pháp lệnh này nếu đã khiếu nại
với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nhưng không
đồng ý với quyết định giải quyết đó.
6. Cá nhân, tổ
chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện quy
định tại khoản 21 Điều 11 của Pháp lệnh này nếu đã khiếu nại
với Hội đồng cạnh tranh hoặc Bộ trưởng Bộ Thương mại, nhưng không đồng ý với
quyết định giải quyết đó.
7. Cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính về khiếu
kiện quy định tại khoản 22 Điều 11 của Pháp lệnh này theo
quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam 1à thành viên về các khiếu kiện đó.
2. Điều 4 được sửa đổi, bổ sung như sau:
Điều 4
Trong Pháp lệnh
này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Quyết định
hành chính: là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc
của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần
đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động
quản lý hành chính.
2. Hành vi
hành chính: là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm
quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ,
công vụ theo quy định của pháp luật.
3. Quyết định
kỷ luật buộc thôi việc là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với cán bộ, công
chức giữ chức vụ từ vụ trưởng và tương đương trở xuống thuộc quyền quản lý của
mình theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
4. Đương sự
là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm người khởi kiện, người bị kiện hoặc người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
5. Người khởi
kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình
bị xâm phạm bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc cán bộ, công chức
cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định kỷ luật buộc
thôi việc, nên đã khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền.
6. Người kiện
là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết
định kỷ luật buộc thôi việc bị khiếu kiện.
7. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là các cá nhân, cơ quan, tổ chức, do có việc khởi kiện
vụ án hành chính của người khởi kiện đối với người bị kiện mà việc giải quyết vụ
án hành chính đó có liên quan đến quyền lợi hoặc nghĩa vụ của họ.
8. Cơ quan,
tổ chức bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ
trang nhân dân.
3. Điều 5 được sửa đổi, bổ sung như sau:
Điều 5
l. Người khởi
kiện có nghĩa vụ cung cấp bản sao quyết định hành chính hoặc quyết định kỷ luật
buộc thôi việc, bản sao quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có), cung cấp các
chứng cứ khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
2. Người bị kiện
có nghĩa vụ cung cấp cho Toà án hồ sơ giải quyết khiếu nại (nếu có) và bản sao
các văn bản, tài liệu trong hồ sơ giải quyết việc hành chính, hồ sơ xét kỷ luật
mà căn cứ vào đó để ra quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc
hoặc có hành vi hành chính.
3. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền tham gia tố tụng với bên người khởi kiện, bên
người bị kiện hoặc tham gia tố tụng độc lập, có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
4. Toà án chỉ
tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp do Pháp lệnh này
quy định.
5. Cá nhân, cơ
quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp
đầy đủ và đúng thời hạn cho đương sự. Toà án chứng cứ mà cá nhân, cơ quan, tổ
chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án; trong trường
hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết
và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ”.
4. Điều 11 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 11
Các khiếu kiện
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án:
l. Khiếu kiện
quyết định xử phạt vi phạm hành chính;
2. Khiếu kiện
quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành
chính;
3. Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế,
thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính;
4. Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng hoặc thi hành biện
pháp xử lý hành chính bằng một trong các hình thức giáo dục tại xã, phường, thị
trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh;
quản chế hành chính;
5. Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng biện pháp buộc
tháo dỡ nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố khác;
6. Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc cấp, thu hồi giấy phép về
xây dựng cơ bản, sản xuất, kinh doanh; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và chứng
chỉ hành nghề hoặc khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính khác
liên quan đến hoạt động kinh doanh, tài chính của thương nhân;
7. Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến thương mại hàng hoá quốc
tế hoặc trong nước;
8. Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến chuyển giao tài chính
trong nước và quốc tế, dịch vụ và cung ứng dịch vụ;
9. Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch
thu tài sản;
10. Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng thuế, thu thuế,
truy thu thuế,
11. Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính trong việc áp dụng phí, thu phí, lệ
phí; thu tiền sử dụng đất;
12. Khiếu kiến
quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về sở hữu trí
tuệ và chuyển giao công nghệ;
13. Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý nhà nước về đầu tư;
14. Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hải quan, công chức hải
quan;
15. Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý hộ tịch;
16. Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính đối với việc từ chối công chứng, chứng
thực;
17. Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp
giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn sử dụng đất;
18. Khiếu kiện
về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân;
19. Khiếu kiện
quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức giữ chức vụ từ Vụ trưởng và
tương đương trở xuống;
20. Khiếu kiện
quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng,
kỷ luật của Đoàn luật sư;
21 . Khiếu kiện
quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc;
22. Các khiếu
kiện khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.
5. Điều 12 được sửa đổi, bổ sung như sau:
''Điều 12
1. Toà án nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Toà án cấp
huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:
a) Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở
xuống trên cùng lãnh thổ với Toà án và của cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước
đó;
b) Khiếu kiện
quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức từ cấp
huyện trở xuống trên cùng lãnh thổ với Toà án đối với cán bộ, công chức thuộc
quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó;
c) Khiếu kiện về
danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân của cơ quan lập danh sách cử tri trên cùng lãnh thổ với toà án.
2. Toà án nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Toà án cấp tỉnh)
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau đây:
a) Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành
chính của Thủ trưởng các cơ quan đó mà người khởi kiện là cá nhân có nơi cư
trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ quan, tổ chức có trụ sở trên cùng
lãnh thổ với Toà án;
b) Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan chức năng thuộc một trong
các cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản này và quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cán bộ, công chức của các cơ quan chức năng đó mà người
khởi kiện là cá nhân có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ
quan, tổ chức có trụ sở trên cùng lãnh thổ với Toà án;
c) Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên
cùng lãnh thổ với Toà án và của cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước đó;
d) Khiếu kiện
quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trên cùng
lãnh thổ với Toà án đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của cơ quan,
tổ chức đó, trừ những khiếu kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều này;
đ) Khiếu kiện
quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
trên cùng lãnh thổ với Toà án giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban
Chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư;
e) Khiếu kiện
quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh mà người
khởi kiện là cá nhân có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc người khởi kiện là cơ
quan, tổ chức có trụ sở trên cùng lãnh thổ vời Toà án;
g) Khiếu kiện
quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà
án cấp huyện quy định tại khoản 1 Điều này mà Toà án cấp tỉnh lấy lên để giải
quyết”.
6. Điều 13 được sửa đổi, bổ sung như sau:
''Điều 13
1. Trong trường
hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc
thôi việc cán bộ, công chức không được giải quyết hoặc đã được giải quyết lần đầu,
nhưng người khiếu nại không đồng ý mà khiếu nại đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại lần hai và khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền
thì phân biệt thẩm quyền như sau:
a) Trường hợp
chỉ có một người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa
khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai thì việc giải
quyết thuộc thẩm quyền của Toà án. Cơ quan đã thụ lý việc giải quyết khiếu nại
phải chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án có thẩm quyền;
b) Trường hợp
có nhiều người mà họ vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, vừa
khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai hoặc trong đó có
người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền, có người khiếu nại đến
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai thì việc giải quyết thuộc thẩm
quyền của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai. Toà án đã thụ lý vụ
án hành chính phải chuyển hồ sơ vụ án cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại lần hai ngay sau khi phát hiện việc giải quyết vụ án không thuộc thẩm quyền
của mình;
c) Đối với trường
hợp quy định tại điểm b khoản này, nếu hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần
hai thì có quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được
giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết
định giải quyết khiếu nại lần hai thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính theo
thủ tục chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Toà án đã thụ
lý vụ án hành chính, nếu phát hiện vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của
mình thì ra quyết định chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có thẩm quyền và xoá sổ thụ
lý. Quyết định này phải được gửi ngay cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.
Đương sự có quyền
khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị quyết định này trong thời
hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định. Trong thời hạn ba ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị, Chánh án Toà án đã ra quyết
định chuyển vụ án hành chính phải giải quyết khiếu nại, kiến nghị.
3. Tranh chấp về
thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Toà án cấp huyện trong cùng một
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Chánh án Toà án cấp tỉnh giải quyết.
Tranh chấp về
thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính giữa các Toà án cấp huyện thuộc các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương khác nhau hoặc giữa các Toà án cấp tỉnh do
Chánh án Toà án nhân dân tối cao giải quyết”.
7. Điều 14 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 14
1. Các cơ quan
tiến hành tố tụng hành chính gồm có:
a) Toà án nhân
dân;
b) Viện kiểm
sát nhân dân.
2. Những người
tiến hành tố tụng hành chính gồm có:
a) Chánh án Toà
án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án;
b) Viện trưởng
Viện kiểm sát, Kiểm sát viên.”
8. Điều 15 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 15
1. Hội đồng xét
xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt
thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân.
2. Hội đồng xét
xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán.
3. Hội đồng
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án cấp tỉnh là Uỷ ban Thẩm phán Toà án cấp
tỉnh. Khi Uỷ ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh tiến hành giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải có ít nhất hai phần ba tổng
số thành viên tham gia.
4. Hội đồng
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án hành chính Toà án nhân dân tối cao gồm
có ba Thẩm phán.
5. Hội đồng
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án nhân dân tối cao là Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao. Khi Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tiến
hành giám đốc thẩm hoặc tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
thì phải có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên tham gia.”
9. “Điều 16 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 16
1. Người tiến
hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường
hợp sau đây.
a) Họ đồng thời
là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự;
b) Họ đã tham
gia với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch trong cùng vụ án đó;
c) Họ đã tham
gia vào việc ra quyết định hành chính hoặc có liên quan đến hành vi hành chính
bị khiếu kiện;
d) Họ đã tham
gia vào việc ra quyết định giải quyết khiếu nại đối với khiếu nại quyết định
hành chính, hành vi hành chính;
đ) Họ đã tham
gia vào việc ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức hoặc đã
tham gia vào việc ra quyết định giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật
buộc thôi việc cán bộ, công chức;
e) Họ đã tham
gia vào việc ra quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương giải quyết khiếu nại đối với quyết định của Ban Chủ nhiệm, Hội
đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư;
g) Họ đã tham
gia vào việc ra quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh;
h) Họ đã tham
gia vào việc lập danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội hoặc lập danh sách cử
tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân;
i) Có căn cứ rõ
ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
2. Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường
hợp sau đây:
a) Thuộc một
trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Họ cùng
trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau;
c) Họ đã tham
gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án đó, trừ trường
hợp là thành viên của Hội đồng Thẩm phán Toà án xử nhiều lần cùng một vụ án
theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
d) Họ đã là người
tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Kiểm sát.
3. Kiểm sát
viên, Thư ký Toà án phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những
trường hợp sau đây:
a) Thuộc một
trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Họ là người tiến
hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, kiểm
sát viên, Thư ký Tòa án.
10. Điều 17 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 17
l. Trước khi mở
phiên toà, việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Chánh án Toà án thì do Chánh
án Toà án cấp trên trực tiếp quyết định.
Trước khi mở
phiên tòa, việc thay đổi Kiểm soát viên do Viện trưởng Viện Kiểm sát cùng cấp
quyết định; nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì do
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định.
2. Tại phiên
toà, việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên
do Hội đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi.
Hội đồng xét xử thảo luận tại phòng nghị án và quyết định
Trong trường hợp
phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên thì Hội
đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà. Việc cử Chánh án Toà án quyết định; nếu
người bị thay đổi là Chánh án Toà án thì do Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp
quyết định. Việc cử Kiểm sát viên thay thế Kiểm sát viên bị thay đổi do Viện
trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định; nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện
trưởng Viện kiểm sát thì do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết
định.
3. Trong thời hạn
ba ngày làm việc, kể từ ngày hoãn phiên tòa, Chánh án Tòa án, Viện trưởng Viện
kiểm sát phải cử người khác thay thế.
11. Điều 18
được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 18
Viện kiểm sát
cùng cấp phải tham gia phiên toà xét xử vụ án hành chính.
Đối với các quyết
định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, nếu không có người khởi
kiện thì Viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ án hành chính và có trách nhiệm cung
cấp chứng cứ.”
12. Điều 19 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 19
l. Những người
tham gia tố tụng hành chính gồm đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự,
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám
định, người phiên dịch.
2. Đương sự là
cá nhân thì tự mình hoặc có thể uỷ quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện
quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình trong quá trình giải quyết vụ án hành chính
3. Đương sự là
cơ quan, tổ chức thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng thông qua người đại diện hợp
pháp”.
13. Điều 27 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 27
Người giám định,
người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu thuộc một
trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 16 của Pháp lệnh
này. Việc thay đổi người giám định, người phiên dịch trước khi mở phiên toà
do Chánh án Toà án quyết định; tại phiên toà do Hội đồng xét xử quyết định
sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay đổi.”
14. Điều 30 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 30
l. Thời hiệu khởi
kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ
án hành chính bảo vệ quyền; lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết
thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Trong trường
hơp pháp luật không có quy định khác thì thời hiệu khởi kiện được quy định như
sau:
a) Đối với trường
hợp quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh
này là ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần giải
quyết khiếu nại lần đầu, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó;
b) Đối với trường
hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh này là
ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai mà khiếu nại
không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại
lần hai, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó;
c) Đối với trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều 2 của Pháp lệnh này là bốn
mươi lăm ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu,
nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó;
d) Đối với trường
hợp quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh này chậm nhất
là năm ngày, trước ngày bầu cử, nhưng không đồng ý về cách giải quyết của cơ
quan lập danh sách cử tri;
đ) Đối với trường
hợp quy định tại khoản 4 Điều 2 của Pháp lệnh này là ba
mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng
không đồng ý với quyết định giải quyết đó;
e) Đối với trường
hợp quy định tại khoản 5 Điều 2 của Pháp lệnh này là ba mươi
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, nhưng không đồng ý với quyết định
giải quyết đó;
g) Đối với trường
hợp quy định tại khoản 6 Điều 2 của Pháp lệnh này là ba mươi
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng cạnh
tranh hoặc của Bộ trưởng Bộ Thương mại, nhưng không đồng ý với quyết định giải
quyết đó;
h) Đối với trường
hợp quy định tại khoản 7 Điều 2 của Pháp lệnh này thì thời
hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về trường hợp đó; nếu pháp luật Việt
Nam và điều ước quốc tế không có quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi
kiện là ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc
lần hai hay kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần
hai.
3. Đối với
vùng, sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn khởi kiện quy định tại các điểm
a, b và đ khoản 2 Điều này là bốn mươi lăm ngày.
4. Trong trường
hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì trở
ngại khách quan khác mà người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy
định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này thì thời gian có trở ngại đó không tính
vào thời hiệu khởi kiện.
5. Người khởi
kiện phải làm đơn khởi kiện trong thời hạn quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều
này. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng,
năm làm đơn;
b) Toà án được
yêu cầu giải quyết vụ án hành chính;
c) Tên, địa chỉ
của người khởi kiện, người bị kiện;
d) Nội dung quyết
định hành chính hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức hay
tóm tắt diễn biến của hành vi hành chính;
đ) Nội dung quyết
định giải quyết khiếu nại (nếu có);
e) Các yêu cầu
Toà án giải quyết.
6. Người khởi
kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan, tổ chức khởi kiện thì
người đại điện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần
cuối đơn; nếu việc khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự thì đơn khởi kiện do cha, mẹ, người
giám hộ của những người này ký tên hoặc điểm chỉ; trường hợp Viện kiểm sát khởi
tố thì viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ nhiệm ký tên và
đóng dấu. Kèm theo đơn khởi kiện, văn bản khởi tố phải có các tài liệu, chứng từ
chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện, việc khởi tố là có căn cứ và hợp
pháp.”
15. Điều 31 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 31
l. Toà án trả lại
đơn khởi kiện trong những trường hợp sau đây:
a) Người khởi
kiện không có quyền khởi kiện; b) Thời hiệu khởi kiện đã hết mà không có lý do
chính đáng;
c) Không đủ điều
kiện khởi kiện vụ án hành chính quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh
này;
d) Sự việc đã
được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà
án; đ.) Sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
2. Khi trả lại
đơn khởi kiện, Toà án phải có văn bản kèm theo ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện.
3. Trong thời hạn
ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm
theo do Toà án trả lại, người khởi kiện có quyền khiếu nại với Chánh án Toà án
đã trả lại đơn khởi kiện.
Trong thời hạn
ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện,
Chánh án Toà án phải ra một trong các quyết định sau đây:
a) Giữ nguyên
việc trả lại đơn khởi kiện;
b) Nhận lại đơn
khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.”
16. Điều 33 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 33
1. Sau khi Toà
án đã thụ lý vụ án, đương sự có quyền làm đơn yêu cầu Toà án ra quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ lợi ích cấp thiết của đương sự, bảo đảm
việc thi hành án; đương sự phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của
mình, nếu có lỗi trong việc gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong quá
trình giải quyết vụ án, Toà án tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của Việc
kiểm sát có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và phải chịu
trách nhiệm về quyết định đó; nếu do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái
pháp luật mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Việc áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời có thể được tiến hành ở bất cứ giai đoạn nào trong quá
trình giải quyết vụ án.
3. Yêu cầu áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được Toà án xem xét trong thời hạn ba ngày, kể
từ ngày nhận được yêu cầu; nếu có đủ căn cứ pháp luật và xét thấy cần thiết chấp
nhận yêu cầu thì Toà án ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
4. Trong quyết
định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải ghi rõ thời hạn có hiệu lực của
quyết định, nhưng không được quá thời hạn giải quyết vụ án theo quy định của
pháp luật.
5. Trong trường
hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả
nghiêm trọng có thể xảy ra thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền nộp đơn yêu cầu
Toà án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định
tại Điều 34 của Pháp lệnh này đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Toà án
đó.
Việc áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp này được thực hiện theo các quy định
tương ứng của Bộ luật tố tụng dân sự.''
17. Điều 37 được sửa đổi, bổ sung như sau:
''Điều 37
1. Trong thời hạn
năm ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản
cho người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ
án và Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án.
2. Văn bản
thông báo phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng,
năm làm văn bản thông báo;
b) Tên, địa chỉ
Toà án đã thụ 1ý vụ án;
c) Tên, địa chỉ
của người khởi kiện;
d) Những vấn đề
cụ thể người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết;
đ) Danh sách
tài liệu, chứng cứ người khởi kiện nộp kèm theo đơn khởi kiện;
e) Thời hạn người
được thông báo phải có ý kiến bằng văn bản nộp cho Toà án đối với yêu cầu của
người khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có);
g) Hậu quả pháp
lý của việc người được thông báo không nộp cho Toà án văn bản về ý kiến của
mình đối với yêu cầu của người khởi kiện.
3. Trong thời hạn
mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, người được thông báo phải nộp
cho Toà án văn bản về ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và
tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có).
Trong trường hợp
cần gia hạn thì người được thông báo phải có đơn xin gia hạn gửi cho Toà án nêu
rõ lý do; nếu việc xin gia hạn là có căn cứ thì Toà án phải gia hạn, nhưng
không quá mười ngày.
4. Người được
thông báo có quyền yêu cầu Toà án cho xem, ghi chép, sao chụp đơn khởi kiện,
văn bản khởi tố và tài liệu, chứng cứ kèm theo.
5. Trong thời hạn
hai tháng, kể từ ngày thụ 1ý vụ án, Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên
toà phải ra một trong các quyết định sau đây:
a) Đưa vụ án ra
xét xử;
b) Tạm đình chỉ
việc giải quyết vụ án;
c) Đình chỉ việc
giải quyết vụ án.
Đối với các vụ
án phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì thời hạn nói trên không quá ba
tháng
6. Trong thời hạn
hai mươi ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toá án phải mở
phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn đó cũng không được
quá ba mươi ngày.
7. Quyết định
đưa vụ án ra xét xử phải được gửi cho các đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp ngay
sau khi ra quyết định.
Cùng với việc gửi
quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát
cùng cấp nghiên cứu. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ
án, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ vụ án cho tòa án.
18. Điều 41 được sửa đổi, bổ sung như sau:
''Điều 41
1. Toà án quyết
định đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính trong các trường hợp sau đây:
a) Đương sự là
cá nhân đã chết mà quyền, nghĩa vụ của họ không được thừa kế; cơ quan, tổ chức
đã giải thể hoặc bị tuyên bố phá sản mà không có cá nhân, cơ quan, tổ chức kế
thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng.
b) Người khởi
kiện rút đơn khởi kiện, Viện kiểm sát rút quyết định khởi tố;
c) Người khởi
kiện đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.
2. Quyết định
đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính có thể bị kháng cáo, kháng nghị, trừ
trường hợp quy định tại điểm b khoản l Điều này.
3. Toà án ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính, xoá tên vụ án trong sổ thụ lý
và trả lại đơn cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, nếu vụ án
thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện quy định tại Điều 31 của
Pháp lệnh này.”
19. Điều 43 được sửa đổi, bổ sung như sau:
''Điều 43
1. Kiểm sát
viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên tòa sơ thẩm, nếu vắng mặt thì
phải hoãn phiên tòa.
2. Người khởi
kiện phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, nếu vắng mặt lần
thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà.
Người khởi kiện
đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc
khởi kiện và Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp
Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án thì người khởi kiện có quyền khởi
kiện lại, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
3. Người bị kiện
phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, nếu vắng mặt lần thứ
nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà.
Người bị kiện
đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án vẫn tiến
hành xét xử vắng mặt họ.
4. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan phải có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của
Tòa án, nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa.
Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt
thì Toà án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.
Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ
hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập của mình và Toà án ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu người khởi kiện và người bị kiện đều đồng ý. Trong
trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu độc lập
thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu
độc lập đó, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.
5. Toà án vẫn
tiến hành xét xử vụ án trong các trường hợp sau đây:
a) Người khởi
kiện, người bị kiện hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại
phiên toà có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt;
b) Người khởi
kiện, người bị kiện hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại
phiên toà có người đại diện hợp pháp tham gia phiên toà;
c) Người khởi
kiện, người bị kiện hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập
hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt không có lý do chính đáng;
đ) Các trường hợp
quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều này.
6. Người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự phải tham gia phiên toà theo giấy triệu tập
của Toà án, nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên
tòa.
Người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng
mặt không có lý do chính đáng hoặc được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn
vắng mặt thì Toà án tiến hành xét xử vụ án; trong trường hợp này, đương sự tự bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
7. Người làm chứng
có nghĩa vụ tham gia phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án để làm sáng tỏ
các tình tiết của vụ án. Trong trường hợp người làm chứng vắng mặt, nhưng trước
đó đã có lời khai trực tiếp với Toà án hoặc gởi lời khai cho Toà án thì chủ toạ
phiên toà công bố lời khai đó.
Trường hợp người
làm chứng vắng mặt thì Hội đồng xét xử có quyền quyết định hoãn phiên toà hoặc
vẫn tiến hành xét xử; trường hợp người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa không
có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây cản trở cho việc xét xử thì có
thể bị dẫn giải đến phiên tòa theo quyết định của Hội đồng xét xử.
8. Người giám định
có nghĩa vụ tham gia phiên tòa theo giấy triệu tập của tòa án để làm rõ những vấn
đề liên quan đến việc giám định và kết luận giám định.
Trường hợp người
giám định vắng mặt thì Hội đồng xét xử có quyền quyết định hoãn phiên tòa hoặc
vẫn tiến hành xét xử.”
9. Người phiên dịch
có nghĩa vụ tham gia phiên tòa theo giấy triệut ập của toà án.
Trường hợp người
vắng mặt mà không có người khác thay thế thì Hội đồng xét xử quyết định hoãn
phiên tòa, trừ trường hợp đương sự vẫn yêu cầu tiến hành xét xử.”
20. Điều 45 được sửa đổi, bổ sung như sau:
''Điều 45
Hội đồng xét xử
hoãn phiên toà trong các trường hợp sau đây:
1. Các trường hợp
quy định tại Điều 43 của Pháp lệnh này;
2. Thành viên của
Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký Toà án, người giám định, người phiên dịch
bị thay đổi mà không có người thay thế ngay;
3. Cần phải xác
minh, thu thập tài liệu, chứng cứ bổ sung.”
21. Điều 58 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 58
1. Trước khi bắt
đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo có quyền thay đổi,
bổ sung kháng cáo, Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị có quyền thay đổi, bổ
sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu,
nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết.
2. Trước khi bắt
đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo có quyền rút kháng
cáo, Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp
có quyền rút kháng nghị.
Toà án cấp phúc
thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà người kháng cáo
đã rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã rút kháng nghị.
3. Việc thay đổi,
bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên toà phải được làm thành
văn bản và gửi cho Toà án cấp phúc thẩm. Toà án cấp phúc thẩm phải thông báo
cho Viện kiểm sát và các đương sự biết về việc thay đổi bổ sung, rút kháng cáo,
kháng nghị.
Việc thay đổi,
bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên toà phải được ghi vào biên bản
phiên toà.”
22. Điều 63 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 63
1. Kiểm sát
viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà phúc thẩm; nếu vắng mặt thì
phải hoãn phiên toà.
Toà án phải gởi
hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày
nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ vụ án cho
tòa án
2. Đương sự kháng
cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị được triệu
tập tham gia phiên tòa; nếu có người vắng mặt thì tòa án vẫn có thể tiến hành
xét xử.
3. Toà án chỉ
triệu tập người giám định, người phiên dịch, người làm chứng khi có yêu cầu của
đương sự và khi xét thấy cần thiết cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị; nếu
có người vắng mặt thì tuỳ từng trường hợp mà Toà án quyết định tiến hành xét xử
hoặc hoãn phiên toà.
4. Đối với các vụ
án khi xét xử sơ thẩm không cần sự có mặt của người tham gia tố tụng hoặc người
tham gia tố tụng không có yêu cầu tham gia phiên toà phúc thẩm thì Toà án tiến
hành phiên toà phúc thẩm không cần sự có mặt của họ.”
23. Điều 68 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 68
1. Chánh án Toà
án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm
của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
2. Chánh án Toà
án cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Toà án cấp huyện.”
24. Điều 69 được sửa đổi, bổ sung như sau:
Điều 69
1. Thời hạn
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là một năm, kể từ ngày bản án, quyết định
của Toà án có hiệu lực pháp luật.
2. Thời hạn kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm là một năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị
biết được căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm quy định tại khoản 2 Điều
67 của Pháp lệnh này.
3. Kháng nghị
phải được gửi cho Toà án đã ra bản án, quyết định bị kháng nghị, Toà án sẽ xét
xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến nội dung kháng nghị. Trong trường hợp Chánh án Toà án nhân dân tối cao
hoặc Chánh án Toà án cấp tỉnh kháng nghị thì Toà án sẽ xét xử giám đốc thẩm phải
gởi kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu
trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị và hồ sơ vụ án.
4. Người đã
kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm có quyền thay đổi bổ sung quyết định
kháng nghị, nếu chưa hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều
này.
5. Trước khi mở
phiên toà hoặc tại phiên toà, người kháng nghị có quyền rút kháng nghị. Việc
rút kháng nghị trước khi mở phiên toà phải được làm thành văn bản và gửi theo quy
định tại khoản 3 Điều này.
Việc rút kháng
nghị tại phiên toà phải được ghi vào biên bản phiên toà. Hội đồng giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm trong
trường hợp người kháng nghị rút toàn bộ kháng nghị.
6. Người có thẩm
quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án có quyền
hoãn, tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định không quá hai tháng để xem xét,
quyết định việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
7. Người kháng
nghị có quyền hoãn hoặc tạm đình chỉ việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật bị kháng nghị cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
25. Điều 70 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 70
1. Hội đồng
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm chỉ có quyền xem xét phần nội dung của vụ án liên
quan đến quyết định bị kháng nghị.
2. Uỷ ban Thẩm
phán Toà ấn cấp tỉnh giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của toà án cấp huyện bị kháng nghị.
3 . Toà hành
chính Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp tỉnh bị kháng nghị.
4. Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà hành chính Toà án nhân dân
tối cao bị kháng nghị.
5. Những bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án hành chính thuộc thẩm
quyền của các cấp Toà án khác nhau được quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều
này thì Toà án có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm hoặc tái thẩm toàn bộ vụ
án.
6. Trong thời hạn
một tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án, Toà án phải mở
phiên toà giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
26. Điều 71 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 71
1. Phiên toà
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm không phải triệu tập đương sự và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị trừ trường hợp Toà án thấy cần phải nghe ý kiến
của họ trước khi quyết định.
Đại diện Viện
kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên toà giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
2. Tại phiên
toà, một thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm trình bày nội dung
vụ án, nội dung kháng nghị. Trong trường hợp Toà án có triệu tập những người
tham gia tố tụng thì người được triệu tập trình bày ý kiến của mình về quyết định
kháng nghị. Đại diện Viện kiểm sát trình bày ý kiến của Viện kiểm sát về quyết
định kháng nghị.
3. Các thành
viên của Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thảo luận và phát biểu ý kiến của
mình về việc giải quyết vụ án. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
4. Hội đồng
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ án.
Quyết định giám
đốc thẩm, tái thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh, của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm
phán, của Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành.
Uỷ ban Thẩm
phán Toà án cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết
theo trình tự tán thành, không tán thành với kháng nghị và ý kiến khác; nếu
không có trường hợp nào được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán
Toà án cấp tỉnh, của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết tán
thành thì phải hoãn phiên toà. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết
định hoãn phiên toà, Uỷ ban Thẩm phán Hội đồng Thẩm phán phải tiến hành xét xử
lại với sự tham gia của toàn thể các thành viên.”
27. Điều 72 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 72
Hội đồng giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm có quyền:
1. Không chấp
nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
2. Giữ nguyên bản
án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa; 3. Huỷ
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại;
4. Huỷ bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có một
trong các trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh này.''
28. Điều 73 được sửa đổi, bổ sung như sau:
Điều 73
Các quy định của
Pháp lệnh này cũng được áp dụng đối với việc giải quyết vụ án hành chính có
đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài, trừ trường hợp điều ước quốc
tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác.”
29. Thay cụm từ
''Thư ký phiên toà'' tại các điều 39, 44, 49 và 52 của Pháp lệnh
thủ tục, giải quyết các vụ án hành chính bằng cụm từ “Thư ký Toà án''.
Điều 2
Pháp lệnh này
có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 6 năm 2006.
Điều 3
Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này.
|
TM. UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
CHỦ TỊCH
Nguyễn Văn An
|