BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
--------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
---------------
|
Số: 25-NQ/TW
|
Hà Nội, ngày 3 tháng 6 năm 2013
|
NGHỊ QUYẾT
HỘI
NGHỊ LẦN THỨ 7 BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHÓA XI
VỀ “TĂNG CƯỜNG VÀ ĐỔI
MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC DÂN VẬN TRONG TÌNH HÌNH MỚI”
I- TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
1- Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có
ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan
trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư các khóa đã ban hành nhiều chủ trương về công tác dân vận. Trên cơ sở
đó, công tác dân vận đã đạt được những kết quả quan trọng. Nội dung, phương thức
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác vận động nhân dân được
đổi mới; đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh
xã hội, xóa đói, giảm nghèo; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần; phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Hệ thống tổ chức Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội được kiện toàn, củng cố, đổi mới phương thức hoạt động; giữ
vai trò nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở. Đã có nhiều hình thức hoạt động vận động nhân dân, tích cực
tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, đẩy mạnh các
phong trào thi đua yêu nước, thúc đẩy các hoạt động đối ngoại nhân dân và công
tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài. Quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng
của đoàn viên, hội viên được chăm lo, bảo vệ; công tác tập hợp, phát triển đoàn
viên, hội viên được chú trọng; công tác giáo dục thế hệ trẻ được quan tâm.
Công tác dân vận
thời gian qua đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, bảo đảm quốc
phòng, an ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân.
2- Tuy nhiên,
công tác dân vận còn nhiều hạn chế, yếu kém. Việc xây dựng và triển khai thực
hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận còn chưa kịp thời,
kém hiệu quả; chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn biến, thay đổi cơ cấu
xã hội, thành phần dân cư, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân... để
có chủ trương, chính sách phù hợp. Việc thể chế hoá chủ trương, quan điểm của Đảng
về công tác dân vận chưa kịp thời, nhất là cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ". Công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết việc thực
hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận chưa được quan tâm
đúng mức. Một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, nhiều
bức xúc chưa được giải quyết; quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm,
làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
3- Tình hình
trên đây có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu do những nguyên nhân chủ
quan. Một số cấp ủy đảng chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của công tác
dân vận; chưa thấy hết trách nhiệm và chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo, chỉ đạo
công tác này. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ lãnh
đạo, quản lý còn thiếu gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống. Phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận chậm được đổi mới, chưa
theo kịp sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn. Tổ chức đảng, chính quyền, mặt
trận, đoàn thể chính trị - xã hội ở một số cơ sở yếu kém, giảm sút vai trò lãnh
đạo, phối hợp thiếu chặt chẽ, không sát dân, không làm tốt công tác tuyên truyền
vận động nhân dân. Chưa xác định rõ trọng tâm, trọng điểm và bố trí đủ nguồn lực
cho việc triển khai, thực hiện chủ trương, chính sách công tác dân vận. Phương
pháp vận động, tập hợp quần chúng chưa phù hợp với từng đối tượng, đặc biệt là
đối với đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, người theo đạo. Việc chăm
lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, đoàn thể chưa thực
sự đáp ứng yêu cầu.
Trong điều kiện
Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, có rất nhiều vấn đề mới đặt ra tác động
đến tư tưởng, tình cảm, đời sống của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Sự phân hóa
giàu nghèo, phân tầng xã hội, cùng với tệ quan liêu, tham nhũng, xa dân, xâm phạm
quyền làm chủ của nhân dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, là
thách thức đối với mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng. Thực tiễn đòi hỏi Đảng cần
tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo đối với công tác dân vận, củng cố vững chắc
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với dân
cũng như khối đại đoàn kết toàn dân; phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân phục
vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
II- MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM
1- Mục tiêu
Tăng cường và
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới nhằm
củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động
nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
2- Quan điểm
Tăng cường và
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới, cần
quán triệt các quan điểm sau:
- Cách mạng là
sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nhân dân là chủ, nhân dân làm
chủ.
- Động lực
thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết
thực của nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa
vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động sức dân phải
đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì
có hại cho dân thì hết sức tránh.
- Phương thức
lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng,
Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của
Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mỗi
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu để nhân dân tin tưởng,
noi theo.
- Công tác dân
vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng
vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận,
đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt.
- Nhà nước tiếp
tục thể chế hóa cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ"
thành quy chế, quy định để các tổ chức trong hệ thống chính trị; cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang thực hiện
công tác dân vận; các hình thức tập hợp nhân dân phải phong phú, đa dạng, khoa
học, hiệu quả.
III- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
1- Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
cán bộ; tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc chính đáng của
nhân dân; làm cho nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối
quan hệ máu thịt của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Kiên quyết,
kiên trì thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về xây dựng Đảng, làm
cho Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập
trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng; ngăn chặn và đẩy
lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Sớm ban hành
và thực hiện tốt quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội, quy định để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh.
Không ngừng
nâng cao chất lượng các tổ chức cơ sở đảng, hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà
nước từ Trung ương đến cơ sở. Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải hiểu
dân, gương mẫu, tận tụy với công việc, nói đi đôi với làm để nhân dân tin tưởng,
noi theo. Quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, gắn với nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Nghiên cứu sửa
đổi, bổ sung quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của
công dân trên cơ sở tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để nhân
dân phát huy đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ của mình.
Các cấp, các
ngành, địa phương, đơn vị tập trung giải quyết những bức xúc, nguyện vọng chính
đáng của nhân dân, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống, việc
làm, đền bù thu hồi đất đai, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội. Trong xây dựng
thể chế, chính sách, cần quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc: mọi chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải thuận với lòng dân, xuất
phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Chú trọng cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là điều kiện sống, lao động, học
tập, sáng tạo, nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe.
Quan tâm điều
chỉnh hài hòa lợi ích giữa các giai tầng xã hội, các vùng miền, các lĩnh vực; gắn
nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập
thể và cộng đồng, xã hội.
Xử lý nghiêm
minh những vụ việc tiêu cực, tham nhũng; giải quyết dứt điểm những vụ việc khiếu
kiện đông người phức tạp, kéo dài.
2- Nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ Đảng, Nhà nước, Mặt
trận, đoàn thể chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí
công tác dân vận trong tình hình mới
Đổi mới và
nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân nắm vững, nhất trí với mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ công tác dân vận; quán
triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Lực lượng của dân rất
to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo
thì việc gì cũng thành công". Công tác dân vận trong tình hình mới phải
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, củng cố
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, tạo động lực để nhân
dân đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Làm tốt công tác dân tộc,
tôn giáo, công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
Củng cố, tăng
cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Không ngừng nâng cao vị thế, vai trò của Việt
Nam trong khu vực và trên thế giới; góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Tăng cường
lãnh đạo công tác thông tin, tuyên truyền, phát huy sức mạnh tổng hợp của các
cơ quan thông tin đại chúng; mở rộng các kênh thông tin truyền thông, đối thoại
trực tiếp với nhân dân, góp phần giải tỏa bức xúc, hoài nghi trong xã hội. Chú
trọng việc định hướng và quản lý các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là
các mạng xã hội; phát huy sức mạnh của dư luận xã hội lành mạnh hỗ trợ cho các
biện pháp quản lý của Nhà nước và các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động
của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Chủ động đấu tranh với các luận điệu
xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch chống phá khối đại đoàn kết dân tộc,
chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Đẩy mạnh tuyên
truyền, cổ vũ và nhân rộng các nhân tố mới, các điển hình tiên tiến, gương người
tốt, việc tốt trên mọi lĩnh vực; phát huy tinh thần yêu nước, thực hành dân chủ,
tạo ra phong trào hành động cách mạng của toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc
đổi mới và phát triển đất nước. Thường xuyên tổ chức học tập, quán triệt sâu sắc
các quan điểm, giải pháp về công tác dân vận của Đảng để mỗi cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức là cán bộ dân vận của Đảng. Phát hiện, bồi dưỡng kỹ năng vận
động nhân dân cho những người có uy tín trong cộng đồng dân cư, tạo điều kiện để
họ tham gia tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, tạo sự lan tỏa, sức sống của công tác dân vận trong tình hình mới.
3- Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước
Thể chế hóa
các quan điểm, chủ trương mới của Đảng về dân vận thành các văn bản pháp luật để
các cấp chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp
nhân dân thực hiện. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các chính sách cụ
thể đối với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, doanh
nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi. Ban hành các cơ chế,
chính sách hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào định cư ở nước ngoài ổn định cuộc sống, giữ
gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng đất
nước; góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các
nước.
Cán bộ, công
chức, viên chức phải có trách nhiệm vận động nhân dân. Xây dựng và thực hiện
phong cách: "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với
dân", "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin"; thường xuyên đi
công tác cơ sở. Các cơ quan nhà nước, nhất là những ngành, cơ quan, đơn vị có
quan hệ trực tiếp với nhân dân cần công khai các quy định cụ thể về trách nhiệm,
thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức để nhân dân biết và
giám sát, kiểm tra việc thực hiện. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đổi mới
lề lối làm việc, chấn chỉnh thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức. Tăng cường đối thoại, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân và giải
quyết kịp thời đơn, thư khiếu tố của dân. Làm tốt công tác thanh tra nhân dân,
công tác hòa giải ở cơ sở; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; chủ động nắm tình
hình và giải quyết những công việc liên quan đến đời sống của nhân dân.
Chú trọng bảo
đảm an sinh xã hội, giải quyết tốt các chính sách đối với người nghèo, người
khuyết tật và các chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở các vùng đồng
bào dân tộc ít người, để các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
4- Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, góp phần thúc đẩy quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập chủ quyền, an
ninh chính trị
Trong tình
hình mới, công tác dân vận phải tập hợp được quần chúng nhân dân thành lực lượng
xã hội rộng rãi tham gia các phong trào thi đua yêu nước theo tinh thần
"Thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua". Toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân phải kết thành một khối vững chắc, làm nên sức sống các phong trào
thi đua. Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân bám sát nhiệm vụ chính trị, nắm bắt lợi ích chính đáng của các tầng lớp
nhân dân để xác định nội dung và lựa chọn cách thức phát động thi đua sát với
thực tế của địa phương, đơn vị với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp
với từng đối tượng. Đẩy mạnh phong trào thi đua "Dân vận khéo" gắn với
việc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" và các phong
trào do Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội phát động.
Các phong trào
thi đua cần thiết thực, tiết kiệm, tránh hình thức, sáo rỗng; lấy hiệu quả về
chính trị, kinh tế - xã hội làm thước đo đánh giá từng phong trào thi đua. Thường
xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, khen thưởng kịp thời. Vận
động và tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân phát huy cao độ tiềm năng, sức
sáng tạo, tích cực lao động, học tập, sản xuất, kinh doanh, làm giàu cho mình,
cho cộng đồng và đất nước; tham gia đấu tranh, phòng, chống tội phạm, tiêu cực,
tệ nạn xã hội.
5- Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội, các hội quần chúng để tập hợp nhân dân, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Mặt trận Tổ quốc,
đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, thực hiện tốt
vai trò là người đại diện, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của đoàn viên,
hội viên; đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, hướng về cơ sở, tập trung
cho cơ sở, phù hợp với trình độ dân trí và đặc điểm, tình hình cụ thể của từng
giai tầng xã hội, trong từng giai đoạn cách mạng.
Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể chính trị - xã hội làm tham mưu và nòng cốt trong việc nắm bắt dư
luận xã hội, phát huy dân chủ, năng lực trí tuệ, ý thức trách nhiệm của công
dân trong thực hiện giám sát xây dựng chính quyền, xây dựng Đảng.
Đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội tăng thêm tính tự chủ, chủ động hơn trong hoạt động, để gần
dân, sát dân hơn.
Phát triển các
tổ chức quần chúng theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải, tạo môi
trường và điều kiện để nhân dân phát huy sức lực, trí tuệ sáng tạo theo nguyện
vọng trên cơ sở pháp luật. Nâng cao chất lượng hoạt động các tổ chức đoàn thể,
đoàn viên, hội viên; phát hiện, lựa chọn những đoàn viên, hội viên ưu tú, đủ
tiêu chuẩn để giới thiệu kết nạp vào Đảng, giới thiệu quy hoạch, đào tạo cán bộ.
Phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của tuổi trẻ; tạo môi trường, cơ chế,
chính sách thuận lợi cho tuổi trẻ rèn đức, luyện tài, lao động, học tập, phấn đấu,
cống hiến cho đất nước. Coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng cho
thanh, thiếu niên trở thành những người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của
Đảng.
Xây dựng cơ chế
phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội với các hội quần
chúng, với chính quyền, lực lượng vũ trang trong công tác dân vận. Phát huy vai
trò của người có uy tín trong cộng đồng. Phát huy vai trò công tác đối ngoại
nhân dân và vận động người Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn bản sắc dân tộc, hình ảnh
con người, đất nước Việt Nam và hướng về xây dựng quê hương, đất nước; tranh thủ
sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè và các tổ chức quốc tế.
6- Quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ Ban Dân vận,
Mặt trận, đoàn thể nhân dân các cấp vững mạnh
Củng cố ban
dân vận các cấp; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận của Đảng, đặc biệt là
đội ngũ cán bộ tham mưu chiến lược; có cơ chế, chính sách thu hút người có năng
lực, có uy tín, có kinh nghiệm làm công tác dân vận; chú trọng luân chuyển, đào
tạo, bồi dưỡng bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, nhất là cán
bộ trẻ tuổi, có năng lực; khắc phục tình trạng đưa cán bộ phẩm chất, năng lực yếu
kém và không có uy tín về làm công tác dân vận.
Kiện toàn tổ
chức, bộ máy và cán bộ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội,
đáp ứng yêu cầu về trình độ lý luận, năng lực thực tiễn và kỹ năng công tác vận
động nhân dân.
Các cơ quan
tham mưu của Đảng phải nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong công tác tham
mưu, tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ
đảng về công tác dân vận; có chế độ báo cáo, thông tin kịp thời, đầy đủ về tình
hình nhân dân và những hạn chế trong hoạt động lãnh đạo của Đảng về công tác
dân vận.
7- Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và giám sát việc thực hiện
công tác dân vận
Các tổ chức đảng
từ Trung ương đến cơ sở phải đổi mới công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện
để nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận sớm đi vào cuộc sống, có hiệu
quả thiết thực. Phải xác định công tác vận động và chăm lo lợi ích của nhân dân
là một trong những nội dung chủ yếu trong hoạt động của mình; có kế hoạch thường
xuyên tìm hiểu tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để có chủ
trương, biện pháp xử lý đúng đắn, kịp thời. Các cấp ủy đảng lãnh đạo chính quyền,
Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân phối hợp chặt chẽ trong giải quyết các
công việc liên quan đến nhân dân và vận động nhân dân thực hiện tốt quyền và
nghĩa vụ công dân.
Các cơ quan đảng
ở Trung ương thường xuyên phối hợp, kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình triển
khai thực hiện; đồng thời theo dõi, kiểm tra việc thể chế hóa các quan điểm, chủ
trương của Đảng về công tác dân vận. Quan tâm nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, giải đáp kịp thời những vấn đề thực tiễn đặt ra, nhất là về xây dựng và củng
cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, từ
đó tham mưu với cấp có thẩm quyền ban hành các chủ trương, chính sách phù hợp.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Các tỉnh ủy,
thành ủy, các ban đảng, đảng đoàn, ban cán sự đảng, đảng ủy trực thuộc Trung
ương xây dựng chương trình hành động quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết.
2- Đảng đoàn
Quốc hội lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các luật có liên quan, tạo
cơ sở pháp lý cho việc thực hiện Nghị quyết và giám sát việc thực hiện.
3- Ban cán sự
đảng Chính phủ lãnh đạo việc sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm
pháp luật; tổ chức tốt việc thi hành pháp luật; thường xuyên theo dõi, kiểm
tra, đánh giá tình hình thực hiện của các cấp chính quyền; kịp thời điều chỉnh
các chương trình, giải pháp về tăng cường công tác dân vận phù hợp với thực tế.
4- Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội xây dựng chương trình hành động
thực hiện Nghị quyết; tổ chức học tập, tuyên truyền phổ biến Nghị quyết cho
đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân.
5- Ban Dân vận
Trung ương chủ trì phối hợp với các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy
trực thuộc Trung ương thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết
và định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết.
Nghị quyết này
được quán triệt, phổ biến đến các chi bộ./.