CHÍNH
PHỦ
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
152/NQ-CP
|
Hà
Nội, ngày 03 tháng 12 năm 2021
|
NGHỊ QUYẾT
PHIÊN HỌP CHUYÊN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG PHÁP LUẬT THÁNG 11 NĂM 2021
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015;
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức
Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019
Căn cứ Nghị định số 138/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2016 của
Chính phủ ban hành Quy chế làm việc của Chính phủ;
Trên cơ sở thảo luận của các
Thành viên Chính phủ và kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Phiên họp chuyên đề
về xây dựng pháp luật, tổ chức vào ngày 18 tháng 11 năm 2021,
QUYẾT NGHỊ:
Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng
pháp luật, ưu tiên hoàn thiện thể chế, thực hiện một trong ba đột phá chiến lược
theo Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XIII và chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Kết
luận số 19-KL/TW ngày 14 tháng 10 năm 2021 về
Đề án Định hướng Chương trình xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV.
Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật, ưu tiên dành các nguồn lực
cao nhất về cơ sở vật chất, kinh phí và cán bộ, chuyên gia có kinh nghiệm cho
công tác xây dựng thể chế, pháp luật; có giải pháp hiệu quả nâng cao chất lượng
văn bản quy phạm pháp luật. Cần đẩy nhanh tiến độ sửa đổi, bổ sung các quy định
pháp luật hiện hành đang gây cản trở, vướng mắc cho sự phát triển kinh tế, xã hội,
hoàn thiện hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, minh bạch,
tính ổn định và khả thi cao. Đồng thời, tăng cường chỉ đạo nâng cao hiệu quả tổ
chức thi hành pháp luật, đặc biệt là tuyên truyền phổ biến pháp luật đến người
dân và doanh nghiệp.
Các bộ, cơ quan có trách nhiệm xây dựng pháp luật
cần khắc phục tình trạng luật thiếu ổn định, “luật khung, luật ống”, chậm ban
hành văn bản quy định chi tiết; chống tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật,
không để xảy ra tình trạng lồng ghép lợi ích cục bộ của cơ quan quản lý nhà nước
trong văn bản pháp luật. Trong quá trình soạn thảo văn bản, cần quán triệt quan
điểm tăng cường phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát, cá thể hóa
trách nhiệm; tăng cường công khai, minh bạch, bảo đảm dân chủ trong quá trình
soạn thảo văn bản, lấy ý kiến, đặc biệt là đối tượng chịu sự tác động, lấy người
dân làm trung tâm, là chủ thể tham gia xây dựng chính sách, pháp luật, đồng thời
cũng là người thụ hưởng chính sách, pháp luật; đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước, thị
trường và xã hội, chủ động hội nhập quốc tế.
Chính phủ quyết nghị các nội dung cụ thể như
sau:
1. Về Đề nghị xây dựng Luật
giá (sửa đổi):
Chính phủ cơ bản thống nhất về sự cần thiết, mục
tiêu, quan điểm sửa đổi Luật giá. Bộ Tài
chính chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên
quan tiếp thu đầy đủ ý kiến của các Thành viên Chính phủ, hoàn thiện nội dung
các chính sách trong Đề nghị xây dựng Luật theo hướng:
- Tăng cường phân công, phân cấp và cá thể hóa
trách nhiệm trong công tác quản lý, điều hành giá, cần phân định rõ trách nhiệm
quản lý, giám sát về giá giữa Chính phủ với các bộ, ngành, địa phương, giữa Bộ
Tài chính với các bộ và địa phương; hoàn thiện các chính sách bảo đảm xử lý hài
hòa mối quan hệ giữa thị trường với quản lý, điều tiết của Nhà nước về giá; tôn
trọng quy luật cung - cầu, bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp.
- Hoàn thiện chính sách về Danh mục hàng hóa, dịch
vụ do Nhà nước định giá, bình ổn giá theo hướng phân cấp cho Chính phủ, vừa bảo
đảm chặt chẽ, vừa linh hoạt, phù hợp với thực tế quản lý, điều hành nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong từng thời kỳ. Chính sách về bình ổn
giá cần khắc phục được những hạn chế hiện nay, tạo công cụ pháp lý đầy đủ, hiệu
quả cho công tác kiểm soát lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội và phục vụ cho công
tác quản lý, điều hành giá.
- Cần phân định thẩm
quyền quản lý nhà nước về giá, hướng dẫn, ban hành phương pháp định giá, xử lý
được những khó khăn, vướng mắc hiện nay trong quản lý giá chuyên ngành của các
bộ, cơ quan, đảm bảo tính khả thi theo hướng: Bộ Tài chính giúp Chính phủ thống
nhất quản lý nhà nước về giá; chịu trách nhiệm ban hành phương pháp định giá
chung đảm bảo áp dụng chung; chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành ban hành văn bản
hướng dẫn áp dụng phương pháp định giá chung có tính chất chuyên ngành trên cơ
sở đề xuất từ các bộ, ngành; các bộ, ngành chủ trì xây dựng các phương pháp định
giá có tính đặc thù cần phải có phương pháp chuyên ngành riêng.
- Các chính sách về thẩm định giá nhà nước, quản
lý doanh nghiệp thẩm định giá, thẩm định viên về giá cần ngăn chặn, xử lý được
tình trạng thông đồng trong thẩm định giá, quản lý chặt chẽ hoạt động của các
doanh nghiệp thẩm định giá, phòng chống tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm,
lãng phí tài sản nhà nước trong thẩm định giá, bảo đảm tính công khai, minh bạch
và khả thi.
- Hoàn thiện chính sách về biện pháp kê khai giá
là biện pháp quản lý, theo dõi, năm bắt thông tin hiệu quả về giá; tiếp tục đổi
mới về quy trình, thủ tục quản lý, giám sát việc niêm yết giá, công khai thông
tin về giá, công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật
và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm theo quy định pháp luật.
- Hoàn thiện, bổ sung lập luận và giải trình
thuyết phục các đề xuất chính sách và Báo cáo đánh giá tác động, bảo đảm các
chính sách có tính khả thi, khắc phục được những tồn tại, hạn chế và bảo đảm sự
đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật về giá.
Giao Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Tư pháp hoàn
thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật theo đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Giao Bộ
trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Ủy
ban Thường vụ Quốc hội đề nghị bổ sung dự án Luật này vào Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh năm 2022 để trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ tư, Quốc hội
khóa XV.
2. Về Đề nghị xây dựng Luật
bảo hiểm y tế (sửa đổi):
Chính phủ thống nhất về sự cần thiết, mục tiêu,
quan điểm sửa đổi Luật bảo hiểm y tế. Bộ Y tế
chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan
tiếp thu đầy đủ ý kiến của các Thành viên Chính phủ, khẩn trương hoàn thiện các
nội dung chính sách theo hướng:
- Thể chế hóa đầy đủ quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ XIII về an sinh xã hội và Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Hội nghị
lần thứ VI Ban chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe Nhân dân trong tình hình mới. Các chính sách bảo hiểm y tế cần
bảo đảm nguyên tắc đóng - hưởng và chia sẻ rủi ro, tính đúng, tính đủ theo hướng:
đa dạng các gói bảo hiểm y tế, có sự phân tầng phù hợp với điều kiện kinh tế,
xã hội Việt Nam; bảo đảm an sinh xã hội; thúc đẩy phát triển bảo hiểm y tế;
khuyến khích, tạo điều kiện cho hệ thống y tế cơ sở, y tế tư nhân phát triển để
giảm tải cho bệnh viện tuyến trên; nâng cao năng lực chăm sóc sức khỏe Nhân
dân; đẩy mạnh hiện đại hóa, ứng dụng công nghệ thông tin, thống nhất ứng dụng về
nền tảng công nghệ; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát có phân cấp,
phân quyền khoa học, hiệu quả, đồng bộ với Luật
khám bệnh, chữa bệnh.
- Hoàn thiện chính sách về phân bổ, sử dụng, quản
lý Quỹ bảo hiểm y tế hiệu quả để xây dựng các giải pháp cụ thể, giải quyết
tổng thể các vấn đề phù hợp với mục đích và nội dung của chính sách này, bảo đảm
chặt chẽ, minh bạch của các quy định pháp luật, tránh bị lạm dụng, tiêu cực, trục
lợi trong thực thi chính sách. Rà soát các chính sách trong Đề nghị xây dựng Luật,
không quy định thành lập tổ chức bộ máy, không tăng biên chế theo đúng yêu cầu
xây dựng Luật hiện nay.
- Trên cơ sở nội dung tổng kết thi hành Luật hiện
hành, Bộ Y tế đánh giá tác động kỹ lưỡng, đầy đủ, nghiên cứu, tiếp thu ý kiến
các nhà khoa học, chuyên gia và đối tượng chịu sự điều chỉnh, có giải pháp để bảo
đảm tính khả thi, khoa học, bảo đảm khả thi đối với ngân sách nhà nước.
Giao Bộ Y tế phối hợp với Bộ Tư pháp hoàn thiện
hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật theo đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Giao
Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ
trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị bổ sung dự án Luật này vào Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022 để trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 Quốc hội
khóa XV.
3. Đề nghị xây dựng Luật bảo
hiểm xã hội (sửa đổi):
Chính phủ thống nhất về sự cần thiết, mục tiêu,
quan điểm sửa đổi Luật bảo hiểm xã hội. Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng
Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu đầy đủ ý kiến của các Thành viên
Chính phủ, khẩn trương hoàn thiện các nội dung chính sách theo hướng:
- Nội dung các chính sách cần tiếp tục rà soát,
bám sát Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23 tháng
5 năm 2018 của Hội nghị lần thứ VII Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII về cải
cách chính sách bảo hiểm xã hội và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ
XIII về các chính sách an sinh xã hội. Chủ động truyền thông và lấy ý kiến
góp ý của các cơ quan, tổ chức có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học, đặc
biệt là ý kiến của đối tượng chịu sự tác động để tiếp nhận ý kiến đa chiều, đặc
biệt là các vấn đề nhạy cảm; chắt lọc kinh nghiệm quốc tế để hoàn thiện chính
sách, đề xuất các giải pháp phù hợp, khả
thi, đáp ứng đầy đủ mục tiêu tăng cường an sinh xã hội,
tuân thủ pháp luật, ngăn chặn kịp thời tình trạng gian lận, trục lợi chính sách
bảo hiểm xã hội, hạn chế việc trốn đóng, đặc biệt là hạn chế tình trạng chậm
đóng thời gian dài dẫn đến không có khả năng thu, nộp, bảo đảm quyền tham gia
và thụ hưởng bảo hiểm xã hội cho người lao động trong bối cảnh hiện nay.
- Giao Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội chủ
trì, phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các bộ, cơ quan liên quan tiến
hành tổng kết Nghị quyết số 93/2015/QH13 của
Quốc hội ngày 22 tháng 6 năm 2015 về thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội một lần
đối với người lao động, khắc phục hạn chế do quy định hiện hành, tháo gỡ những
khó khăn chưa phù hợp với thực tiễn, đề xuất các giải pháp chính sách linh hoạt,
phù hợp với điều kiện của Việt Nam, vừa đáp ứng yêu cầu của người lao động khi
gặp khó khăn phải rút bảo hiểm xã hội một lần, vừa bảo đảm an sinh xã hội bền vững
khi người lao động đến tuổi nghỉ hưu.
Giao Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp
với Bộ Tư pháp hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật theo đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Giao
Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ
trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị đưa dự án Luật vào Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh năm 2023 để trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XV.
4. Về Đề nghị xây dựng Luật
giao dịch điện tử (sửa đổi):
Chính phủ cơ bản thống nhất về sự cần thiết,
quan điểm, mục tiêu sửa đổi Luật Giao dịch điện tử
nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về chủ động tham gia cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư; khắc phục các vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành Luật
để có các chính sách mới phù hợp; đồng thời không để khoảng trống pháp lý vì các công nghệ mới phát triển rất nhanh đang tác động đến hầu hết các
lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội; thúc đẩy các giao dịch điện tử tin cậy,
an toàn, phù hợp với thông lệ quốc tế để thực hiện nhanh hơn và hiệu quả hơn
quá trình chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số.
Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với
Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan có liên quan tiếp thu đầy đủ ý
kiến Thành viên Chính phủ, hoàn thiện nội dung các chính sách trong Đề nghị xây
dựng Luật theo hướng:
- Thống nhất mở rộng phạm vi điều chỉnh các giao
dịch điện tử trong giao dịch thương mại, dân sự, kinh tế, tạo khung pháp lý ổn
định cho các hoạt động giao dịch điện tử được áp dụng rộng rãi, nhưng cũng cần
đánh giá kỹ tác động về phạm vi các loại giao dịch điện tử để bảo đảm tính khả
thi, kiểm soát được.
- Hoàn thiện các chính sách bảo đảm các giao dịch
điện tử an toàn, tin cậy, có giá trị pháp lý, thúc đẩy mạnh hơn nữa
ứng dụng công nghệ thông tin trong các giao dịch của các cơ quan nhà nước và
các tổ chức, cá nhân, đặc biệt cần tháo gỡ các vướng mắc về các cơ sở dữ
liệu chuyên ngành, dữ liệu về thông tin cá nhân trong việc thực hiện các thủ tục
hành chính, dịch vụ công trên môi trường mạng; có lộ trình và giải pháp khả thi
để thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước.
- Các chính sách về quản lý dữ liệu số, nền tảng
số, dịch vụ số trực tuyến cần được phân tích kỹ tác động, phù hợp với phạm vi
điều chỉnh của Luật này, tập trung vào các chính sách quản lý
giao dịch điện tử trên nền tảng số, dịch vụ số và giao dịch trực tuyến, hạn
chế các tác động tiêu cực của các dịch vụ này đến sự phát triển kinh tế, xã hội. Các chính sách cụ thể cần được dự báo phù hợp với xu hướng phát triển
trên thế giới, phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam, thống nhất với pháp
luật hiện hành và tránh chồng lấn về trách nhiệm quản lý nhà nước của các bộ,
ngành. Rà soát các chính sách về nền tảng lớn, nền tảng đặc thù, nền tảng của
nước ngoài sử dụng tại Việt Nam và có giải pháp tháo gỡ các vướng mắc về pháp
lý, quy định chặt chẽ, thống nhất với pháp luật có liên quan.
- Rà soát các chính sách cụ thể trong Đề cương dự
thảo Luật, làm rõ mối quan hệ của luật này với các luật có liên quan, hoàn thiện
Báo cáo đánh giá tác động, bảo đảm tính khả thi của các chính sách mới, phù hợp
với phạm vi điều chỉnh của luật và tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp
luật.
Giao Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Bộ
Tư pháp hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật theo đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Giao
Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ
trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị bổ sung dự án Luật vào Chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh năm 2022 để trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ ba, Quốc hội
khóa XV.
5. Về Đề nghị xây dựng Luật
lưu trữ (sửa đổi):
Chính phủ cơ bản thống nhất về sự cần thiết,
quan điểm, mục tiêu xây dựng Luật Lưu trữ (sửa đổi) nhằm khắc phục vướng mắc, bất
cập trong thực tiễn thi hành Luật, thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng và
Nhà nước về đổi mới công tác lưu trữ trong điều kiện mới, đặc biệt là tăng cường
ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa các tài liệu, tư liệu lưu trữ phù hợp với
định hướng phát triển Chính phủ số, xã hội số.
Bộ Nội Vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn
phòng Chính phủ và các cơ quan có liên quan tiếp thu đầy đủ ý kiến Thành viên
Chính phủ, hoàn thiện nội dung các chính sách trong Đề nghị xây dựng Luật theo
hướng:
- Thống nhất về phạm vi điều chỉnh theo hướng mở
rộng lưu trữ tư nhân, tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động lưu trữ; hoàn thiện chính sách về quản lý dịch vụ lưu trữ tư, trưng mua,
trưng dụng tài liệu lưu trữ theo hướng hài hòa lợi ích giữa Nhà
nước, các tổ chức và cá nhân trong quản lý, kinh doanh, chia sẻ dữ liệu, tài liệu
lưu trữ phù hợp với Hiến pháp, Luật trưng
mua, trưng dụng tài sản và pháp luật có liên quan, đồng thời bảo vệ quyền
sở hữu tài sản của công dân. Việc lưu trữ lịch sử nhận ký gửi và thu phí ký gửi
tài liệu lưu trữ tư cần phù hợp với mục đích khuyến khích chủ sở hữu tài liệu bảo
vệ, giữ gìn và phát huy giá trị tài liệu lưu trữ tư.
- Hoàn thiện chính sách về sự tham gia của doanh
nghiệp trong lưu trữ tài liệu điện tử nhằm bảo đảm an ninh, an toàn, tính đầy đủ,
kịp thời trong việc lưu trữ, chia sẻ dữ liệu; xác định rõ các tiêu chí, tiêu
chuẩn thẩm định, trách nhiệm của các doanh nghiệp, của cơ quan thẩm định, bảo đảm
khách quan, công khai, công bằng trong công tác thẩm định, công nhận các doanh
nghiệp đủ điều kiện cho thuê dịch vụ lưu trữ tài liệu. Việc bổ sung hoạt động
kinh doanh dịch vụ lưu trữ vào Danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện và
thu lệ phí đối với hoạt động dịch vụ lưu trữ cần đồng bộ với quy định của Luật Đầu tư và Luật
Phí và lệ phí để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
- Về việc thay đổi thẩm quyền cấp Chứng chỉ hành
nghề lưu trữ từ Sở Nội vụ về Bộ Nội vụ, đề nghị Bộ Nội vụ làm rõ sự cần thiết,
cơ sở khoa học, thực tiễn phải thay đổi thẩm quyền này, nhất là trong điều kiện
Chính phủ đang đẩy mạnh phân cấp trong việc giải quyết các thủ tục hành chính.
- Nghiên cứu, rà soát nội dung các chính sách
khai thác, chia sẻ sử dụng tài liệu, tư liệu lưu trữ theo hướng vừa bảo đảm
phát huy tối đa giá trị của tài liệu, tư liệu lưu trữ, vừa bảo đảm quản lý nhà
nước, xử lý hài hòa mối quan giữa Nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực
lưu trữ.
Giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối
hợp với Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan, chỉnh lý Báo cáo đánh giá tác động,
hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật; giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền
Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội đưa dự
án Luật vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023 để trình Quốc hội tại
Kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa XV.
6. Về Đề nghị xây dựng Luật
phòng, chống rửa tiền (sửa đổi):
Chính phủ thống nhất về sự cần thiết, mục tiêu,
quan điểm sửa đổi Luật phòng, chống rửa tiền,
nhằm nâng cao hiệu quả về công tác phòng, chống
rửa tiền, giảm thiểu rủi ro; đồng thời đáp ứng các yêu cầu, khuyến nghị của các
tổ chức quốc tế về phòng, chống rửa tiền, thúc đẩy công
tác đấu tranh phòng, chống tội phạm rửa tiền, giảm thiểu
các hoạt động tội phạm rửa tiền, gian lận thuế, tham nhũng, góp phần thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội, tạo lập môi trường xã hội an toàn.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với
Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu đầy đủ ý kiến
của các Thành viên Chính phủ, hoàn thiện nội dung các chính sách trong Đề nghị
xây dựng Luật theo hướng:
- Hoàn thiện các quy định về đối
tượng báo cáo phòng chống rửa tiền theo hướng chỉ quy
định những vấn đề đã được xác định rõ ràng, đầy đủ các nguyên tắc, tiêu chuẩn,
điều kiện để triển khai thực hiện; giao Chính phủ quy định những vấn đề cấp bách,
trường hợp đặc biệt Chính phủ sẽ báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định; quy định
cụ thể các biện pháp phòng ngừa mà các đối tượng báo cáo phải thực hiện;
sửa đổi, bổ sung các biện pháp phòng ngừa mà các cơ quan có thẩm quyền có trách
nhiệm áp dụng.
- Hoàn thiện các chính sách về đánh giá rủi ro rửa tiền quốc gia, ngành, đối tượng báo cáo; trách nhiệm của cơ quan có
thẩm quyền, đối tượng báo cáo trong việc thực hiện định kỳ đánh giá rủi ro rửa
tiền; phân loại khách hàng trên cơ sở rủi ro; các biện pháp nhận biết và cập nhật
thông tin khách hàng, giảm nhẹ hoặc tăng cường phù hợp với nhóm khách hàng,
lĩnh vực có rủi ro thấp hoặc cao về rửa tiền.
- Hoàn thiện các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện công tác phòng, chống rửa tiền của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam thông qua việc sửa đổi, bổ sung các quy định về thu thập, xử
lý, chuyển giao và trao đổi thông tin về phòng, chống rửa tiền và đơn vị đầu mối
thực hiện chức năng phòng, chống rửa tiền thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, khắc
phục những bất cập, hạn chế trong công tác phòng, chống rửa tiền của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam nhưng cũng không gây cản trở đến hoạt động bình thường của
các tổ chức và cá nhân. Đồng thời với việc sửa đổi, bổ sung Luật phòng, chống rửa tiền, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam cần thúc đẩy có hiệu quả việc thực hiện Đề án và quy định pháp luật về
thanh toán không dùng tiền mặt, nhằm kiểm soát dòng tiền, hỗ trợ công tác
phòng, chống rửa tiền.
- Rà soát chính sách về trách nhiệm
của các bộ, ngành trong công tác phòng chống rửa tiền theo hướng phân định rõ vai trò, trách
nhiệm của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam quản lý liên quan đến tiền và vàng, các bộ, ngành quản lý các tài sản vật
chất, hàng hóa khác; đồng thời làm rõ trách nhiệm của các
bộ, cơ quan đối với các đối tượng báo cáo mới, phù hợp với chức năng quản lý nhà nước của các bộ, ngành và bảo đảm thống nhất với pháp luật có liên quan.
Giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
phối hợp với Bộ Tư pháp hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng dự án Luật. Giao Bộ
trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Tờ
trình Quốc hội về việc bổ sung dự án Luật này vào Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh năm 2022, trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XV./.
Nơi nhận:
- Ban Bí thư Trung ương Đảng;
- Thủ tướng, các Phó Thủ tướng Chính phủ;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- HĐND, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Văn phòng TW và các Ban của Đảng;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Hội đồng Dân tộc và các UB của Quốc hội;
- Văn phòng Quốc hội;
- Tòa án nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Kiểm toán Nhà nước;
- Ngân hàng Chính sách Xã hội;
- Ngân hàng Phát triển Việt Nam;
- Ủy ban TW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Cơ quan Trung ương của các đoàn thể;
- VPCP: BTCN, các PCN,
Trợ lý, Thư ký TTg, các PTTg;
các Vụ, Cục, đơn vị trực
thuộc, TGĐ Cổng TTĐTCP;
- Lưu: VT, PL (3b).
|
TM. CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG
Phạm Bình Minh
|