HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
*****
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
******
|
Số:
29-CP
|
Hà
Nội, ngày 02 tháng 01 năm 1968
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ VỊ TRÍ KINH TẾ CỦA CẤP TỈNH, THÀNH PHỐ VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC,
NỘI DUNG CHÍNH CỦA VIỆC PHÂN CẤP QUẢN LÝ KINH TẾ CHO CẤP ẤY
Cải tiến và tăng cường quản lý
kinh tế của Nhà nước ta là một vấn đề cấp thiết và có tầm quan trọng lớn đối với
công cuộc chống Mỹ, cứu nước hiện nay cũng như đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội của nước ta. Đó là một lĩnh vực rộng lớn bao gồm nhiều mặt, trong
đó vấn đề xác định vị trí của mỗi cấp và phân cấp quản lý kinh tế giữa trung
ương và địa phương là một vấn đề quan trọng nhằm một mặt tăng cường sự lãnh
đạo tập trung và sự quản lý thống nhất của trung ương, mặt khác mở rộng quyền
làm chủ của địa phương để khai thác và tận dụng khả năng tiềm tàng về mọi mặt của
địa phương, đáp ứng kịp thời yêu cầu xây dựng kinh tế địa phương, tăng cường tiềm
lực kinh tế để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, đồng thời đáp ứng yêu cầu lâu dài của
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta.
I. VỊ TRÍ
KINH TẾ CỦA CÁC CẤP TỈNH, THÀNH PHỐ
I. Nhà nước ta,
dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, đã xây dựng và phát triển kinh tế trong 10 năm
hòa bình đã qua và trên 3 năm nay vừa xây dựng kinh tế vừa tiến hành cuộc chiến
tranh chống Mỹ, cứu nước. Thực tiễn của 13 năm qua đã giúp chúng ta nhận thức
ngày càng sáng rõ việc vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê nin vào
hoàn cảnh Việt-nam ta, quán triệt ngày càng đầy đủ hơn, vững chắc hơn đường lối
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra; và nhận
thức ngày càng đúng đắn hơn về mối quan hệ giữa công nghiệp nặng, nông nghiệp
và công nghiệp nhẹ của một nước nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Nông nghiệp và công nghiệp của
ta đang phát triển theo đường lối và phương hướng của đảng và được bố trí theo
2 khu vực:
Khu vực sản xuất quốc doanh
do trung ương trực tiếp quản lý, có quy mô tương đối lớn và kỹ thuật tương
đối hiện đại; nó bao gồm những ngành công nghiệp nặng (là bộ phận chủ yếu),
những ngành quan trọng của công nghiệp nhẹ và một bộ phận nông nghiệp quốc
doanh. Những xí nghiệp này được xây dựng dựa vào sự tích lũy của nội bộ nền
kinh tế quốc dân và một phần quan trọng dựa vào sự viện trợ của các nước xã hội
chủ nghĩa anh em.
Khu vực sản xuất do địa
phương trực tiếp quản lý, gồm có:
- Nông nghiệp và thủ công
nghiệp, tiểu công nghiệp tập thể, lấy hợp tác xã làm đơn vị cơ sở, từ quy
mô nhỏ và kỹ thuật thô sơ tiến dần lên, dựa vào sự tích lũy nội bộ của từng hợp
tác xã và một phần vào sự giúp đỡ to lớn của Nhà nước;
- Công nghiệp quốc doanh do địa
phương trực tiếp quản lý, có quy mô vừa và nhỏ, kỹ thuật cơ giới và nửa cơ giới,
bao gồm nhiều ngành công nghiệp nhẹ (nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm, hải
sản), những ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất và một bộ phận nông
nghiệp quốc doanh do địa phương trực tiếp quản lý. Những xí nghiệp này được
xây dựng dựa chủ yếu vào sự nghiệp tích lũy của bản thân nông nghiệp và công
nghiệp do địa phương trực tiếp quản lý và sự giúp đỡ về thiết bị, kỹ thuật và một
phần về tài chính của trung ương.
Nói chung, các ngành kinh tế quốc
dân khác như giao thông vận tải, lưu thông phân phối… đã được bố trí khớp với
hai khu vực sản xuất công nghiệp và nông nghiệp trên đây; do đó đã hình thành
hai khu vực kinh tế: khu vực kinh tế do trung ương trực tiếp quản lý (gọi tắt
là kinh tế trung ương) và khu vực kinh tế do cấp tỉnh, thành phố trực tiếp quản
lý dưới sự lãnh đạo thống nhất của trung ương (gọi tắt là kinh tế địa phương).
Đó là cơ cấu kinh tế thích hợp nhất trong cả giai đoạn lịch sử hiện nay.
Trong cơ cấu kinh tế này, kinh
tế trung ương chi phối toàn bộ nền kinh tế quốc dân, và giúp cho kinh tế địa
phương phát triển. Kinh tế địa phương phát triển bằng cách tận dụng các tài
nguyên, sức lao động và vốn của địa phương là một đơn vụ kinh tế có nông nghiệp
và công nghiệp gắn bó mật thiết với nhau, có giao thông vận tải, và các ngành
lưu thông, phân phối của địa phương; nó là một bộ phận hợp thành của toàn bộ nền
kinh tế quốc dân, nhận sự giúp đỡ và chịu sự chi phối của kinh tế trung ương,
có nhiệm vụ đáp ứng đến mức cao nhất những nhu cầu về sản xuất, chiến đấu và đời
sống của nhân dân trong địa phương, và có nghĩa vụ đóng góp ngày càng nhiều vào
sự phát triển nhanh và mạnh của nền kinh tế quốc dân vào sự phồn vinh chung,
vào nhu cầu chung của cả nước.
Phát triển kinh tế theo cơ cấu
này là bước đi tất yếu, bước đi phù hợp với đặc điểm và quy luật phát triển của
một nước tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa, đồng thời cũng là bước đi phù hợp với đặc điểm và quy luật của chiến
tranh nhân dân; là giải quyết hợp lý nhất sự phân công lao động xã hội và mối
quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, là gắn chặt nông nghiệp và công nghiệp
địa phương, gắn chặt nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng, và chỉ
có như vậy mới thúc đẩy nhanh nhất ba cuộc cách mạng; là bảo đảm sự phân phối
thu nhập quốc dân một cách hợp lý nhất nhằm tái sản xuất mở rộng mạnh mẽ và từng
bước cải thiện đời sống của nhân dân; là huy động được tốt nhất lực lượng của
nhân dân, nhất là nông dân, góp sức xây dựng nền kinh tế quốc dân; về lâu dài gắn
liền nông thôn với thành thị, đưa nông thôn tập thể hóa tiến lên, tạo điều kiện
thu hẹp từng bước sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị, giữa lao động nông
nghiệp và lao động công nghiệp, giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa
chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu tập thể xã hội chủ nghĩa.
2. Từ hơn 3 năm
nay, ở miền Bắc, chúng ta phải chống lại chiến tranh phá hoại bằng không quân
và hải quân của đế quốc Mỹ. Ngay từ đầu, Trung ương Đảng ta đã đề ra chủ trương
chuyển hướng kinh tế. Theo chủ trương ấy, một mặt chúng ta phân tán các cơ sở
công nghiệp có quy mô lớn, một mặt, chúng ta đẩy mạnh việc xây dựng công nghiệp
địa phương quy mô nhỏ và vừa để sản xuất các tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng
đáp ứng nhu cầu của sản xuất, chiến đấu và đời sống ở mỗi địa phương.
Kinh nghiệm của việc xây dựng
các ngành kinh tế của địa phương, từ trước đến nay, nhất là trong 3 năm
chuyển hướng kinh tế vừa qua, đã chứng tỏ một cách sáng tỏ rằng đó là một chủ
trương rất phù hợp với nước ta, đồng thời là một phương rất có hiệu quả để chống
lại chiến tranh phá hoại.
3. Để đẩy mạnh
việc xây dựng và phát triển kinh tế do địa phương (tỉnh, thành phố) trực tiếp
quản lý dưới sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của trung ương, phải xác định
vị trí kinh tế của cấp tỉnh, thành phố phù hợp với giai đoạn phát triển hiện
nay.
a) Tỉnh, thành phố là cấp
lãnh đạo và quản lý toàn bộ nền kinh tế địa phương, theo đường lối của
Đảng, các chính sách của Đảng và Chính phủ, các luật pháp, kế hoạch của Nhà nước.
Tỉnh, thành phố là một cấp quản
lý kinh tế toàn diện: quản lý nông nghiệp, công nghiệp địa phương, giao
thông vận tải địa phương, xây dựng cơ bản, lưu thông, phân phối và đời sống của
nhân dân trong địa phương.
Tỉnh, thành phố là một đơn vị
kế hoạch. Kế hoạch của địa phương là một bộ phận hợp thành của kế hoạch
kinh tế quốc dân và do Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố lập ra căn cứ vào
phương hướng, nhiệm vụ và yêu cầu do trung ương đề ra, và căn cứ vào đặc điểm
kinh tế, vào yêu cầu phát triển của địa phương, vào lực lượng của bản thân tỉnh,
thành phố và vào khả năng của trung ương giúp đỡ cho địa phương; sự cân đối kế
hoạch địa phương phải được bố trí thống nhất trong sự cân đối chung của kế hoạch
Nhà nước.
Tỉnh, thành phố là một đơn vị
ngân sách. Tài chính và ngân sách của nó là một bộ phận hợp thành của tài
chính và ngân sách Nhà nước; tỉnh, thành phố có nhiệm vụ tham gia quản lý tài
chính chung của Nhà nước ở địa phương, đồng thời có ngân sách riêng của mình.
Nó có quyền chủ động quản lý tài chính,lập và quản lý ngân sách của mình theo
đúng các chính sách, chế độ tài chính của nhà nước để phục vụ sản xuất, chiến đấu
và đời sống của nhân dân trong địa phương.
Tỉnh, thành phố là một đơn vị
thị trường, một đơn vị hậu cần phục vụ nhân dân và quân đội trong địa
phương. Thị trường địa phương là một bộ phận hợp thành của thị trường xã hội chủ
nghĩa thống nhất, gắn bó mật thiết với thị trường toàn miền Bắc. Tỉnh, thành phố
có nhiệm vụ thống nhất quản lý thị trường ở địa phương, quản lý, thu mua và
phân phối vật tư, hàng hóa (kể cả những thứ được trung ương cung cấp), theo
đúng những nguyên tắc, chính sách và chế độ của Nhà nước nhằm đáp ứng những nhu
cầu của địa phương, và bảo đảm cung cấp một phần nhu cầu của cả nước.
Trong giai đoạn hiện nay, quản
lý kinh tế địa phương là phải nắm chắc cả nông nghiệp và công nghiệp, kết hợp
chặt chẽ hai ngành phục vụ và thúc đẩy lẫn nhau. Trong việc quản lý kinh tế
của tỉnh phải coi nông nghiệp là trọng tâm (ở những tỉnh trung du và miền
núi, phải coi trọng cả nông nghiệp và lâm nghiệp), tập trung lực lượng phát triển
sản xuất nông nghiệp, đồng thời phải rất coi trọng lãnh đạo và quản lý tốt
công nghiệp địa phương, và coi trọng giao thông vận tải, lưu thông, phân phối,
làm chủ cho tỉnh thực sự là địa bàn kết hợp công nghiệp với nông nghiệp.
Tỉnh lãnh đạo tốt kinh tế địa
phương trong giai đoạn này có ý nghĩa là tỉnh phải trực tiếp xây dựng và quản
lý công nghiệp địa phương, (bao gồm các xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã tiểu
công nghiệp, thủ công nghiệp chuyên nghiệp) để phục vụ và thúc đẩy nông nghiệp
tập thể phát triển; là phải lãnh đạo và tổ chức việc nghiên cứu những vấn đề
kỹ thuật của nông nghiệp và công nghiệp địa phương, nghiên cứu việc áp dụng
trong địa phương những chủ trương của trung ương về việc quản lý hợp tác xã,
và đào tạo cán bộ của địa phương, là phải lãnh đạo thực hiện tốt các chính sách
và vận dụng đúng đắn các biện pháp thương nghiệp, tài chính và giá cả để phục
vụ và thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp địa phương.
Trong việc quản lý kinh tế của
thành phố và khu công nghiệp trực thuộc trung ương, phải coi công nghiệp là trọng
tâm; đồng thời phải rất coi trọng lãnh đạo và quản lý tốt nông nghiệp, lấy sự
phát triển nông nghiệp để phục vụ và thú đẩy công nghiệp; phải tập
trung lực lượng phát triển sản xuất công nghiệp, đồng thời phải rất coi trọng
phát triển sản xuất nông nghiệp ở vùng ngoại thành theo hướng chuyên canh và
thâm canh mạnh mẽ để cung cấp thực phẩm cho thành phố, làm cho công nghiệp ngày
càng có điều kiện thuận lợi phát triển hơn nữa.
b) Cung cấp xác định vị
trí của cấp tỉnh, thành phố, cần phải bước đầu xác định vị trí của cấp huyện, cấp
xã và tiến tới phân cấp quản lý kinh tế cho những cấp này.
Về cấp huyện:
Trong thực tế, huyện nằm
trong một vùng kinh tế nông nghiệp (gắn với nông nghiệp, có thủ công nghiệp và
tiểu công nghiệp ở nông thôn và ở các thị trấn). Huyện phải có phương hướng
sản xuất nông nghiệp đúng đắn dựa trên điều kiện địa lý tự nhiên và địa lý kinh
tế tương đối thuần nhất. Cấp huyện là cấp trên trực tiếp của cấp cơ sở (cấp
xã), có điều kiện trực tiếp dựa vào xã và nắm sát tình hình của các hợp tác xã
nông nghiệp; là cấp mà từ đây các tổ chức kinh tế của Nhà nước như thương nghiệp
quốc doanh, tổ chức cung cấp vật tư, ngân hàng Nhà nước, xưởng cơ khí, v.v… (hiện
nay những tổ chức này không có ở xã) triển khai hoạt động của mình về nông
thôn. Vì vậy, cấp huyện là cấp chỉ đạo trực tiếp nông nghiệp và thủ công
nghiệp, tiểu công nghiệp trong huyện; là cấp trực tiếp chỉ đạo các tổ chức kinh
tế của Nhà nước ở huyện, phân phố một cách hợp lý nhất các phương tiện, vật tư
kỹ thuật, hàng hóa và tài chính của Nhà nước để chỉ đạo và phục vụ đắc lực sản
xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp, phục vụ đời sống của
nhân dân trong huyện.
Vì các lẽ trên, cấp huyện hiện
nay tuy chưa phải là một cấp quản lý kinh tế toàn diện như cấp tỉnh, nhưng trên
nhiều mặt nó đã thành một cấp quản lý kinh tế.
Đi đôi với sự phát triển kinh tế,
nội dung quản lý kinh tế tài chính của cấp huyện sẽ ngày càng phong phú và phức
tạp lên theo phương hướng trên đây. Đó là một việc tất yếu, và chính vì vậy, cấp
tỉnh cần thấy trước phương hướng của việc phân cấp quản lý kinh tế tài chính
cho huyện, chủ động, tùy theo sự phát triển của từng nơi và từng ngành mà tiến
hành phân cấp quản lý không gò bó quyền hạn của cấp huyện, gây ảnh hưởng không
tốt đến sản xuất, nhưng cũng không làm tràn lan, làm cho việc phân cấp quản lý thoát
ly thực tiễn phát triển của sức sản xuất.
Với vị trí hiện nay, cấp huyện
có nhiệm vụ và quyền hạn:
- Lập kế hoạch và chỉ đạo thực
hiện kế hoạch của huyện, chủ yếu là kế hoạch nông nghiệp, thủ công nghiệp và
tiểu công nghiệp, kế hoạch giao thông vận tải, thương nghiệp, tín dụng…
trong huyện, và chỉ đạo các xã và hợp tác xã lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch.
- Xây dựng dần và trực tiếp quản
lý một số cơ sở vật chất và kỹ thuật (xưởng cơ khí để sản xuất và sửa chữa nông
cụ, xưởng chế biến nông sản, trạm thủy lợi, trạm máy kéo…) tùy theo tình hình
phát triển và đặc điểm của mỗi huyện.
- Chỉ đạo các tổ chức và hoạt động
thương nghiệp, tài chính, ngân hàng phục vụ cho sản xuất và đời sống trong huyện
(cung cấp tư liệu cho nông nghiệp, thu mua, gia công, bán lẻ hàng tiêu dùng,
tín dụng,..)
- Chỉ đạo các tổ chức và hoạt động
văn hóa, xã hội phục vụ nông thôn.
Về quy mô của huyện, trong thời
gian tới, ở đồng bằng và trung du, nhất là ở đồng bằng, trong trường hợp có lợi
rõ ràng và sau khi đã chuẩn bị tốt, cần cạnh mạnh dạn điều chỉnh địa giới của
những huyện nhỏ hoặc gộp lại hai huyện nhỏ ở cạnh nhau vào làm một. Việc điều
chỉnh địa giới của huyện có lợi ích là làm cho cấp huyện có đủ lực lượng kinh tế
để phát triển mạnh mẽ, mặt khác là tạo điều kiện cho bộ máy của cấp huyện được
tăng cường nhiều về chất lượng.
Về khu phố:
Cần căn cứ vào đặc điểm của các
khu phố hiện nay là chuyên sản xuất công nghiệp, giao thông liên lạc thuận lợi,
địa bàn hẹp, dân cư rất tập trung, v.v… mà nghiên cứu và giải quyết việc giao
quyền quản lý kinh tế cho khu phố một cách thật phù hợp với thực tế khách quan,
không nên máy móc, rập khuôn như đối với cấp huyện.
Về cấp xã:
Cấp xã là cấp cơ sở của Đảng
và chính quyền ở nông thôn. Hiện nay phần lớn kinh tế nông thôn đã được hợp
tác hóa, đời sống kinh tế nông thôn trong một xã, từ sản xuất đến lưu thông,
phân phối đều bao gồm trong hoạt động của 3 loại hợp tác xã: hợp tác xã sản xuất
nông nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng (có nơi còn có hợp tác xã
thủ công). Xã là địa bàn kết hợp 3 loại hợp tác xã ấy một cách trực tiếp và thường
xuyên, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy xã và sự quản lý của chính quyền cấp xã.
Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp
là đơn vị sản xuất nông nghiệp cơ sở. Tình hình phổ biến hiện nay là hợp tác xã
quy mô thôn; một xã có 3, 4 hợp tác xã; một số ít hợp tác xã (trên 400) đã lên
quy mô xã. Cấp huyện muốn chỉ đạo trực tiếp nông nghiệp được tốt phải trực
tiếp tìm hiểu tình hình và yêu cầu của hợp tác xã, trực tiếp đưa những phương
tiện vật chất, kỹ thuật và tài chính của Nhà nước vào hợp tác xã để đẩy mạnh sản
xuất nông nghiệp một cách có kế hoạch. Nhưng để lãnh đạo các hợp tác xã, cấp
huyện phải thông qua cấp xã về việc lập quy hoạch và kế hoạch sản xuất nông
nghiệp, về việc chỉ đạo thực hiện các chính sách của Đảng và nhà nước (như thu
mua, thuế, giá cả, điều động nhân lực …), về việc kết hợp các hợp tác xã với
nhau trong xây dựng nông thôn mới.
Cần khẳng định rằng cấp xã, cấp
cơ sở của Đảng và Nhà nước ở nông thôn là một cấp rất quan trọng không thể thiết
và ngày càng cần được củng cố thêm; và chính vì vậy, phải chú ý kiện toàn cấp
xã, làm cho cấp xã ngày càng trở thành chỗ dựa vững chắc của Đảng và Nhà nước ở
nông thôn, thực sự là cấp lãnh đạo kết hợp 3 loại tổ chức kinh tế tập thể ở
trong một xã.
Nhiệm vụ và quyền hạn của
cấp xã là:
- Chỉ đạo các hợp tác xã
trong xã: Chỉ đạo các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp lập kế hoạch sản xuất
và phân phối; chỉ đạo thực hiện kế hoạch ấy; kiểm tra tài vụ và kế toán của các
hợp tác xã; chỉ đạo hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng phục vụ tốt các hợp
tác xã sản xuất nông nghiệp và phục vụ đời sống vật chất và văn hóa của nhân
dân trong xã.
Bảo đảm tôn trọng quyền làm chủ
tập thể của các hợp tác xã và của xã viên.
- Quản lý các công việc chung
của xã: Quản lý các công việc kinh tế và văn hóa, xã hội vượt ra khỏi phạm
vi các hợp tác xã; huy động một phần công sức của nhân dân và quản lý ngân sách
xã để làm những công trình thuộc lợi ích công cộng của xã (đường sá, mương
máng, trường học, y tế…); làm quy hoạch xây dựng nông thôn (thủy lợi, giao
thông…) và chỉ đạo, huy động các thôn, các hợp tác xã phối hợp thực hiện. Đó là
công tác xây dựng nông thôn mới.
Bảo đảm các hợp tác xã và nhân
dân trong xã chấp hành đúng đắn đường lối của Đảng, chính sách của Đảng và
Chính phủ, luật pháp của Nhà nước ở nông thôn; bảo đảm các quyền dân chủ về
kinh tế, chính trị và xã hội của nông dân và những người lao động khác; bảo đảm
các hợp tác xã và nhân dân trong xã làm đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước.
II. NHỮNG
NGUYÊN TẮC VÀ NỘI DUNG CHÍNH CỦA VIỆC PHÂN CẤP QUẢN LÝ KINH TẾ CHO CẤP TỈNH,
THÀNH PHỐ
1. Tình hình
và nhiệm vụ cách mạng hiện nay, phương hướng phát triển nền kinh tế quốc dân, mối
quan hệ giữa kinh tế do trung ương trực tiếp quản lý và kinh tế do địa phương
trực tiếp quản lý và vị trí kinh tế của tỉnh, thành phố đòi hỏi phải, trên
cơ sở tăng cường sự lãnh đạo tập trung và sự quản lý thống nhất của trung ương,
mạnh dạn phân cấp quản lý kinh tế cho các địa phương, trước tiên là cho cấp tỉnh,
thành phố nhằm tạo điều kiện cho nó và đòi hỏi nó chủ động, tích cực quản
lý và phát triển kinh tế địa phương, đẩy mạnh mọi mặt công tác sản xuất, chiến
đấu và phục vụ đời sống tốt nhất trong phạm vi một địa phương (tỉnh, thành phố),
đồng thời làm đầy đủ nghĩa vụ đối với sự nghiệp phát triển và quản lý kinh tế của
cả nước. Đó là yêu cầu khách quan của sự phát triển của nền kinh tế quốc dân
của ta thích ứng với trình độ phân công lao động xã hội và sức sản xuất
trong giai đoạn hiện nay, đồng thời đó cũng là yêu cầu của hoàn cảnh
chiến tranh. Đó là một yêu cầu cấp thiết để kịp thời khắc phục một cách có
hiệu quả tình trạng tập trung quá đáng hiện nay đang làm cho các cơ quan trung
ương dễ sa vào chỗ sự vụ, quan liêu, và hạn chế tính chủ động, sáng tạo của địa
phương.
Phân cấp quản lý kinh tế là quy
định chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý kinh tế của các cấp trong bộ máy
Nhà nước phù hợp với cơ cấu kinh tế quốc dân và vị trí kinh tế của các cấp.
Nền kinh tế càng phát triển,
càng đi sâu vào cách mạng kỹ thuật và phân công lao động xã hội bao nhiêu thì
quản lý nền kinh tế quốc dân càng thống nhất, đồng thời việc phân cấp quản lý
kinh tế càng phải được tiến hành mạnh mẽ bấy nhiêu, tinh vi bấy nhiêu. Phải biết
tùy theo sự phát triền của sức sản xuất, theo yêu cầu của cách mạng trong từng
giai đoạn và sự trưởng thành của địa phương mà kịp thời và đúng mức phân cấp
cho địa phương để vừa phát triển kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa
phương, làm cho nền kinh tế quốc dân phát triển một cách mạnh mẽ, nhịp nhàng và
cân đối.
Phân cấp quản lý kinh tế là sự
thể hiện đúng đắn nguyên tắc và chế độ tập trung dân chủ trong tổ chức
và quản lý kinh tế của Nhà nước xã hội chủ nghĩa ta. Phân cấp quản lý kinh tế
một cách hợp lý và vững chắc là mở rộng dân chủ, phát huy cao độ tính chủ động,
sáng tạo của địa phương dưới sự lãnh đạo tập trung và quản lý thống nhất của
trung ương. Hai mặt này là một thể thống nhất không mâu thuẫn với nhau.
Trong giai đoạn hiện nay, phân cấp quản lý kinh tế có tác dụng rất quan trọng để
phát triển kinh tế quốc dân bao gồm cả kinh tế do trung ương trực tiếp quản lý
và kinh tế do địa phương trực tiếp quản lý.
Tăng cường sự lãnh đạo tập trung
và sự quản lý thống nhất của trung ương có nghĩa là:
- Trung ương thống nhất lãnh đạo
và sự quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nắm vững tính thống nhất vể cơ bản
của nền kinh tế quốc dân trên phạm vi cả nước và bảo đảm cho nó phát triển theo
đúng đường lối của Đảng, chính sách của Đảng và Chính phủ, luật pháp của Nhà nước.
Sự lãnh đạo tập trung và quản lý thống nhất của trung ương thể hiện trong việc
trung ương trực tiếp quyết định và tăng cường quản lý các quy hoạch chung, các
kế hoạch dài hạn và kế hoạch ngắn hạn phát triển kinh tế quốc dân, các chính
sách, chế độ, thể lệ, các tiêu chuẩn và định mức chính, các quy định chung về tổ
chức bộ máy, về quản lý cán bộ.
- Trung ương trực tiếp quản lý
các cơ sở kinh tế chủ yếu, thống nhất quản lý những ngành và những khâu quan trọng
có tác dụng chi phối toàn bộ nền kinh tế quốc dân như công nghiệp nặng, và các
cơ sở công nghiệp nhẹ chủ yếu, giao thông vận tải lớn trên phạm vi cả nước hoặc
trên các khu vực rộng lớn; phân bố sức lao động xã hội, phân phối các vật tư
chiến lược và vật tư chủ yếu; toàn bộ hoạt động ngoại thương; bán buôn các mặt
hàng lưu thông và tiêu thụ trên thị trường toàn quốc hoặc trên những khu vực rộng
lớn; phân phối các nguồn vốn tập trung của Nhà nước, v.v…
- Trung ương đề ra phương hướng,
nhiệm vụ chung cho các địa phương và hướng dẫn, giúp đỡ kinh tế địa phương phát
triển.
Trước mắt trung ương cần dành một
lực lượng thích đáng, nhất là lực lượng cán bộ, để nghiên cứu và chuẩn bị các
quy hoạch và kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế quốc dân sau chiến tranh.
Phân cấp quản lý kinh tế là
giao quyền hạn, đi đôi với việc giao trách nhiệm, giao phương tiện vật chất và
cán bộ cho các cấp chính quyền địa phương để phát huy chức năng quản lý kinh tế
và năng lực sáng tạo của nó, tạo điều kiện cho nó tích cực và chủ động huy
động được tốt nhất sức lực của quần chúng, khai thác một cách nhanh chóng và hợp
lý nhất các tài nguyên của địa phương để xây dựng kinh tế địa phương, cũng như
làm cho nó tham gia tích cực nhất vào việc quản lý nền kinh tế chung và phục vụ
việc xây dựng kinh tế do trung ương quản lý.
Phân cấp quản lý kinh tế phải
được chỉ đạo thống nhất và được tiến hành toàn diện, ăn khớp giữa các mặt, giữa
các ngành (sản xuất, lưu thông, phân phối, tài chính, vật tư, lao động…).
vì có thể mới tạo cho tỉnh, thành phố chủ động xây dựng kinh tế địa phương, tạo
điều kiện cho nó lập và chỉ đạo thực hiện kế hoạch địa phương và ngân sách địa
phương. Để cho tỉnh, thành phố chủ động phát triển kinh tế địa phương, đi đôi với
việc giao quyền quản lý kinh tế và quản lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh, cần
tiến hành gấp việc phân cấp quản lý về các mặt: kế hoạch, tài chính, vật tư (vật
tư kỹ thuật, lương thực, hàng tiêu dùng), lao động, kỹ thuật, tổ chức (bao
gồm cả biên chế, cán bộ), và phạm vi quyền hạn của tỉnh, thành phố trong vấn
đề quy định cụ thể việc áp dụng chính sách của Đảng và Chính phủ, các luật pháp
của Nhà nước tại địa phương.
Trong việc phân cấp quản lý kinh
tế, phải tùy theo đặc điểm kinh tế, kỹ thuật, nghiệp vụ của từng ngành và
trình độ phát triển của các địa phương ở những vùng kinh tế khác nhau mà
quy định nội dung phân cấp cho thích hợp.
Nội dung phân cấp quản lý phải phù
hợp với các đặc điểm và yêu cầu phát triển kinh tế trong cả một giai đoạn, giai
đoạn đầu công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đồng thời, hiện nay nó phải phù hợp
với đặc điểm và yêu cầu của chiến tranh. Do đó, cần phân biệt rõ mặt tạm thời,
trước mắt để đáp ứng yêu cầu của chiến tranh, với mặt cơ bản, lâu dài để chuẩn
bị cho công cuộc xây dựng sau này.
Đi đôi với việc phân cấp, các
ngành ở trung ương phải tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, giúp đỡ địa phương về
mọi mặt. Phải chống tư tưởng bảo thủ, bản vị, tập trung quan liêu, không
dám mạnh dạn phân cấp; hoặc ngược lại phân cấp rồi khoán trắng, gây khó khăn
cho bên dưới, giao cơ sở và giao việc lại không giao phương tiện, cán bộ, không
giúp đỡ và kiểm tra. Về mặt các địa phương, phải đề phòng khuynh hướng chủ nghĩa
địa phương, cục bộ, tự do tản mạn.
2. Căn cứ
vào những nguyên tắc chung nói trên, Nhà nước quy định mối quan hệ giữa Chính
phủ trung ương và chính quyền địa phương như sau:
Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố
có trách nhiệm phát triển kinh tế địa phương và là người trực tiếp quản lý kinh
tế địa phương dưới sự lãnh đạo tập trung và quản lý thống nhất của trung ương,
đồng thời có nhiệm vụ đóng góp vào kinh tế chung, và tham gia quản lý cơ sở
kinh tế do trung ương trực tiếp quản lý nhưng đặt tại địa phương. Chính phủ và
các ngành của Chính phủ có trách nhiệm phát triển và quản lý cả nền kinh tế quốc
dân, trực tiếp quản lý kinh tế trung ương, đồng thời có quyền và có trách nhiệm
lãnh đạo, giúp đỡ địa phương. Đó là mối quan hệ lãnh đạo và bị lãnh đạo, quan hệ
ràng buộc và giúp đỡ lẫn nhau, có trách nhiệm phục vụ lẫn nhau.
Mối quan hệ hữu cơ này thể hiện
trên những mặt chính sau đây:
a) Nhiệm vụ và quyền hạn của
Chính phủ và các ngành trung ương đối với kinh tế do địa phương trực tiếp quản
lý:
- Thống nhất lãnh đạo nền kinh tế
quốc dân trên phạm vi cả nước theo đường lối của Đảng, chính sách của Đảng và
Chính phủ, luật pháp của nhà nước, chỉ đạo và giúp đỡ các địa phương lập quy hoạch([1]), kế hoạch phát triển kinh tế địa
phương và ngân sách địa phương, quyết định các chính sách, chế độ quản lý, các
thể lệ, tiêu chuẩn và định mức áp dụng cho cả kinh tế do trung ương trực tiếp
quản lý, kinh tế do địa phương trực tiếp quản lý; xét duyệt các chỉ tiêu chủ yếu
của kế hoạch và ngân sách địa phương.
- Chỉ đạo về kỹ thuật và nghiệp
vụ.
- Cung cấp các thiết bị, nguyên
liệu, vật liệu và vốn do Nhà nước thống nhất quản lý; quy định nhiệm vụ địa
phương phải cung cấp nhân lực, vật lực, tài lực cho nhu cầu của trung ương và
các địa phương khác theo kế hoạch Nhà nước.
- Đào tạo, bồi dưỡng và cung cấp
cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý tốt nghiệp các trường đại học và một phần cán bộ
tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp cho địa phương.
- Quyết định nguyên tắc và
phương hướng chung về tổ chức bộ máy, biên chế và quản lý cán bộ của địa
phương.
- Theo dõi tình hình xây dựng
kinh tế địa phương, giám đốc việc thực hiện kế hoạch và ngân sách Nhà nước, và
kiểm tra việc chấp hành các chính sách, chế độ, thể lệ của nhà nước và các tiêu
chuẩn, và định mức kinh tế kỹ thuật do Chính phủ trung ương ban hành.
b) Nhiệm vụ và quyền hạn của
cấp tỉnh, thành phố đối với nền kinh tế chung của cả nước và đối với các xí
nghiệp do các ngành trung ương trực tiếp quản lý.
Nhiệm vụ của tỉnh, thành phố đối
với nền kinh tế chung của cả nước là: cung cấp những sản phẩm do nông
nghiệp và công nghiệp địa phương sản xuất; động viện và cung cấp lao động cho
nhu cầu chung theo kế hoạch Nhà nước; tham gia vào việc quản lý tài chính Nhà
nước ở địa phương, thực hiện việc thu cho ngân sách nhà nước và đóng góp một phần
nguồn thu của kinh tế địa phương cho ngân sách trung ương theo chế độ tài chính
chung. Cụ thể là:
- Đối với các xí nghiệp trung
ương hoạt động trong địa phương mình, tỉnh, thành phố có nhiệm vụ và có quyền
kiểm tra về mặt chấp hành chính sách, chế độ, thể lệ chung của Nhà nước và các
thể lệ của địa phương.
- Tham gia ý kiến vào việc thiết
lập, mở rộng, thu hẹp, bãi bỏ, di chuyển các đơn vị ấy nếu những việc này có
liên quan đến tình hình chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa của địa phương, đến
tình hình sức khỏe và đời sống của nhân dân địa phương.
- Cung cấp nhân lực, vật lực
theo đúng chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước cho các đơn vị ấy và giúp đỡ nó về bảo vệ
trật tự, an ninh, phòng không, sơ tán, bàn bạc với các đơn vị ấy để tạm thời điều
động và sử dụng nhân lực của xí nghiệp khi bị địch đánh phá mà phải ngừng hay
thu hẹp sản xuất.
- Bàn bạc với các đơn vị ấy để tận
dụng mọi khả năng vật chất và kỹ thuật của đơn vị (kể cả phế liệu, phế phẩm
không thuộc loại Nhà nước thống nhất quản lý ) nhằm phục vụ kinh tế và đời sống
của nhân dân địa phương.
- Tham gia ý kiến vào việc sử dụng
quỹ xí nghiệp và các quỹ phúc lợi tập thể; cùng với thủ trưởng đơn vị chăm lo đời
sống công nhân, viên chức của đơn vị.
Ngoài ra, Chính phủ và Bộ có thể
tạm ủy quyền quản lý các xí nghiệp của trung ương cho Ủy ban hành chính
tỉnh, thành phố tùy theo tình hình cụ thể của các địa phương.
c) Nhiệm vụ và quyền hạn của
cấp tỉnh, thành phố đối với kinh tế địa phương.
Dưới sự lãnh đạo tập trung và thống
nhất của Chính phủ, các tỉnh, thành phố thống nhất lãnh đạo và quản lý mọi công
việc trong địa phương mình, xây dựng và quản lý kinh tế địa phương, và chịu
trách nhiệm về toàn bộ công tác của mình trước Hội đồng Chính phủ.
Như luật pháp đã quy định, nội
dung chủ yếu của nhiệm vụ và quyền hạn của cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương là:
- căn cứ vào đường lối của Đảng,
chính sách của Đảng và Chính phủ, vảo kế hoạch Nhà nước; quyết định kế hoạch
phát triển kinh tế, văn hóa và những sự nghiệp lợi ích công cộng của địa
phương; và quyết định các chủ trương công tác khác của địa phương, để phát huy
mọi khả năng của địa phương nhằm bảo đảm thực hiện những nhiệm vụ chung của Nhà
nước ở địa phương và không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân địa phương.
- Xét duyệt dự toán và phê
chuẩn quyết toán ngân sách của tỉnh, thành phố; quyết định các khoản thu cho
ngân sách địa phương theo quy định của luật pháp.
- Căn cứ vào pháp luật của
Nhà nước, ban hành những quy định về trật tự trị an, về vệ sinh chung và những
quy định về các vấn đề khác của tỉnh, thành phố.
Để cho cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương thực sự thi hành được quyền hạn và nhiệm vụ này của mình, vấn
đề quan trọng bậc nhất hiện nay là quy định cụ thể phạm vi trách nhiệm và quyền
hạn của các ngành trung ương và trách nhiệm, quyền hạn của địa phương trong việc
quản lý từng ngành kinh tế.
3. Cải tiến
kế hoạch hóa kinh tế địa phương:
Nội dung phân cấp quản lý kinh tế
cho cấp tỉnh, thành phố phải thể hiện trên công tác kế hoạch hóa nền
kinh tế quốc dân. Vì thế, phải căn cứ vào trách nhiệm và quyền hạn của Chính phủ,
của các Bộ, Tổng cục đối với kinh tế địa phương và theo chức năng, nhiệm vụ quản
lý kinh tế của cấp tỉnh, thành phố mà cải tiến và tăng cường công tác kế hoạch
hóa kinh tế địa phương nhằm kết hợp tốt hơn nữa việc kế hoạch hóa tập trung
từ trung ương với việc mở rộng quyền chủ động của các địa phương trong việc xây
dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch của từng địa phương:
a) Căn cứ vào đường lối, phương
hướng và nhiệm vụ phát triển kinh tế và văn hóa của Đảng và Chính phủ, xuất
phát từ yêu cầu của trung ương và của địa phương, dựa vào lực lượng của bản
thân và khả năng do trung ương cung cấp, tỉnh và thành phố có trách nhiệm đề ra
phương hướng và nhiệm vụ phát triển kinh tế và văn hóa của mình, xây dựng kế hoạch
kinh tế địa phương nhằm giải quyết đến mức cao nhất nhu cầu về sản xuất, chiến
đấu và đời sống trong địa phương, và đóng góp ngày càng nhiều vào nền kinh tế
chung của cả nước.
Nhà nước thông qua phương hướng
và nhiệm vụ của kế hoạch địa phương (trên các mặt chủ yếu: phương hướng sản
xuất nông nghiệp và công nghiệp địa phương, phương hướng đầu tư cơ bản) và giao
cho địa phương một số chỉ tiêu pháp lệnh.
b) Hệ thống chỉ tiêu pháp
lệnh trong kế hoạch địa phương do Nhà nước duyệt:
Về nông nghiệp:
- Sản lượng lương thực quy ra
thóc, số lượng nông sản chủ yếu mà Nhà nước thu mua, và phần trung ương điều
đi.
- Các tư liệu sản xuất nông nghiệp
chủ yếu do trung ương cung cấp cho địa phương.
Hiện nay, Nhà nước còn duyệt và
giao các chỉ tiêu pháp lệnh sau đây:
- Sản lượng lương thực quy ra
thóc;
- Sản lượng các loại cây công
nghiệp, cây ăn quả chủ yếu;
- Diện tích trồng mới một số cây
công nghiệp (dài ngày và ngắn ngày, có liên quan đến quy hoạch, kế hoạch của
các ngành khác);
- Số lượng đàn gia súc lớn và sản
lượng thịt lợn;
- Sản lượng cá nuôi;
- Các biện pháp kỹ thuật chủ yếu
(giống, phân bón; v.v.)
Về lâm nghiệp:
- Diện tích trồng cây gây rừng
theo quy hoạch của Nhà nước;
- Diện tích tu bổ rừng, cải tạo
rừng, nuôi rừng;
- Số lượng giống cây để trồng rừng
do trung ương điều đi.
Về công nghiệp:
- Sản lượng các sản phẩm chủ yếu;
- Số lượng một số sản phẩm chủ yếu
do trung ương điều đi (có ghi rõ phần để xuất khẩu)
Về vận tải:
- Khối lượng hàng hóa do địa
phương tiếp chuyển và vận chuyển cho trung ương;
- Khối lượng hàng hóa do trung
ương vận chuyển cho địa phương.
Về xây dựng cơ bản:
- Tổng mức vốn đầu tư cơ bản (có
ghi rõ vốn do trung ương trợ cấp);
- Danh mục các công trình chủ yếu
có liên quan đến sự giúp đỡ của trung ương (có ghi thời gian khởi công và huy động
công suất).
Về thương nghiệp:
- Tổng mức lưu chuyển hàng hóa
bán lẻ trên thị trường có tổ chức và số lượng một số hàng bán lẻ chủ yếu;
- Số lượng hàng hóa do trung
ương cung cấp cho địa phương;
- Số lượng lương thực, thực phẩm,
nông sản chủ yếu, hàng công nghiệp Nhà nước thu mua (có ghi rõ phần trung ương
điều đi);
- Số lượng một số sản phẩm công
nghiệp và nông sản chủ yếu cung cấp cho xuất khẩu;
Về vật tư kỹ thuật:
- Tổng số các vật tư kỹ thuật chủ
yếu do Nhà nước cung cấp; kim khí, gỗ tròn, xi – măng, nhiên liệu.
- Số lượng các máy móc, thiết bị
lẻ do Nhà nước cung cấp.
Về lao động – tiền lương:
- Tổng quỹ tiền lương;
- Tổng số lao động cần điều động
cho nhu cầu cả nước: tuyển quân, tuyển sinh, cung cấp nhân lực cho các ngành
trung ương.
Trước mắt do tình hình sức lao động
còn có nhiều biến động, biên chế cần được tinh giản, sự phân bổ sức lao động cần
được điều chỉnh kịp thời, Nhà nước còn duyệt chỉ tiêu tổng số công nhân, viên
chức trong biên chế của địa phương.
Về đào tạo cán bộ, công nhân
kỹ thuật:
- Số cán bộ tốt nghiệp các trường
đại học và trung học do trung ương phân phối cho địa phương;
- Số công nhân kỹ thuật do các
ngành ở trung ương có trách nhiệm đào tạo cho địa phương;
c) Nhiệm vụ và quyền hạn của
Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, các Bộ, Tổng cục đối với kế hoạch của tỉnh, thành phố:
1. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước có
nhiệm vụ:
- Hướng dẫn tỉnh, thành phố xây
dựng các quy hoạch dài hạn, kế hoạch 5 năm và hàng năm về phát triển kinh tế và
văn hóa trong địa phương.
- Tổng hợp và cân đối dự án kế
hoạch dài hạn và ngắn hạn của các địa phương, trong đó có phần kế hoạch của các
ngành trung ương đối với kinh tế địa phương để báo cáo Chính phủ quyết định và
đề nghị việc phối hợp hoạt động của các ngành ở trung ương để thúc đẩy việc xây
dựng kinh tế địa phương.
- Truyền đạt nhiệm vụ và các chỉ
tiêu pháp lệnh của kế hoạch đã được Chính phủ quyết định cho các tỉnh, thành phố.
- Theo dõi tình hình phát triển
kinh tế địa phương để đề nghị kịp thời việc điều chỉnh nhiệm vụ kế hoạch giao
cho địa phương khi cần thiết.
- Hướng dẫn về nghiệp vụ và bồi
dưỡng cán bộ làm công tác kế hoạch cho các địa phương,
2. Các Bộ, Tổng cục là cơ quan tổng
hợp kế hoạch toàn ngành, trong đó có phần do ngành ở trung ương trực tiếp
quản lý và phần kế hoạch của các địa phương; tùy tính chất từng ngành, sẽ có
quy định trách nhiệm cụ thể.
Các Bộ, Tổng cục có trách nhiệm
củng Ủy ban Kế hoạch Nhà nước hướng dẫn các địa phương xây dựng các quy hoạch
và kế hoạch địa phương; tham gia xét duyệt kế hoạch kinh tế địa phương và theo
dõi, chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương thực hiện kế hoạch về phần thuộc phạm vi
quản lý của mỗi Bộ, mỗi Tổng cục.
3. Các ngành trung ương phải
thông báo trước cho tỉnh, thành phố về các hoạt động kinh tế của mình ở địa
phương và phải tiến hành ký hợp đồng kịp thời để tỉnh, thành phố có căn
cứ bố trí kế hoạch cụ thể của địa phương.
Trong trường hợp các yêu cầu của
ngành trung ương đối với kinh tế địa phương có những thay đổi lớn, có thể gây những
sự mất cân đối (về vật tư, hàng hóa, nhân lực, tiền tệ, v.v…) trong kế hoạch địa
phương, thì ngành ấy phải chủ động phối hợp với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước để bàn
bạc với địa phương và thi hành những biện pháp thích hợp nhằm khắc phục những sự
mất cân đối đó, hoặc đề nghị Chính phủ điều chỉnh nhiệm vụ kế hoạch của tỉnh,
thành phố.
4. Phân cấp
quản lý tài chính và cải tiến việc xây dựng, quản lý ngân sách địa phương.
Dưới sự quản lý thống nhất của
Chính phủ, phải tăng cường chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ quản lý tài chính
của chính quyền cấp tỉnh, thành phố đối với toàn bộ các cơ sở và hoạt động kinh
tế, văn hóa, xã hội do địa phương quản lý, tăng cường quyền kiểm tra, giám đốc
tài chính các tỉnh, thành phố đối với những xí nghiệp, công trường do các ngành
trung ương quản lý nằm ở cạnh địa phương, và định rõ quyền làm chủ của tỉnh,
thành phố đối với ngân sách địa phương.
Mỗi tỉnh, thành phố có ngân sách
của mình (gọi là ngân sách địa phương); nó là một bộ phận hợp thành của ngân
sách Nhà nước, trong đó ngân sách trung ương là chủ đạo. Chính quyền địa phương
làm chủ ngân sách địa phương là thể hiện việc làm chủ kế hoạch phát triển
kinh tế địa phương, làm chủ các công việc của địa phương. Vì vậy, trung ương phải
chuyển về cho chính quyền địa phương quản lý vốn và quản lý những vật tư kỹ thuật
cần thiết để thực hiện các nhiệm vụ sản xuất, xây dựng, chiến đấu và cải thiện
đời sống trong địa phương; đồng thời trung ương giao cho địa phương quản lý những
nguồn thu có thể bảo đảm nhu cầu chi bình thường của địa phương; các nguồn
thu ấy chủ yếu là từ các cơ sở kinh tế do địa phương quản lý. Chính quyền
địa phương chủ động sắp xếp cân đối thu chi ngân sách, nhằm bảo đảm cho kinh
tế địa phương phát triển với tốc độ nhanh, phù hợp nhất với đặc điểm. khả năng
và yêu cầu của địa phương, và với yêu cầu chung của cả nước.
Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố
phải nghiêm chỉnh chấp hành các chính sách, chế độ, thể lệ quản lý tài chính,
các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật, định mức vật tư, lao động, tiền vốn do trung
ương ban hành.
Chính quyền địa phương có trách
nhiệm quản lý tài vụ các ngành và xí nghiệp quốc doanh địa phương, và kiểm tra
tài vụ của khu vực kinh tế tập thể.
Đối với những xí nghiệp cơ quan,
công trường của trung ương hoạt động tại địa phương cũng như những việc trung
ương tiến hành ở địa phương, Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố có quyền kiểm
tra về tài chính (trừ trường hợp có quy định đặc biệt), nhằm mục đích thúc đẩy
các xí nghiệp, cơ quan, công trường đó thực hiện đầy đủ kế hoạch Nhà nước và
thi hành chế độ tiết kiệm, do đó thực hiện đầu đủ kế hoạch nộp cho ngân sách
Nhà nước, ngăn ngừa những việc chi tiêu trái với chế độ của Nhà nước.
5. Về các mặt
phân cấp quản lý lao động, quản lý vật tư, quản lý kỹ thuật, các ngành quản
lý kinh tế ở trung ương phải căn cứ vào những nghị quyết của Chính phủ đã ban
hành và vào tinh thần của nghị quyết phân cấp quản lý kinh tế này, căn cứ vào đặc
điểm kinh tế, kỹ thuật của mỗi ngành mà quy định cụ thể điều lệ phân cấp của
ngành.
6. Hội
đồng Chính phủ giao cho các Bộ và Tổng cục, trước tiên là các ngành kinh tế, phải
khẩn trương xây dựng điều lệ phân cấp của mỗi ngành để trình Hội đồng Chính phủ
duyệt và ban hành vào đầu năm 1968. Mỗi ngành sẽ căn cứ vào điều lệ này mà bàn
giao cụ thể công tác, cơ sở, tổ chức và cán bộ cho tỉnh, thành phố, và hết sức
giúp đỡ tỉnh, thành phố tiếp nhận và quản lý tốt.
III. TĂNG
CƯỜNG MỘT BƯỚC BỘ MÁY QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA CẤP TỈNH, THÀNH PHỐ ĐỂ BẢO ĐẢM THỰC
HIỆN VIỆC PHÂN CẤP QUẢN LÝ.
Để thực hiện việc phân cấp quản
lý kinh tế cho cấp tỉnh, thành phố, cần tăng cường bộ máy quản lý của cấp này một
cách thiết thực và vững chắc. Theo tinh thần đó, Hội đồng Chính phủ đề ra các
biện pháp lớn sau đây để các tỉnh, thành phố căn cứ vào đó mà bố trí bộ máy của
mình.
1. Tăng cường
năng lực quản lý của Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố:
Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố
là “cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực – Hội đồng nhân dân – địa phương,
là cơ quan hành chính của Nhà nước ở địa phương “. Đó là cơ quan chính
quyền có trách nhiệm quản lý toàn diện, tập trung và thống nhất công việc của địa
phương; nó cần được tăng cường thích đáng về mọi mặt, và trước tiên là các mặt
sau đây:
- Tăng cường quyền hạn và các
phương tiện cho Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố.
- Tăng cường sự lãnh đạo của
tỉnh ủy, thành ủy nhằm phát huy năng lực quản lý mọi mặt công tác, nhất là về
quản lý kinh tế của Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố.
- Định ra chế độ sinh hoạt của hội
nghị thường vụ Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố. Thành phần của hội nghị
thường vụ Ủy ban hành chính gồm chủ tịch, các phó chủ tịch và ủy viên thư ký của
Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố. Giữa hai kỳ họp của Ủy ban hành chính, hội
nghị thường vụ Ủy ban hành chính được giao quyền giải quyết công việc thường
xuyên của Ủy ban hành chính.
2. Tăng cường
các cơ quan chuyên môn của địa phương:
Về vị trí, chức năng của
các cơ quan chuyên môn ở địa phương.
Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố
quản lý tập trung thống nhất mọi công việc của địa phương thông qua các
cơ quan chuyên môn của tỉnh, thành phố và Ủy ban hành chính cấp dưới. Cần xác định
rõ ràng: các ngành chuyên môn ở tỉnh, thành phố là cơ quan chuyên môn của Ủy
ban hành chính, là công vụ của Ủy ban hành chính để thực hiện các nhiệm vụ công
tác của chính quyền địa phương.
Vì vậy, đi đôi với việc tăng cường
Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố, cần tăng cường các cơ quan chuyên môn ở cấp
này bằng cách đưa những cán bộ tốt, có trình độ chuyên môn khá và có kinh
nghiệp về quản lý kinh tế tài chính giữ chức vụ phụ trách các cơ quan ấy.
Thủ trưởng ngành ở trung ương có
trách nhiệm quản lý công tác của ngành mình trên phạm vi cả nước, mà một phần rất
lớn công việc lại được thực hiện ở địa phương, do Ủy ban hành chính và các cơ
quan chuyên môn địa phương trực tiếp phụ trách. Cơ quan chuyên môn này là cơ
quan của Ủy ban hành chính và phải phục tùng sự lãnh đạo tập trung, thống nhất
của Ủy ban hành chính. Như vậy, Ủy ban hành chính có trách nhiệm quản lý mọi mặt
công tác ở địa phương, nhưng mỗi mặt công tác ở địa phương không thể tách rời
công việc chung của cả nước. Vì những lẽ đó, về nguyên tắc, mối quan hệ tổ chức
giữa trung ương và địa phương được quy định như sau;
- Ủy ban hành chính phải phục
tùng sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của trung ương, tức là của Hội đồng
Chính phủ về mọi mặt, và chịu sự chỉ đạo của các ngành của trung ương (Bộ, Tổng
cục) về thực hiện chủ trương, chính sách, về kế hoạch, và về nghiệp vụ, kỹ thuật
của từng ngành.
- Cơ quan chuyên môn ở tỉnh,
thành phố chịu sự lãnh đạo của ủy ban hành chính về mọi mặt: chủ trương và
kế hoạch công tác, chính trị, tư tưởng, tổ chức, và cả kỹ thuật, nghiệp vụ, và chịu
sự chỉ đạo và hướng dẫn của ngành chủ quản ở trung ương về nghiệp vụ, kỹ thuật.
Quan hệ ngang, dọc giữa trung
ương và cấp tỉnh, thành phố nói chung về nguyên tắc là như vậy. Nhưng phạm vi
và mức độ quan hệ đó có khác nhau đối với các ngành chuyên môn khác nhau, không
thể máy móc, rập khuôn như nhau. Có những ngành (như nông nghiệp, công nghiệp,
giao thông vận tải, thương nghiệp…) là cơ quan chuyên môn của Ủy ban hành
chính địa phương, chịu sự chỉ đạo về nghiệp vụ, kỹ thuật của ngành chủ quản
ở trung ương. Những ngành như chi nhánh ngân hàng Nhà nước, chi nhánh ngân hàng
kiến thiết, chi cục vật tư…, thuộc hệ thống dọc, hạch toán toàn ngành; các
chi nhánh, chi cục này trực thuộc sự lãnh đạo và quản lý của các ngành ở trung
ương, đồng thời chịu sự giám sát và kiểm tra của chính quyền tỉnh, thành phố.
Mối quan hệ chặt chẽ giữa các
ngành ở trung ương với các địa phương có khác nhau tùy theo từng ngành, tùy
theo từng loại việc và sẽ biến đổi tủy theo sự phát triển triển của công việc.
Hiện nay, căn cứ vào những điều xác định trên đây, các ngành ở trung ương phải
quy định những mối quan hệ công tác này ở trong điều lệ phân cấp của mỗi ngành
để tránh va vấp hoặc làm chậm công việc.
Về cơ cấu tổ chức các
ngành chuyên môn ở tỉnh, thành phố:
Tổ chức là hình thức để bảo đảm
nội dung quản lý, bảo đảm công việc, mà nội dung và khối lượng công việc lại
không đồng đều ở các tỉnh, vì mỗi tỉnh có đặc điểm riêng của nó; cho nên tổ chức
bộ mày chuyên môn ở cấp tỉnh, thành phố phải linh hoạt, không thể rập khuôn như
nhau tất cả, mà phải do Ủy ban hành chính quyết định cụ thể, dưới sự chỉ đạo và
hướng dẫn của Hội đồng Chính phủ và các ngành ở trung ương.
Hiện nay cơ cấu tổ chức các
ngành chuyên môn ở cấp tỉnh, thành phố chưa thực phù hợp với chức năng nhiệm vụ
của nó là đi sâu vào quản lý kinh tế, quản lý kỹ thuật, quản lý sản xuất và
kinh doanh. Vì vậy, đi đôi với việc mạnh dạn phân cấp quản lý cho tỉnh, thành
phố, cần cải tiến cơ cấu của các ngành chuyên môn ở tỉnh, thành phố theo
hướng: về quản lý kinh tế chung, cần kiện toàn các cơ quan chuyên môn có
trách nhiệm giúp Ủy ban hành chính quản lý tổng hợp và nghiên cứu toàn diện những
vấn đề của địa phương; về kỹ thuật, tỉnh, thành phố cần có những tổ chức
để nghiên cứu và chỉ đạo kỹ thuật; về kinh doanh, cần dần dần thành lập
các công ty theo ngành đối với những ngành mà địa phương có nhiều xí nghiệp; ở
những ngành có ít xí nghiệp, thì trước mắt không tổ chức công ty, mà các trưởng
ty trực tiếp chỉ đạo xí nghiệp.
Để làm được những việc này,
không thể nhất loạt tăng cường tất cả các cơ quan chuyên môn ở địa phương trong
một thời gian ngắn, mà phải tăng cường và kiện toàn có trọng điểm, trước hết
là tăng cường các cơ quan quản lý sản xuất chủ yếu của địa phương (như nông
nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải), các tổ chức cung cấp vật tư và thương
nghiệp, và các cơ quan quản lý tổng hợp (như Ủy ban Kế hoạch, tài chính,
lao động, thống kê).
Sau đây là những phương hướng tổ
chức của một số ngành quan trọng nhất của mỗi địa phương:
a) Về tổ chức bộ máy quản
lý nông nghiệp và công nghiệp của địa phương:
Đối với các tỉnh, từ tỉnh xuống
đến cơ sở, trong giai đoạn hiện nay, phải coi bộ máy quản lý nông nghiệp
là rất trọng yếu, toàn bộ sự quản lý của địa phương đều nhằm phục vụ sản xuất
nông nghiệp; đồng thời, cấp tỉnh cần nhận thức rõ rằng muốn đẩy nông nghiệp tiến
lên và giúp cho cấp huyện chỉ đạo tốt sản xuất nông nghiệp, thì phải phát triển
mạnh mẽ công nghiệp địa phương và rất coi trọng kiện toàn bộ máy quản lý công
nghiệp;
Đối với các thành phố và khu
công nghiệp; thì bộ máy quản lý công nghiệp là trọng yếu bậc nhất, toàn bộ sự
quản lý của thành phố phải nhằm trọng tâm phục vụ sản xuất công nghiệp, đồng thời,
phải thấy rằng ở đây có rất nhiều khả năng huy động công nghiệp tác động mạnh mẽ
đến nông nghiệp và đầy nông nghiệp tiến lên nhanh chóng để phục vụ đắc lực công
nghiệp.
Vì những lẽ đó, ở cấp tỉnh;
thành phố, cũng như ở cấp huyện, cấp xã, Ủy ban hành chính phải trực tiếp quản lý
toàn diện sản xuất nông nghiệp và công nghiệp bằng cách thường xuyên kết hợp
nhiều ngành công tác để phục vụ nông nghiệp và công nghiệp. Ủy ban hành chính
phải thường xuyên chỉ đạo hai mặt trận sản xuất chủ yếu này.
b) Để giúp Ủy ban hành
chính tỉnh, thành phố quản lý tốt nông nghiệp và công nghiệp của tỉnh, thành phố,
các cơ quan chuyên môn về nông nghiệp, công nghiệp ở mỗi tỉnh, thành phố phải
được cải tiến và tăng cường đúng với chức năng của nó và phù hợp điều kiện địa
lý kinh tế của mỗi địa phương. Nói chung để quản lý được tốt sản xuất
nông nghiệp, công nghiệp địa phương, tổ chức bộ máy của các ngành này nêu như
sau:
- Về bộ máy quản lý nông nghiệp
ở địa phương:
Bộ máy quản lý nông nghiệp ở địa
phương có một vị trí đặc biệt quan trọng: nó quản một mặt trận sản xuất chủ
yếu của địa phương. Nhưng hiện nay nó chưa được tăng cường đúng mức và tổ
chức của nó nặng về quản lý hành chính, chưa phù hợp với yêu cầu và nội dung mới
của quản lý nông nghiệp.
Vì vậy cần tăng cường thích đáng
bộ máy này để nó có thể giúp Ủy ban hành chính một cách rất đắc lực trong việc
chỉ đạo mọi mặt về trồng trọt và chăn nuôi của địa phương.
Phương hướng tăng cường bộ máy
này là:
- Ủy ban hành chính trực tiếp
lãnh đạo mặt trận nông nghiệp, trực tiếp lãnh đạo sở, ty nông nghiệp và các cơ
quan khác thuộc hệ thống tổ chức lãnh đạo sản xuất nông nghiệp;
- Tăng cường và cải tiến bộ máy
quản lý trồng trọt và chăn nuôi để đảm bảo làm 5 nhiệm vụ sau đây:
1. Tổ chức chỉ đạo sản xuất nông
nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi).
2. Tổ chức nghiên cứu áp dụng
khoa học kỹ thuật nông nghiệp và đào tạo cán bộ;
3. Tổ chức cung cấp vật tư kỹ
thuật (có phần do ty nông nghiệp quản lý, có phần do ty thương nghiệp quản lý).
4. Tổ chức quản lý các cơ sở quốc
doanh kinh doanh nông nghiệp của địa phương.
5. Tổ chức chỉ đạo việc quản lý
hợp tác xã.
- Tăng cường cơ quan quản lý sản
xuất nông nghiệp của tỉnh, thành phố (ty, sở nông nghiệp) để phục trách 4 nhiệm
vụ 1, 2, 3, 4; lập ra cơ quan chỉ đạo việc tổ chức và quản lý hợp tác xã để phụ
trách nhiệm vụ 5.
- Tăng cường tổ chức xuống đến
cơ sở, sát với hợp tác xã và phục vụ đắc lực hợp tác xã, đặc biệt là các trạm,
trại nghiên cứu kỹ thuật cắm ở những khu vực khác nhau, các cửa hàng phân phối
tư liệu sản xuất, mạng lưới thú y.
Sở, ty nông nghiệp là cơ quan
chuyên môn trực thuộc Ủy ban hành chính tỉnh, thành phố, có nhiệm vụ giúp Ủy
ban hành chính quản lý toàn bộ công việc trồng trọt và chăn nuôi của địa
phương.
Trong sở, ty này, tùy theo điều
kiện địa lý kinh tế nông nghiệp và tình hình phát triển nông nghiệp của từng địa
phương mà tổ chức ra các ban hay phòng chuyên trách về các ngành trồng trọt,
chăn nuôi, thú y (chuyên môn hóa dần theo các loại cây trồng và các loại gia
súc chính) và về các mặt như quản lý kế hoạch, quản lý kinh doanh, khoa học, kỹ
thuật, đào tạo cán bộ, cung cấp vật tư, v.v…
Cần cử cán bộ có năng lực về
lãnh đạo sản xuất nông nghiệp phụ trách sở, ty này, và cử các cán bộ có trình độ
chuyên môn khá đồng thời có kinh nghiệm về chỉ đạo sản xuất phụ trách các ban
và phòng của ty này.
Về bộ máy nông nghiệp của cấp
huyện và cấp xã, Bộ Nông nghiệp cùng với Ban Nông nghiệp nghiên cứu, làm thí điểm
ở một vài huyện thuộc các vùng khác nhau rồi tổng kết và báo cáo thường vụ
Chính phủ xét.
Về bộ máy quản lý công
nghiệp địa phương:
Hiện nay, bộ máy quản lý công
nghiệp địa phương ở các tỉnh, thành phố còn nặng về quản lý hành chính, chưa đi
sâu vào quản lý kinh doanh, và còn rất yếu so với yêu cầu phát triển công nghiệp
địa phương. Việc tổ chức riêng sở thủ công nghiệp là không thích hợp, không thuận
tiện cho việc thống nhất lãnh đạo, quy hoạch các ngành nghề, phân công sản xuất
và hỗ trợ lẫn nhau trong nội bộ ngành nghề. Hiện nay các địa phương có chú ý
khu vực công nghiệp quốc doanh, nhưng ít chú ý khu vực thủ công nghiệp tập thể
và nghề phụ.
Phương hướng tăng cường bộ máy
quản lý công nghiệp địa phương là:
- Ủy ban hành chính trực tiếp
lãnh đạo mặt trận công nghiệp, trực tiếp lãnh đạo cục, ty công nghiệp và các cơ
quan khác thuộc hệ thống tổ chức quản lý công nghiệp.
- Tăng cường và cải tiến bộ máy
quản lý công nghiệp đủ sức quản lý toàn diện cả quốc doanh, thủ công nghiệp, tiểu
công nghiệp tập thể và nghề phụ gia đình, quản lý cả về mặt hành chính, kinh tế,
kỹ thuật, kinh doanh và làm các nhiệm vụ sau đây:
1. Tổ chức chỉ đạo sản xuất công
nghiệp (bao gồm cả quốc doanh và hợp tác xã) về mặt quy hoạch, kế hoạch, chính
sách, chế độ…
2. Tổ chức chỉ đạo quản lý kinh
doanh thuộc khu vực quốc doanh.
3. Tổ chức chỉ đạo khu vực tập
thể.
4. Tổ chức nghiên cứu khoa học,
kỹ thuật công nghiệp và đào tạo cán bộ.
Ngoài các tổ chức này thuộc bộ
máy quản lý công nghiệp, còn phải tăng cường tổ chức cung cấp vật tư kỹ thuật
thuộc hệ thống chi cục vật tư và công ty thương nghiệp cấp 2 như Chính phủ đã
quy định.
- Cử những cán bộ có năng lực về
lãnh đạo sản xuất công nghiệp phụ trách các cục, ty công nghiệp của địa phương
vì đây là cơ quan quản lý một mặt trận sản xuất chủ yếu của địa phương.
- Đối với khu vực quốc doanh, dần
dần nên tổ chức ra một số công ty chuyên doanh theo ngành thuộc các cục, ty
công nghiệp ở các thành phố và tỉnh có công nghiệp phát triển, như: công ty cơ
khí, công ty chế biến nông sản…. Ở những tỉnh công nghiệp còn ít, các xí nghiệp
vẫn để trực thuộc các ty công nghiệp.
- Đối với khu vực kinh tế tập thể,
Nhà nước quản lý chủ yếu bằng các chính sách, chế độ, bằng kế hoạch hóa, thông
qua các biện pháp kinh tế, tài chính (như cung cấp thiết bị, vật tư, thu mua,
gia công, cho vay…) và bằng cách hướng dẫn kỹ thuật, hướng dẫn tổ chức và quản
lý.
- Việc quản lý trực tiếp các tổ chức
kinh tế tập thể do cơ quan được quần chúng thiết lập và được nhà nước công nhận
đảm nhiệm. Vì vậy cần kiện toàn cơ quan liên hiệp hợp tác xã thủ công nghiệp,
tiểu thủ công ngihệp, tiểu công nghiệp của các tỉnh, thành phố để giúp cấp
tỉnh, thành phố trực tiếp quản lý các ngành và các cơ sở thủ công nghiệp, tiểu
công nghiệp ở địa phương. Dựa vào tổ chức này, chính quyền địa phương có thể quản
lý chặt chẽ và thúc đẩy tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp phát triển theo
đúng kế hoạch của địa phương, đồng thời đề cao được vai trò làm chủ tập thể,
tinh thần tự lực cánh sinh và trách nhiệm về mọi mặt của hợp tác xã và của xã
viên đối với việc xây dựng nền kinh tế tập thể.
Về Ủy ban kế hoạch và các cơ
quan tổng hợp khác của địa phương :
Do phạm vi trách nhiệm xây dựng
và quản lý kinh tế của tỉnh, thành phố càng mở rộng, và để giúp Ủy ban
hành chính tổng hợp tình hình và xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, phát triển
văn hóa của địa phương, cần tăng cường Ủy ban Kế hoạch tỉnh, thành phố, nâng
cao năng lực của Ủy ban kế hoạch tỉnh, thành phố trong việc nghiên cứu phương
hướng phát triển kinh tế địa phương và cùng các ngành nghiên cứu các quy hoạch
của địa phương; tổng hợp kế hoạch của các ngành trong tỉnh và của các huyện
thành kế hoạch dài hạn và kế hoạch hàng năm của địa phương (trong khi tổng hợp
kế hoạch của địa phương, phải chú ý đầy đủ đến các yêu cầu về lao động và vật
tư của các đơn vị kinh tế của trung ương hoạt động tại địa phương), và phục vụ
sự chỉ đạo thực hiện kế hoạch trong địa phương được nhạy bén. Trước mắt cần kiện
toàn những bộ phận làm kế hoạch xây dựng cơ bản, vật tư, lao động là những bộ
phận hiện đang rất yếu, và phải chú ý đúng mức đến việc tăng cường các bộ phận
làm kế hoạch của các sở, ty và các huyện.
Đi đôi với việc tăng cường Ủy
ban kế hoạch tỉnh, thành phố, phải:
- Tăng cường các cơ quan quản
lý tài chính, vật tư, lao động của địa phương để các cơ quan này thực sự tiến
lên làm tròn được nhiệm vụ của mình.
- Tăng cường tổ chức và công
tác thống kê nhằm phục vụ kịp thời yêu cầu quản lý kinh tế của địa phương
và của trung ương, phục vụ nhạy bén hơn nữa việc xây dựng và chỉ đạo thực hiện
kế hoạch và việc quản lý kinh tế.
- Tăng cường chất lượng công tác
điều tra cơ bản của các sở, ty nông nghiệp, cục, ty công nghiệp của tỉnh, thành
phố.
3. Về quyền
hạn quản lý cán bộ của địa phương.
Đi đôi với việc mở rộng quyền hạn
về quản lý kinh tế tài chính của cấp tỉnh, thành phố và việc cải tiến,
tăng cường bộ máy của địa phương như đã trình bày ở các phần trên đây, cần
tăng quyền hạn về quản lý cán bộ một cách thích đáng cho địa phương. Đây là
một vấn đề rất quan trọng.
Các ngành ở trung ương cần
tinh giản bộ máy của mình ở trung ương (nhất là bộ máy quản lý hành chính, và một
phần bộ máy quản lý kinh doanh, để điều động một số cán bộ quản lý, cán bộ kỹ
thuật, cán bộ nghiệp vụ có năng lực về giúp các địa phương; số cán bộ này sẽ được
đưa về địa phương một cách có trọng điểm chứ không rải đều.
Để thực hiện được việc điều động
này, phải thi hành đầy đủ chính sách đãi ngộ đúng đắn (như giữ nguyên
lương, giữ nguyên các quyền lợi về tinh thần đối với số cán bộ được điều động;
bỏ chủ trương dùng bậc lương để hạn chế việc sử dụng cán bộ của địa phương như
hiện nay) và mở rộng quyền quản lý cán bộ của cấp tỉnh và thành phố theo
nguyên tắc và chế độ quản lý cán bộ của Đảng. Từ nay cấp tỉnh, thành phố được quyền
trực tiếp quản lý tất cả các cán bộ công tác trong các cơ quan thuộc phạm vi quản
lý của địa phương, dù cán bộ ở đó trình độ nào và có mức lương bao nhiêu.
Từ nay việc bổ nhiệm các trưởng,
phó các ty, sở chuyên môn và những chức vụ tương đương của địa phương do cấp tỉnh,
thành phố quyết định sau khi đã được sự thỏa thuận của thủ trưởng ngành chủ quản
ở trung ương, trừ trường hợp các ngành quản lý thống nhất từ trung ương xuống địa
phương, như ngân hàng Nhà nước, ngân hàng kiến thiết, chi cục vật tư… thì sẽ
quy định rõ trong điều lệ phân cấp của mỗi ngành,
Để thực hiện chủ trương chuyên
môn hóa cán bộ tốt hơn nữa, trong tình hình hiện nay, việc điều động những
cán bộ kỹ thuật của địa phương tốt nghiệp các trường đại học sang ngành chuyên
môn khác phải do Ủy ban hành chính quyết định sau khi được sự thỏa thuận của
ngành chủ quản ở trung ương.
Về đào tạo cán bộ, các
ngành ở trung ương cần giúp đỡ cán bộ và điều kiện vật chất cho cấp tỉnh, thành
phố để cấp này có thể mở trường sơ học kỹ thuật, trung học kỹ thuật, đào tạo tại
chỗ cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật của địa phương; những tỉnh và thành phố lớn
có thể mở các lớp hay trường đại học để tự đào tạo một phần cán bộ có trình độ
tốt nghiệp đại học.
Về đội ngũ cán bộ, các cơ
quan quản lý cán bộ của tỉnh, thành phố cần phải dựa trên cơ sở chấn chỉnh hệ
thống quản lý kinh tế và xác định đúng đắn chức trách, nhiệm vụ của các cấp,
các ngành mà bố trí cán bộ cho thích hợp và tiến hành việc tiêu chuẩn hóa
cán bộ để có căn cứ bố trí và sử dụng cán bộ một cách tốt nhất.
Nghị quyết này nói về vị trí
kinh tế của cấp tỉnh, thành phố, cấp huyện, cấp xã và những nguyên tắc, nội
dung chính của việc phân cấp quản lý kinh tế cho cấp tỉnh, thành phố. Rồi đây,
sau khi thực hiện một bước việc phân cấp quản lý của các ngành kinh tế, tài
chính cho cấp tỉnh, thành phố, sẽ phải nghiên cứu việc phân cấp quản lý cho
cấp huyện và xã. Đồng thời phải tiến hành việc phân cấp của các ngành
làm công tác văn hóa, xã hội…. Đó là những công tác cần thiết để làm cho việc
tăng cường quản lý của chính quyền địa phương được toàn diện hoàn chỉnh.
Vì tầm quan trọng đặc biệt của vấn
đề phân cấp quản lý kinh tế, quản lý tài chính, Hội đồng Chính phủ yêu cầu các
ngành, nhất là các ngành quản lý kinh tế, tài chính, và các cấp kiên quyết, khẩn
trương và nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết này, nhằm thiết thực và mạnh mẽ
đẩy mạnh việc chuyển hướng kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế địa phương,
góp phần tích cực vào việc tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn trong sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước và chuẩn bị điều kiện chi những bước tiến sau này của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước nhà.
[1]
Ở đây quy hoạch có nghĩa là quy định khái quát sự phát triển trong tương lai của
một ngành hay một vùng và chưa đem cân đối các ngành khác hay vùng khác của nền
kinh tế.