BỘ CHÍNH TRỊ
--------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
---------------
|
Số: 16-NQ/TW
|
Hà Nội, ngày
10 tháng 8 năm 2012
|
NGHỊ QUYẾT
VỀ PHƯƠNG HƯỚNG,
NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẾN NĂM 2020
I- TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHỊ
QUYẾT 20-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ KHOÁ IX
1- Thành phố Hồ Chí Minh là
đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, giáo dục đào tạo, khoa
học công nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu, động lực, có sức
thu hút và sức lan toả lớn của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí
chính trị quan trọng của cả nước. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố Hồ
Chí Minh đã luôn phát huy truyền thống cách mạng kiên cường, phấn đấu bền bỉ,
năng động, sáng tạo, đoàn kết, có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay.
Mười năm qua, thực hiện Nghị
quyết 20-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá IX "Về phương hướng, nhiệm vụ phát
triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010", trong bối cảnh vừa có thuận lợi,
thời cơ, vừa có khó khăn, thách thức, với tinh thần "vì cả nước, cùng cả
nước", Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố đã quán triệt, cụ thể
hoá và thực hiện sáng tạo các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, đạt được nhiều thành tựu nổi bật:
Kinh tế liên tục tăng trưởng
cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, các ngành có giá trị gia tăng và
hàm lượng khoa học - công nghệ cao chiếm tỉ trọng ngày càng lớn, các nguồn lực
xã hội được phát huy; quy mô kinh tế tiếp tục được mở rộng; vị trí, vai trò của
Thành phố đối với vùng và cả nước ngày càng được khẳng định, đóng góp tích cực
vào quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Chất lượng công tác quy hoạch và quản
lý quy hoạch được nâng lên; đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển các
khu đô thị mới, chỉnh trang các khu đô thị theo hướng văn minh, hiện đại; di dời
hệ thống cảng biển đạt kết quả tích cực; công tác quản lý, bảo vệ và xử lý ô
nhiễm môi trường có tiến bộ.
Văn hoá, xã hội, giáo dục và
đào tạo nguồn nhân lực có bước tiến tích cực; hoạt động nghiên cứu, ứng dụng
khoa học công nghệ đã góp phần thiết thực hơn vào quá trình phát triển; chất lượng
chăm sóc sức khoẻ nhân dân được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân không ngừng nâng cao; chính sách xã hội được quan tâm thực hiện có hiệu
quả, hộ nghèo giảm rõ rệt.
Hệ thống chính trị được củng
cố và hoạt động ngày càng hiệu quả; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
bộ có tiến bộ; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của các cấp chính quyền chuyển
biến tích cực và hiệu quả tốt hơn. Nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tiếp tục được đổi mới, hướng về cơ sở.
An ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội được giữ vững; quốc phòng, an ninh được tăng cường; cải cách tư pháp
có chuyển biến tích cực; tình hình tham nhũng, lãng phí từng bước được ngăn chặn.
Quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế được tăng cường và mở rộng, tạo môi trường
thuận lợi để phát triển Thành phố.
Sau hơn 25 năm đổi mới và gần
10 năm thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW của Bộ Chính trị, Thành phố Hồ Chí Minh đạt
được những thành tựu to lớn, toàn diện, tạo sự chuyển biến căn bản trong đời sống
xã hội, góp phần rất quan trọng vào thành tựu chung của vùng và cả nước. Trong
quá trình xây dựng và phát triển, Thành phố đã vinh dự được Đảng, Nhà nước
phong tặng các danh hiệu cao quý: "Thành phố Anh hùng", "Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân", "Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới",
được hai lần tặng thưởng Huân chương Sao vàng.
2- Tuy nhiên, Thành phố Hồ
Chí Minh vẫn còn khó khăn, hạn chế, yếu kém:
- Tăng trưởng kinh tế chưa
tương xứng với vị trí, vai trò và tiềm năng của Thành phố. Cơ cấu nội bộ các
ngành kinh tế chuyển dịch còn chậm; chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh
tranh chưa cao; tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ có giá trị gia tăng
cao còn thấp; quy mô, tỉ trọng của khu vực kinh tế tập thể còn nhỏ; kết quả hợp
tác phát triển với các địa phương còn hạn chế.
- Kết cấu hạ tầng vốn đã yếu
kém, ngày càng quá tải, bất cập, cản trở việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng
kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân. Quy hoạch và quản lý đô thị chưa theo kịp
tốc độ phát triển. Tình trạng ùn tắc giao thông, ngập nước, ô nhiễm môi trường
vẫn nghiêm trọng, có mặt ngày càng gay gắt hơn.
- Phát triển văn hoá chưa
tương xứng với vai trò, vị trí của Thành phố là một trung tâm văn hoá lớn của
vùng và cả nước. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và hội
nhập quốc tế. Khoa học - công nghệ chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội. Một số vấn đề văn hoá - xã hội bức xúc
chậm được khắc phục; phát triển giáo dục - đào tạo, y tế còn có mặt chưa đáp ứng
yêu cầu, đặc biệt là tình trạng quá tải ở các bệnh viện chuyên khoa ngày càng
nghiêm trọng; thể thao thành tích cao bị suy giảm.
- An ninh chính trị và trật
tự an toàn xã hội vẫn diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây bất ổn.
- Kết quả công tác xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trên một số mặt còn hạn chế, yếu kém. Hiệu quả
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa cao, tính chiến đấu, sức thuyết phục
còn thấp. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở đảng
còn yếu; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, suy thoái tư
tưởng chính trị, giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, mất niềm tin,
suy thoái đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng; công tác quản lý, đánh giá
cán bộ vẫn là khâu yếu. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực
còn hạn chế, yếu kém; thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp; cải cách tư pháp
còn chậm; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí chưa đạt yêu cầu. Đổi mới
phương thức lãnh đạo của cấp uỷ đối với hệ thống chính trị còn chậm, chưa đáp ứng
kịp yêu cầu nhiệm vụ.
3- Những khó khăn, hạn chế,
yếu kém nêu trên là do :
- Năng lực lãnh đạo của Đảng
bộ, công tác quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền Thành phố trong việc tổ
chức thực hiện Nghị quyết còn hạn chế, thiếu quyết liệt. Thành phố chưa quan
tâm đúng mức việc tổng kết thực tiễn, chưa kiên trì, kiến nghị với Trung ương để
có chủ trương, biện pháp mang tính đột phá.
- Việc thể chế hoá Nghị quyết
số 20-NQ/TW của Bộ Chính trị còn chậm, chưa có cơ chế, chính sách phát huy tiềm
năng, tạo sức mạnh liên kết của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển của đô thị loại đặc biệt. Một số bộ, ngành Trung ương còn thiếu chủ
động phối hợp với Thành phố trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết 20 và Kết
luận 15 của Bộ Chính trị để giải quyết một số vấn đề cơ chế, chính sách thuộc
thẩm quyền của Trung ương.
II- PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ĐẾN NĂM 2020
1- Từ nay đến năm 2020, trên
cơ sở vận dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011 - 2020 gắn với thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội
IX của Đảng bộ, Thành phố cần tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang,
kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, nỗ lực phấn đấu, chủ động nắm bắt thời
cơ, vượt qua thách thức, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, cơ cấu lại nền
kinh tế, đổi mới mô hình và nâng cao chất lượng tăng trưởng, xây dựng đồng bộ kết
cấu hạ tầng, phát triển Thành phố nhanh và bền vững với chất lượng và tốc độ
cao hơn mức bình quân chung của cả nước, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh;
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm an
ninh, quốc phòng. Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh văn minh, hiện đại với vai trò
đô thị đặc biệt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đóng góp
ngày càng lớn với khu vực và cả nước; từng bước trở thành trung tâm lớn về kinh
tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ của đất nước và khu vực Đông
Nam Á; góp phần tích cực đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020.
2- Để thực hiện thắng lợi mục
tiêu tổng quát nêu trên, cần tập trung lãnh đạo thực hiện tốt những nhiệm vụ,
giải pháp chủ yếu sau đây :
2.1- Khai thác tốt nhất tiềm
năng, lợi thế, phát triển kinh tế nhanh, bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh; phấn đấu tốc
độ tăng trưởng tổng sản phẩm nội địa (GDP) bình quân thời kỳ 2011 - 2020 cao
hơn 1,5 lần mức tăng trưởng bình quân của cả nước; GDP bình quân đầu người cuối
năm 2020 đạt khoảng 8.500 USD.
- Thúc đẩy phát triển các
nhóm ngành dịch vụ đạt chất lượng, hiệu quả; trong đó, tập trung nâng cao tỉ trọng
các ngành dịch vụ: thương mại quốc tế; tài chính, ngân hàng; dịch vụ cảng, kho
bãi, hậu cần hàng hải và xuất, nhập khẩu, vận tải đa phương thức; du lịch. Phát
triển và quản lý tốt các loại thị trường hàng hoá; thị trường tài chính; thị
trường bất động sản; thị trường khoa học - công nghệ; thị trường lao động…
- Tập trung phát triển 4
ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học - công nghệ và giá trị gia tăng cao (cơ
khí; điện tử - công nghệ thông tin; hoá dược - cao su; chế biến tinh lương thực,
thực phẩm). Lựa chọn một số công đoạn, các sản phẩm có giá trị gia tăng cao
trong các ngành khác để đầu tư, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển
công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sạch, tiết kiệm năng lượng. Đẩy nhanh tiến độ
thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, phấn đấu cơ
bản hoàn thành vào cuối năm 2015; phát triển nông nghiệp đô thị hiện đại, hiệu
quả, bền vững.
- Cải thiện mạnh mẽ môi trường
đầu tư để thu hút đầu tư trong và ngoài nước, chú trọng thu hút các dự án sử dụng
công nghệ cao, công nghệ sạch và bảo vệ môi trường. Các thành phần kinh tế cùng
phát triển, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật; nâng cao vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước, hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp; phát triển
kinh tế tập thể, nòng cốt là hợp tác xã; tiếp tục phát huy tốt sự chủ động liên
kết, hợp tác phát triển ngày càng có hiệu quả với các tỉnh, thành phố.
2.2- Tập trung xây dựng, tạo
bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị; đổi mới, nâng cao chất lượng,
hiệu lực, hiệu quả công tác quy hoạch, thiết kế đô thị, quản lý quy hoạch kiến
trúc, quy hoạch xây dựng nông thôn mới, quản lý đô thị gắn với kế hoạch phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân, an
ninh nhân dân. Đầu tư nâng cấp cải tạo, chỉnh trang đô thị cũ. Bổ sung cơ chế,
chính sách khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, đặc biệt
chú ý khai thác nguồn vốn từ nhà xưởng, quyền sử dụng đất để góp phần tạo vốn
xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị. Chủ động phối hợp với các bộ, ngành Trung ương
và các địa phương liên quan tập trung xây dựng hệ thống giao thông công cộng
có sức chở lớn, đường sắt đô thị, phát triển đường vành đai, đường
trên cao, đường cao tốc, luồng tàu đường biển, đường sông; các hệ thống
cấp nước, thoát nước, chống ngập, xử lý chất thải, hạ tầng năng
lượng, hạ tầng viễn thông… Đầu tư xây dựng hệ thống đê ven biển, công trình
thuỷ lợi ven sông Sài Gòn, hệ thống cống ngăn triều, kiểm soát lũ, giải quyết
cơ bản tình trạng ùn tắc giao thông, ngập nước, kết nối với kết cấu hạ tầng các
tỉnh lân cận và vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Tăng cường công tác quản lý và bảo
vệ môi trường; đẩy mạnh xã hội hoá, huy động các nguồn lực tham gia bảo vệ môi
trường, chủ động ứng phó, hạn chế tác hại do biến đổi khí hậu và nước biển
dâng.
2.3- Nâng cao hiệu quả thực
hiện chủ trương xã hội hoá, huy động các nguồn lực phát triển giáo dục - đào tạo,
khoa học - công nghệ, y tế, văn hoá, thể dục - thể thao.
Tiếp tục đầu tư đổi mới,
nâng cao toàn diện chất lượng giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; phát triển mạnh khoa học - công nghệ gắn
với phát triển kinh tế tri thức, làm nền tảng thúc đẩy Thành phố phát triển
nhanh và bền vững.
Tiếp tục củng cố, hoàn thiện
mạng lưới y tế từ Thành phố đến cơ sở. Tập trung xây dựng, phát triển khu y tế
kỹ thuật cao, các trung tâm y tế chuyên sâu và một số bệnh viện tại các cửa ngõ
Thành phố. Nâng cao chất lượng hoạt động bệnh viện quận, huyện… Coi trọng phát
triển y tế dự phòng, nâng cao tinh thần phục vụ của cán bộ, nhân viên y tế. Giải
quyết căn bản tình trạng quá tải các bệnh viện.
Phát triển mạnh phong trào
thể dục - thể thao quần chúng, nâng cao thể chất của nhân dân; phát triển thể
thao thành tích cao, nhất là các môn Thành phố có truyền thống, có ưu thế.
Phát triển, nâng cao chất lượng
và quản lý tốt các hoạt động văn hoá theo hướng văn minh, giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc và các giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của Thành phố
Hồ Chí Minh. Lãnh đạo, quản lý hoạt động báo chí, xuất bản, văn học - nghệ
thuật đáp ứng yêu cầu phát triển, nâng cao đời sống văn hoá của nhân dân; từng
bước giảm dần sự cách biệt về mức hưởng thụ văn hoá giữa đô thị và nông thôn;
xây dựng nếp sống văn hoá, văn minh đô thị.
Thực hiện tốt các chính sách
xã hội và bảo đảm an sinh xã hội, rút ngắn khoảng cách nghèo giàu trong các tầng
lớp nhân dân. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn tệ nạn xã hội, tội phạm; giảm tai
nạn giao thông; bảo đảm trật tự, an toàn cho nhân dân.
2.4- Tăng cường quốc phòng,
an ninh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong mọi tình huống; huy động sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc; xây dựng
nền tảng chính trị vững chắc trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, gắn
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm an ninh, quốc phòng; xây dựng
khu vực phòng thủ vững chắc, xây dựng thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận
quốc phòng toàn dân vững mạnh. Xây dựng lực lượng quân đội, công an trong sạch,
vững mạnh toàn diện, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo đảm
sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
cải cách tư pháp và phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Triển khai có hiệu quả
việc đấu tranh với các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; xử lý có
hiệu quả các vấn đề phức tạp nảy sinh, không để bất ngờ xảy ra.
2.5- Triển khai đồng bộ,
toàn diện hoạt động đối ngoại trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá. Thực
hiện tốt các nội dung hợp tác đã ký kết với địa phương các nước; chủ động ngăn
ngừa tác động tiêu cực phát sinh trong quá trình hội nhập quốc tế. Tăng cường,
đổi mới hoạt động thông tin đối ngoại, quảng bá hình ảnh Việt Nam và Thành phố
để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và kiều bào tham gia xây dựng đất nước.
2.6- Lãnh đạo thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khoá XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay" đạt được sự chuyển biến rõ rệt, trong đó tập trung thực hiện tốt các
nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của
cấp trên... Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ Thành phố,
xây dựng Đảng bộ Thành phố trong sạch, vững mạnh. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý Nhà nước của các cấp chính quyền gắn với xây dựng mô hình chính quyền
đô thị, nâng cao hiệu quả công tác cải cách hành chính.
Thực hiện tốt công tác quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức, năng lực tốt
và gắn bó mật thiết với nhân dân; chú trọng cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ xuất
thân từ công nhân, đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ chính trị.
2.7- Phát huy dân chủ và sức
mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc; chăm lo xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh; thực hiện tốt quy chế công tác dân vận của
hệ thống chính trị và quy chế dân chủ cơ sở; thực hiện tốt chính sách dân tộc,
tôn giáo. Giải quyết kịp thời các khiếu kiện của nhân dân, không để xảy ra những
"điểm nóng".
III- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Thực hiện Nghị quyết của
Bộ Chính trị "Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến
năm 2020" trước hết là trách nhiệm của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân
Thành phố, đồng thời cũng là trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội ở Trung ương và các địa phương,
để xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh của cả nước, vì cả nước.
2- Tiếp tục cho phép Thành
phố được thực hiện thí điểm đối với những vấn đề mới phát sinh mà thực tiễn
Thành phố đặt ra trong quá trình phát triển, nhưng chưa có quy định hay những
quy định hiện hành của Nhà nước không còn phù hợp. Khi thực hiện thí điểm,
Thành phố phải có đề án xin Chính phủ cho thí điểm về từng vấn đề cụ thể và chịu
sự theo dõi, giám sát của Chính phủ, đặc biệt với những vấn đề lớn, nhạy cảm.
3- Chính phủ chỉ đạo các bộ,
ngành tiếp tục tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi để Thành phố thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ nêu trên. Cụ thể là :
a) Xem xét để tăng tỉ lệ điều
tiết cho ngân sách Thành phố đối với các nguồn thu có sự phân chia giữa Trung
ương và Thành phố, thực hiện từ năm 2015; trong khi chưa tăng tỉ lệ điều tiết,
hằng năm, xem xét tăng nguồn kinh phí Trung ương hỗ trợ các chương trình mục
tiêu và tăng hỗ trợ từ nguồn thu xuất nhập khẩu trên địa bàn; đồng thời, ưu
tiên các nguồn tài chính để thực hiện các dự án phát triển giao thông vận tải
Thành phố đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tạo điều kiện để
Thành phố phát triển nhanh, toàn diện, vững chắc, thực hiện tốt vai trò trung
tâm đối với vùng và cả nước.
b) Tiếp tục phân cấp nhiều
hơn cho Thành phố trong một số lĩnh vực như: quản lý tài chính công, tăng hơn
tính tự chủ cho Thành phố về ngân sách, quyết định một số khoản thu, chi; về
quy hoạch, kế hoạch và đầu tư; tổ chức, nhân sự; thẩm quyền xử phạt hành
chính... phù hợp với điều kiện của Thành phố. Thành phố chủ động phối hợp với
các bộ, ngành Trung ương có liên quan nghiên cứu đề xuất để Chính phủ xem xét,
quyết định nội dung và mức phân cấp cụ thể.
c) Điều chỉnh quy hoạch tổng
thể phát triển kinh tế - xã hội vùng phù hợp với vị trí, vai trò của vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -
2020. Xây dựng chính sách phát triển và cơ chế điều phối vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam và vùng đô thị Thành phố Hồ Chí Minh, trọng tâm là quy hoạch phân bố lực
lượng sản xuất, xây dựng hệ thống hạ tầng kết nối (giao thông, cấp nước, thoát
nước...); phát triển nguồn nhân lực; bảo vệ môi trường... và xây dựng cơ chế điều
phối giữa các địa phương trong vùng dưới sự chỉ đạo, điều hành trực tiếp của
Chính phủ.
d) Ban hành hoặc sửa đổi, bổ
sung cơ chế, chính sách, quy định pháp luật về tạo vốn, hỗ trợ vốn để thu hút vốn
đầu tư trong và ngoài nước từ nhiều thành phần kinh tế, theo nhiều hình thức đa
dạng và phù hợp: xây dựng - khai thác - chuyển giao (BOT), xây dựng - chuyển
giao (BT), hợp tác công tư (PPP), chuyển nhượng quyền kinh doanh khai thác,
khai thác quỹ đất và các dịch vụ liên quan...
4- Thành phố Hồ Chí Minh cần
chủ động phối hợp với các bộ, ban, ngành Trung ương và các địa phương, nhằm tạo
thêm sức mạnh và điều kiện thuận lợi cho Thành phố phát triển. Đồng thời, các bộ,
ban, ngành Trung ương cần có ý thức và trách nhiệm phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ,
giúp đỡ Thành phố trong xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch, cơ chế,
chính sách phát triển các ngành trên địa bàn; kiểm tra, giám sát và kịp thời
tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để Thành phố phát triển. Các tỉnh, thành phố
trong cả nước, nhất là các tỉnh trong vùng cần chủ động phát triển quan hệ liên
kết, hợp tác với Thành phố Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực, tạo nên sự gắn bó và
sức mạnh chung để cùng phát triển.
5- Định kỳ hằng năm, Ban Bí
thư và Chính phủ làm việc với lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh để kiểm tra, giám
sát việc tổ chức thực hiện Nghị quyết. Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, hướng
dẫn việc tuyên truyền, quán triệt Nghị quyết của Bộ Chính trị. Văn phòng Trung
ương Đảng giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo dõi, kiểm tra, sơ kết, tổng kết
Nghị quyết này./.
|
T/M BỘ CHÍNH
TRỊ
TỔNG BÍ THƯ
Nguyễn Phú Trọng
|