BAN CHẤP HÀNH
TRUNG ƯƠNG
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 22-NQ/TW
|
Hà Nội, ngày 10
tháng 4 năm 2013
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ
HỘI NHẬP QUỐC TẾ
I – TÌNH HÌNH
Đại hội lần thứ IX của Đảng đã đề ra chủ trương “chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế”; ngày 27-11-2001, Bộ Chính trị khóa IX đã ban
hành Nghị quyết số 07-NQ/TW “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Đại hội lần thứ X của
Đảng khẳng định chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng
thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác”; ngày 05-02-2007, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số chủ
trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam
là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”.
1- Việc thực hiện chủ trương trên đây của
Đảng đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững an ninh chính trị
và trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của
các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới; nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế. Trong đó, nổi bật là:
Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết
các nước, có quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 160 nước và 70 vùng lãnh thổ,
là thành viên của hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng với vị thế
và vai trò ngày càng được khẳng định. Quan hệ giữa nước ta với các nước trên thế
giới ngày càng đi vào chiều sâu; hợp tác về chính trị, quốc phòng, an ninh, văn
hóa, xã hội và các lĩnh vực khác được mở rộng.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện; năng lực cạnh tranh quốc
gia và của các doanh nghiệp được nâng lên; mở rộng thị trường, tranh thủ được
khối lượng lớn vốn đầu tư, tri thức, công nghệ và các nguồn lực quan trọng
khác, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
Đã có sự đổi mới mạnh mẽ tư duy về xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Năng lực của đội
ngũ cán bộ từ Trung ương đến địa phương được nâng lên một bước; tổ chức, bộ máy
các cơ quan quản lý nhà nước về hội nhập quốc tế và các hoạt động đối ngoại
khác được quan tâm củng cố. Đội ngũ doanh nhân nước ta đã có bước trưởng thành.
2- Bên cạnh kết quả đạt được, hội nhập
kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ đối ngoại còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém
như sau:
Chủ trương của Đảng chưa được quán triệt và thực hiện
đầy đủ, chậm được cụ thể hóa và thể chế hóa. Các cấp, các ngành, các tổ chức và
cá nhân chưa nhận thức sâu sắc và chưa chủ động tận dụng các cơ hội; đồng thời,
chưa thấy rõ thách thức để chủ động ứng phó; chưa lường trước các tác động tiêu
cực từ bên ngoài để có những biện pháp hạn chế hữu hiệu.
Hội nhập kinh tế quốc tế chưa gắn kết chặt chẽ với
yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển kinh tế,
yêu cầu củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội,
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Các hoạt động hội nhập kinh tế quốc
tế và mở rộng quan hệ trong các lĩnh vực khác chưa được triển khai đồng bộ, nhịp
nhàng trong một chiến lược tổng thể. Cơ chế chỉ đạo, điều hành, phối hợp thực
hiện và giám sát quá trình hội nhập từ Trung ương đến địa phương, giữa các ban,
ngành còn nhiều bất cập. Chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng chậm được
cải thiện. Năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, doanh nhân chưa đáp ứng được yêu
cầu hội nhập.
Hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh chưa được
phát huy đầy đủ, chưa gắn kết chặt chẽ với hội nhập kinh tế quốc tế; hợp tác về
văn hóa, xã hội và một số lĩnh vực khác chưa sâu rộng.
Cùng với những tác động tiêu cực từ các cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế, yếu kém trên đây
đã dẫn đến một số hệ quả xấu cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
3- Thời gian tới, hòa bình, hợp tác và phát triển
tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột tôn giáo, sắc tộc, tranh chấp tài nguyên
và lãnh thổ, biển đảo, bạo loạn, khủng bố diễn biến phức tạp. Toàn cầu hóa tiếp
tục phát triển sâu rộng trên mọi lĩnh vực; kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn,
thách thức. Mức độ tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày một gia tăng. Các cơ
chế đa phương, các tổ chức quốc tế có vai trò ngày càng quan trọng trong mọi mặt
của đời sống nhân loại. Khu vực châu Á – Thái Bình Dương phát triển năng động,
đang trở thành trung tâm phát triển của thế giới. Hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN) tiến tới hình thành Cộng đồng, tiếp tục giữ vai trò trung tâm trong phần
lớn các cơ chế hợp tác ở khu vực, đồng thời, có vị trí ngày càng cao trong chiến
lược của các nước lớn.
Nước ta đã trở thành một nước có mức thu nhập trung
bình và đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới. Nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của nước ta hiện nay là thực hiện thành công các mục tiêu phát triển đất
nước, nhanh chóng nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia, đồng thời đáp ứng những
yêu cầu mới về bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, giữ
vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) đã xác định: “Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng
cao vị thế đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh”.
Tình hình và nhiệm vụ mới đòi hỏi toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân quyết tâm thực hiện thắng lợi chủ trương quan trọng này nhằm
phát huy sức mạnh của dân tộc, tranh thủ tối đa sức mạnh của thời đại để phục vụ
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
II – MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO
1- Mục tiêu
Hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa
bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước
nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường
sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp
phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới.
2- Quan điểm chỉ đạo
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ
vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa
bình, hợp tác và phát triển, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa quan hệ quốc tế; quán triệt và vận dụng sáng tạo các bài học kinh nghiệm và
giải quyết tốt các mối quan hệ lớn được tổng kết trong Cương lĩnh; đồng thời
chú trọng một số quan điểm sau:
- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế là định hướng
chiến lược lớn của Đảng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của
cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Mọi
cơ chế, chính sách phải phát huy tính chủ động, tích cực và khả năng sáng tạo của
tất cả các tổ chức, cá nhân, khai thác hiệu quả các tiềm năng của toàn xã hội,
của các tầng lớp nhân dân, bao gồm cả cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống
và làm việc ở nước ngoài vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực;
gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình hoàn thiện thể chế, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, nâng cao sức mạnh tổng hợp và
năng lực cạnh tranh quốc gia; gắn kết chặt chẽ với việc tăng cường mức độ liên
kết giữa các vùng, miền, khu vực trong nước.
- Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các
lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào
phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập
trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc
tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của
đất nước.
- Hội nhập quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu
tranh; kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi
tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu; không tham gia vào các tập hợp
lực lượng, các liên minh của bên này chống bên kia.
- Nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ
động, tích cực tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc
tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất
sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai
trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
III- ĐỊNH HƯỚNG CHỦ YẾU
1- Tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân về yêu cầu hội nhập quốc tế, về các cơ hội và thách thức,
về phương hướng, nhiệm vụ trọng yếu của hội nhập quốc tế trong từng ngành, từng
lĩnh vực, để thống nhất nhận thức và hành động, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong
quá trình hội nhập quốc tế.
Xây dựng và triển khai chiến lược tổng thể về hội
nhập quốc tế, trước mắt đến năm 2020, chú trọng việc đổi mới thể chế, phát triển
nguồn nhân lực, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy, thiết
lập bộ máy đủ thẩm quyền và năng lực để chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát
và phối hợp các hoạt động hội nhập quốc tế. Xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm
của các cấp, các Ngành từ Trung ương đến địa phương trong các hoạt động hội nhập
trên các lĩnh vực; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, dự báo.
2 – Về hội nhập kinh tế quốc tế, tiếp tục
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa X “Về một số chủ trương, chính sách lớn
để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ
chức Thương mại thế giới” trong tình hình mới gắn với việc thực hiện các nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, nhất là nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng và
cơ cấu lại nền kinh tế theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Không ngừng cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước
ngoài, gắn thu hút đầu tư với giám sát quá trình thực thi, bảo đảm an ninh kinh
tế, hiệu quả kinh tế - xã hội – môi trường. Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu đầu
tư công, khuyến khích các hoạt động đầu tư tư nhân và các hoạt động hợp tác
công – tư. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư; quản lý chặt chẽ nợ công, bao gồm
cả vay nợ nước ngoài.
Thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế mà Việt Nam
đã thỏa thuận. Xây dựng và triển khai chiến lược, tham gia các khu vực mậu dịch
tự do với các đối tác kinh tế - thương mại quan trọng trong một kế hoạch tổng
thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích và khả năng của đất nước. Chủ động
xây dựng và thực hiện các biện pháp bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước
doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước. Đẩy mạnh việc tham gia vào các thể
chế thương mại – tài chính – tiền tệ khu vực và toàn cầu, xây dựng và triển
khai chiến lược hội nhập trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ phù hợp với yêu cầu
và trình độ phát triển của đất nước.
3- Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ
với các đối tác, nhất là các đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự
phát triển và an ninh của đất nước; đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập đi vào thực
chất, tạo sự đan xen gắn kết lợi ích giữa nước ta với các đối tác.
Chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa
phương, góp phần xây dựng trật tự chính trị và kinh tế công bằng, dân chủ, ngăn
ngừa chiến tranh, xung đột, củng cố hòa bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi.
Trong đó, đặc biệt chú trọng việc tham gia xây dựng Cộng đồng ASEAN, phát huy
vai trò của Việt Nam trong ASEAN và các cơ chế, diễn đàn do ASEAN giữ vai trò
trung tâm, nhằm tăng cường đoàn kết, gia tăng liên kết nội khối, củng cố quan hệ
hợp tác với các bên đối thoại của ASEAN, thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác và
phát triển trong khu vực.
Phát huy vai trò tại các tổ chức, diễn đàn, cơ chế
hợp tác mà nước ta là thành viên. Xây dựng và triển khai kế hoạch gia nhập các
tổ chức, diễn đàn khác, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tích cực triển khai chủ trương đưa người Việt Nam vào làm việc tại các tổ chức
quốc tế, chủ động chuẩn bị nhân sự ứng cử vào các cơ quan lãnh đạo của các tổ
chức quốc tế.
Chủ động mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng, tích cực
và nâng cao hiệu quả tham gia các diễn đàn các chính đảng; tích cực tham gia
các cơ chế hợp tác nghị viện và liên nghị viện khu vực và quốc tế; mở rộng giao
lưu nhân dân, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
4- Xây dựng và triển khai chiến lược hội
nhập quốc phòng, an ninh phù hợp với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an
ninh quốc gia, khai thác hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, vị thế quốc tế của đất
nước nhằm phục vụ mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác song phương về quốc
phòng, an ninh với các nước láng giềng, các nước ASEAN, các nước lớn, các nước
bạn bè truyền thống; từng bước đưa hợp tác đi vào chiều sâu, hiệu quả. Chủ động
phát hiện, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch
lợi dụng hội nhập quốc tế để xâm phạm an ninh quốc gia nước ta. Đẩy mạnh quan hệ
hợp tác với các cơ quan an ninh, tình báo, cảnh sát các nước, trước hết là các
nước láng giềng, các nước lớn; chủ động, tích cực tham gia các cơ chế hợp tác
chống tội phạm xuyên quốc gia và đối phó với các thách thức về an ninh lương thực,
an ninh nguồn nước, an ninh năng lượng, an ninh mạng, an ninh biển và các thách
thức an ninh phi truyền thống khác.
Chủ động và tích cực tham gia các cơ chế đa phương về
quốc phòng, an ninh mà nước ta là thành viên, trước hết là các cơ chế trong
khuôn khổ ASEAN và do ASEAN làm chủ đạo. Xây dựng và triển khai kế hoạch gia nhập
các cơ chế đa phương khác; trong đó, có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức
cao hơn, như hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, kiểm soát phổ biến
vũ khí hủy diệt hàng loạt, diễn tập chung và các hoạt động khác, đáp ứng yêu cầu
của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và góp phần đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều
sâu ổn định, bền vững.
5- Về văn hóa, xã hội, giáo dục – đào tạo,
khoa học – công nghệ, y tế và các lĩnh vực khác, cần lồng ghép các hoạt động hội
nhập quốc tế trong quá trình xây dựng và triển khai chiến lược phát triển các
lĩnh vực này.
Đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương về văn
hóa, xã hội, khoa học – công nghệ, giáo dục – đào tạo, trước hết là xây dựng cộng
đồng văn hóa – xã hội ASEAN, tập trung vào phát triển nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao. Tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, tiếp thu
tri thức, nhất là tri thức về quản lý và khoa học công nghệ, tiếp thu tinh hoa
văn hóa của nhân loại. Tăng cường quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt
Nam với bạn bè quốc tế.
Thực hiện các cam kết và đóng góp vào việc sửa đổi,
hoàn thiện và xây dựng mới các chuẩn mực, sáng kiến của các tổ chức quốc tế mà
nước ta là thành viên, trước hết là các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc.
Tích cực tham gia các thể chế hợp tác về môi trường, đóng góp vào nỗ lực chung
phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường, bảo vệ
rừng, nguồn nước, động vật, thực vật ở nước ta và trên thế giới.
Chủ động, tích cực giới thiệu, tham gia và nâng cao
chất lượng, thành tích trong các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao…ở khu
vực và thế giới.
Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng,
văn hóa, thông tin, tuyên truyền; đấu tranh có hiệu quả nhằm hạn chế các tác động
tiêu cực về xã hội, văn hóa, tư tưởng, đạo đức, lối sống.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1 - Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo
xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết.
Thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế do Thủ tướng Chính phủ đứng
đầu nhằm chỉ đạo phối hợp hoạt động hội nhập quốc tế từ Trung ương đến địa
phương (các cơ chế chỉ đạo liên ngành về hội nhập quốc tế hiện hành được hợp nhất,
sáp nhập vào Ban Chỉ đạo); định kỳ hàng năm báo cáo Bộ Chính trị về việc tổ chức
thực hiện Nghị quyết này.
2 - Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo quá
trình sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật phục vụ cho quá trình
hội nhập quốc tế.
3 - Các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng
đoàn, các tỉnh ủy, thành ủy và đảng ủy trực thuộc Trung ương có trách nhiệm tổ
chức phổ biến, quán triệt Nghị quyết; xây dựng và triển khai thực hiện chương
trình hành động thực hiện Nghị quyết./.
Nơi nhận:
- Các tỉnh ủy, thành ủy,
- Các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương,
- Các đảng ủy đơn vị sự nghiệp Trung ương,
- Các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương,
- Lưu Văn phòng Trung ương Đảng.
|
T/M BỘ CHÍNH TRỊ
TỔNG BÍ THƯ
Nguyễn Phú Trọng
|