HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 16-HĐBT
|
Hà Nội, ngày 08
tháng 2 năm 1982
|
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 16-HĐBT NGÀY 8 THÁNG 2 NĂM 1982VỀ VIỆC
TINH GIẢN BIÊN CHẾ HÀNH CHÍNH.
Trong những năm qua các ngành và
các địa phương đã tiến hành những biện pháp kiện toàn tổ chức, tinh giản biên
chế hành chính, nhưng nhìn chung việc thực hiện nghị quyết của Đảng và Nhà nước
còn chậm chạp, kết quả rất hạn chế; biên chế hành chính ở các ngành, các địa
phương còn nặng nề; tình trạng trì trệ, bao cấp chưa giải quyết được bao nhiêu.
Nguyên nhân của việc tinh giản
biên chế hành chính làm chậm chạp là do các ngành, các cấp chưa nhận thức đầy đủ
trách nhiệm chỉ đạo công tác này, chưa thấy hết tác hại do bộ máy quản lý hành
chính Nhà nước cồng kềnh, nặng nề gây ra nên chưa quyết tâm tổ chức thực hiện.
Mặt khác tổ chức bộ máy, lề lối làm việc, chế độ công tác và việc phân công,
phân cấp quản lý chậm được cải tiến; chức danh tiêu chuẩn cán bộ và chế độ,
chính sách cụ thể phục vụ cho việc tinh giản biên chế nói chung chưa được quy định
cụ thể.
Để thúc đẩy việc tinh giản biên
chế hành chính làm cho bộ máy quản lý Nhà nước gọn, nhẹ, có hiệu lực, tạo nên
bước chuyển biến lớn, Hội đồng Bộ trưởng quyết định thực hiện chủ trương tinh
giản biên chế hành chính Nhà nước ở các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa
phương như sau:
I. MỤC ĐÍCH
VÀ YÊU CẦU
- Mục đích của việc tinh giản
biên chế hành chính lần này là giảm bớt số người hoạt động có thể giảm được, chủ
yếu là trong các cơ quan quản lý Nhà nước và các cơ quan quản lý hành chính cấp
trên của các đơn vị cơ sở (Tổng công ty, liên hiệp các xí nghiệp...) nhằm nâng
cao hiệu suất công tác, tiết kiệm lao động, tăng cường từng bước hiệu lực quản
lý của bộ máy Nhà nước.
- Yêu cầu của việc tinh giản
biên chế hành chính là:
1. Sắp xếp, bố trí cán bộ, nhân
viên theo đúng khả năng của từng người và yêu cầu nhiệm vụ công tác của từng cơ
quan, từng bộ phận công tác nhằm kiện toàn tổ chức bộ máy gọn, nhẹ, có hiệu lực.
2. Kiên quyết xoá bỏ lối quản lý
hành chính bao cấp thể hiện về mặt tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước,
trước mắt cần chuyển giao nhiệm vụ quản lý trực tiếp các hoạt động sản xuất,
kinh doanh và hoạt động sự nghiệp cho người thủ trưởng các đơn vị cơ sở sản xuất
kinh doanh hoặc cơ sở sự nghiệp phụ trách để giảm bớt số người làm việc không
đúng chức năng và nhiệm vụ quản lý hành chính Nhà nước ở các cơ quan quản lý cấp
trên của đơn vị cơ sở.
3. Chuẩn bị điều kiện tiến tới ổn
định tổ chức, định mức biên chế hành chính và quản lý biên chế theo quỹ tiền
lương sau khi Nhà nước ban hành bảng danh mục và tiêu chuẩn cán bộ, viên chức
Nhà nước.
II. NHỮNG
BIÊN PHÁP CỤ THỂ
A. VỀ KIỆN
TOÀN MỘT BƯỚC TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ
của mỗi Bộ, mỗi ngành và địa phương soát lại những công việc của các Vụ, Sở,
Ty, các phòng, ban xem có những việc thuộc trách nhiệm, quyền hạn của các cơ sở
sự nghiệp, sản xuất, kinh doanh (hoặc của cấp dưới) thì chuyển giao nhiệm vụ đồng
thời chuyển giao cả số cán bộ, nhân viên đang làm việc đó cho cơ sở (hoặc cấp
dưới) đảm nhiêm; các cơ quan quản lý Nhà nước ở các cấp phải làm đúng chức năng
đã được luật pháp quy định, chủ yếu là thực hiện việc quản lý Nhà nước về các mặt
quy hoạch, kế hoạch, chính sách, chế độ, luật pháp, tổ chức, cán bộ và lao động,
hợp tác quốc tế, chỉ đạo thực hiện và kiểm tra đôn đốc các cơ sở hoặc cấp dưới
hoạt động.
2. Trên cơ sở xác định rõ chức
năng quản lý hành chính và khối lượng công việc cụ thể, các cơ quan quản lý Nhà
nước phải soát lại số cán bộ hiện có; đối với những người trình độ, khả năng
không đáp ứng kịp yêu cầu công tác thì kiên quyết chuyển sang công tác khác
thích hợp hoặc bổ sung cho những ngành thiếu lao động; tuyệt đối không được sử
dụng cán bộ theo hướng lấy số lượng bù chất lượng như ở một số nơi hiện nay.
3. Các vụ, cục, ban ở cơ quan
Trung ương và các Sở, Ty ở địa phương phải giảm bớt số phòng; ở những bộ máy có
điều kiện cán bộ có trình độ thì không cần tổ chức phòng, mà thực hiện chế độ
thủ trưởng làm việc trực tiếp với chuyên viên, cán bộ. Những đơn vị nói trên phải
giảm bớt cấp phó, không nhất thiết đơn vị nào cũng có cấp phó, tuỳ theo yêu cầu
có thể có một hoặc hai phó giúp việc để bớt cách bức và làm cho công việc chạy
đều, không bị trì trệ.
Ban tổ chức của Chính phủ có
trách nhiệm nghiên cứu trình Hội đồng Bộ Trưởng ban hành quy định về tổ chức
các phòng ban ở các Bộ để thi hành thống nhất.
4. Ở các Bộ cần quy định chế độ
làm việc, chế độ báo cáo định kỳ, từ cơ sở lên; các cơ quan chuyên môn giúp việc
Bộ phải thống nhất sử dụng các báo cáo của cơ sở, tránh đòi hỏi quá nhiều giấy
tờ của cơ sở. Khi phân công giải quyết công việc, nhất thiết phải quy định người
chịu trách nhiệm chính, chống việc gây lãng phí, phiền hà và ảnh hưởng đến công
việc của cơ sở và cấp dưới.
5. Tuỳ từng cơ quan xét điều kiện
cho phép mà tách các bộ phận quản lý nhà ở, sửa chữa nhà cửa, nhà khách, đội
xe, điện, nước, căng tin ra khỏi biên chế quản lý hành chính và chuyển sang hoạt
động theo phương thức hạch toán kinh tế; kết hợp giữa những cơ quan có yêu cầu
phục vụ giống nhau để tổ chức các cơ sở chuyên trách phục vụ chung, tránh tổ chức
trùng lặp, chồng chéo, hiệu quả thấp, lãng phí lao động.
6. Để các hội quần chúng tự quản
lý biên chế, Nhà nước chỉ trợ cấp kinh phí hoạt động cho các hội quần chúng và
khuyến khích các hội quần chúng mở rộng hoạt động để gây quỹ của hội và tạo điều
kiện hoạt động mạnh hơn.
7. Chuyển các cơ sở sự nghiệp có
điều kiện sang hạch toán kinh tế để thúc đẩy hoạt động thiết thực. Những đơn vị
nào lúc đầu chưa thu nhập được tốt, Nhà nước bù chi, đồng thời các ngành xúc tiến
việc ban hành các định mức biên chế nghiệp vụ để giúp cho việc quản lý biên chế
sự nghiệp được hợp lý và chặt chẽ hơn hiện nay.
B. VỀ TINH
GIẢN BIÊN CHẾ HÀNH CHÍNH:
1. Trước mắt, để ngăn chặn việc
tăng thêm tổ chức quản lý hành chính, các ngành, các cấp không được lập ra thêm
bất kỳ tổ chức quản lý nào mới, trừ trường hợp đặc biệt được Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng quyết định; thủ trưởng các ngành, các cấp phải thực hiện đúng đắn chỉ
thị 184-TTg ban hành ngày 6 tháng 6 năm 1980 và Thông tư hướng dẫn 257-TTg ban
hành ngày 27 tháng 8 năm 1980 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý chặt chẽ biên
chế các cơ quan quản lý Nhà nước.
2. Sau khi sắp xếp, số người dôi
ra sẽ giải quyết như sau:
a) Đối với những người tuyển dụng
từ năm 1976 đến nay, hiện đang làm việc tại các cơ quan quản lý hành chính mà
chưa qua đào tạo, không có chuyên môn, nghiệp vụ, không có hiệu suất công tác,
không có nhu cầu công tác nào tiếp nhận, nếu điều kiện cho phép thì cử đi đào tạo,
nếu không có điều kiện cử đi đào tạo thì cho thôi việc.
b) Những người ốm đau đã qua điều
trị, điều dưỡng nhiều lần vẫn không làm được việc thì cho đi điều trị, điều dưỡng
một thời gian, nếu không còn đủ sức khoẻ để tiếp tục công tác thì được nghỉ việc
theo chế độ mất sức lao động hiện hành (thời gian điều trị, điều dưỡng, đương sự
được hưởng quỹ bảo hiểm xã hội, không tính vào quỹ lương).
c) Những người do trình độ nghiệp
vụ kém thì điều sang công tác khác thích hợp hoặc cho đi học nếu Nhà nước có
yêu cầu đào tạo và đương sự có đủ tiêu chuẩn. Việc điều động những người làm việc
không có hiệu suất từ cơ quan này sang cơ quan, đơn vị khác phải được nghiên cứu
hợp lý để bảo đảm cho công tác đỡ bị xáo trộn và đỡ ảnh hưởng nhiều đến điều kiện
sinh hoạt của cán bộ, nhân viên. Việc đưa cán bộ, nhân viên đi đào tạo cũng phải
thấy được hướng phát triển của người được đào tạo và bảo đảm sau khi ra trường
có thể phục vụ công tác được.
d) Đối với những cán bộ, nhân
viên thường biểu hiện xấu về tổ chức và kỷ luật trong cơ quan, những người
không chấp hành lệnh điều động công tác mà không có lý do chính đáng thì thủ
trưởng cơ quan chủ quản liên hệ với các cơ quan có trách nhiệm quản lý cán bộ để
giải quyết thích đáng theo tinh thần vừa đảm bảo kỷ luật của Nhà nước, vừa giúp
cho đương sự có điều kiện công tác hợp lý hơn.
III. CHẾ ĐỘ
CHÍNH SÁCH
1. Đối với người
cho ra ngoài biên chế mà không hưởng chế độ về hưu, mất sức thì được hưởng các
chế độ trợ cấp sau đây do Ngân sách đài thọ:
a) Nếu về
nông thôn sản xuất nông nghiệp:
- Căn cứ vào thời gian đã công
tác ở cơ quan, xí nghiệp, cứ mỗi năm làm việc được hưởng một khoản tiền trợ cấp
bằng một tháng lương và các phụ cấp theo lương (kể cả trợ cấp đông con, nếu có)
- Được tiếp tục
hưởng chế độ cung cấp lương thực và thực phẩm theo tiêu chuẩn được hưởng như
khi làm việc cho đến khi tự giải quyết được lương thực, nhưng không nhận bằng
hiện vật mà sẽ được quy trả bằng tiền, theo giá chỉ đạo của Nhà nước ở địa
phương. Được hưởng trợ cấp sinh hoạt phí hàng tháng bằng mức lương và các phụ cấp
theo lương (kể cả trợ cấp đông con, nếu có) trong thời gian một năm.
b) Nếu về sản
xuất ở các hợp tác xã thủ công nghiệp, dịch vụ ở các thành phố, thị xã, thị trấn:
- Căn cứ vào thời gian đã công
tác ở cơ quan, xí nghiệp, cứ mỗi năm được hưởng một khoản trợ cấp bằng một
tháng lương và các phụ cấp theo lương ( kể cả trợ cấp đông con, nếu có).
- Được tiếp tục hưởng chế độ
cung cấp lương thực và thực phẩm theo tiêu chuẩn được hưởng như khi làm việc
trong một thời gian do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định. Nếu thu nhập
về sản xuất tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thấp hơn lương và phụ cấp theo lương
(kể cả trợ cấp đông con, nếu có) thì được trợ cấp chênh lệch cho bằng thu nhập
cũ, thời gian hưởng trợ cấp chênh lệnh không quá một năm.
2. Đối với những
người được điều động từ Trung ương về công tác ở các tỉnh, thành phố, các huyện,
thị xã, các cơ sở sản xuất nông nghiệp. tiểu thủ công nghiệp... mà vẫn ở trong
biên chế Nhà nước thì được hưởng các khoản phụ cấp áp dụng cho cán bộ tăng cường
cho cơ sở theo quyết định số 110-HĐBT ngày 13 tháng 10 năm 1981 của Hội đồng Bộ
trưởng.
Khi đến cơ quan mới được giữ
nguyên lương cũ và phụ cấp theo lương cũ, nếu lương mới và phụ cấp theo lương mới
thấp hơn lương cũ và phụ cấp.
3. Đối với công
nhân, viên chức trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, sức khoẻ yếu, nếu chưa đủ điều
kiện về thời gian công tác để hưởng chế độ hưu trí, nhưng đã có đủ 15 năm công
tác liên tục thì cho nghỉ việc, hưởng chế độ trợ cấp mất sức lao động dài hạn.
4. Đối với những
người có đủ thời gian công tác liên tục, nhưng chưa đủ tuổi về hưu nếu không bố
trí được công tác, hoặc không đưa được về cơ sở sản xuất thì cho nghỉ việc và
cũng được hưởng chế độ hưu trí.
Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày
ban hành Nghị quyết này, các Bộ Tài chính, Lao động, Thương binh và Xã hội,
Lương thực và các cơ quan có liên quan tuỳ theo chức năng của mình ra thông tư
hướng dẫn thể thức cụ thể thi hành các chế độ, chính sách nói trên.
IV. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
Việc tinh giản biên chế hành
chính là một công tác khó khăn, phức tạp. Thủ trưởng các ngành, các cấp phải nhận
thức đầy đủ ý nghĩa và yêu cầu của công tác quan trọng này để có quyết tâm và
có biện pháp thiết thực, cụ thể, kiên trì từng bước thì mới làm có kết quả. Phải
coi trọng công tác chính trị, tư tưởng, giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức
nêu cao tinh thần cách mạng, có thái độ tự giác và ý thức kỷ luật cao để bất kỳ
ở cương vị công tác nào, dù làm việc ở cơ quan, xuống cơ sở sản xuất hay nghỉ
việc theo chế độ bảo hiểm xã hội, cũng sẵn sàng đem hết sức mình cống hiến nhiều
nhất cho xã hội.
Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng trực
tiếp chỉ đạo vấn đề này và giao trách nhiệm cho các ngành như sau:
1. Thủ trưởng các ngành ở Trung
ương và chủ tịch Uỷ ban nhân dân các địa phương chịu trách nhiệm trực tiếp chỉ
đạo việc tinh giản biên chế hành chính ở ngành và địa phương mình. Trong quá
trình tiến hành, nếu gặp khó khăn hoặc mắc míu gì thì báo cáo kịp thời lên Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng xét và quyết định.
2. Bộ Tài chính phối hợp với Bộ
Lao động nghiên cứu xây dựng chính sách tiết kiệm biên chế, khoán quỹ lương có
thưởng cho các ngành, các cấp trình Hội đồng Bộ trưởng xem xét trong quý I năm
1982.
3. Tiểu ban nghiên cứu xây dựng
danh mục và tiêu chuẩn nghiệp vụ viên chức Nhà nước nghiên cứu, xây dựng danh mục
và tiêu chuẩn nghiệp vụ viên chức Nhà nước trình Hội đồng Bộ Trưởng ban hành
trong quý I năm 1982.
4. Ban tổ chức của Chính phủ
cùng với các Bộ và các địa phương nghiên cứu xây dựng mức biên chế tạm thời cho
các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước trình Hội đồng Bộ Trưởng ban hành trong
quý I năm 1982.
5. Bộ ngoại giao nghiên cứu lại
tổ chức ở các Đại sứ quán để trình Hội đồng Bộ Trưởng thông qua mô hình tổ chức
thống nhất, tinh giản biên chế đồng thời bảo đảm quản lý mọi hoạt động của các
ngành ở ngoài nước được tập trung và kịp thời khắc phục những hiện tượng tiêu cực
trong quá trình mở rộng quan hệ với các nước ngoài. (xong quý I năm 1982)
6. Các Bộ, Tổng cục có trách nhiệm
chủ động quan hệ với các cơ quan liên quan có phương án giải quyết kịp thời
ngay từ quý I năm 1982 những việc ghi trong nghị quyết này để công tác tinh giản
biên chế hành chính ở Bộ, Tổng cục mình tiến hành được thuận lợi trong năm
1982.
7. Đồng thời với công tác tình
giản biên chế hành chính ở cơ quan, các Bộ, Tổng cục bàn thống nhất với các tỉnh
và thành phố trực thuộc Trung ương sắp xếp lại hệ thống tổ chức quản lý tinh giản
biên chế hành chính ngành từ Trung ương đến huyện (xong quý II năm 1982)
8. Việc tinh giản biên chế hành
chính của các cơ quan Đảng và đoàn thể quần chúng sẽ do Ban tổ chức Trung ương
trình Ban bí thư duyệt.
9. Để giúp Hội đồng Bộ trưởng
theo dõi và đôn đốc việc tinh giản biên chế hành chính và thực hiện kế hoạch
biên chế hành chính năm 1982 (do Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước sau khi làm việc với
Ban tổ chức của Chính phủ trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành) ở các ngành, các cấp,
Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng phân công đồng chí Đặng Thí, Bộ trưởng Tổng thư ký
Hội đồng Bộ trưởng phụ trách giải quyết công việc hàng ngày, có đồng chí Trịnh
Nguyên, phó Ban tổ chức của Chính phủ giúp việc và sử dụng bộ phận chuyên trách
của Ban làm thường trực.
Trong quá trình thực hiện công
tác nói trên, cần kết hợp với Ban tổ chức Trung ương Đảng và Tổng công đoàn để
cùng tiến hành việc tinh giản biên chế hành chính làm cho bộ máy quản lý Nhà nước
có hiệu lực và phục vụ cho Ban chỉ đạo Trung ương về thực hiện Nghị quyết 32
(ngày 20 tháng 11 năm 1981) của Bộ Chính trị về công tác tổ chức nhằm tăng cường
lãnh đạo và quản lý, nhất là về kinh tế ở các ngành Trung ương và các địa
phương.