HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
217-CP
|
Hà
Nội, ngày 08 tháng 6 năm 1979
|
NGHỊ ĐỊNH
CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ SỐ 217-CP NGÀY 8/6/1979 BAN HÀNH BẢN
QUY ĐỊNH VỀ CHẾ ĐỘ TRÁCH NHIỆM, CHẾ ĐỘ KỶ LUẬT, CHẾ ĐỘ BẢO VỆ CỦA CÔNG VÀ CHẾ ĐỘ
PHỤC VỤ NHÂN DÂN CỦA CÁN BỘ, NHÂN VIÊN VÀ CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Để tăng cường hơn nữa chế độ
trách nhiệm, chế độ kỷ luật, tăng cường bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và nâng
cao ý thức phục vụ nhân dân của cán bộ, nhân viên Nhà nước;
Căn cứ vào điều 73 của Hiến pháp năm 1959;
Căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ ngày 14-7-1960;
Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong các phiên họp ngày 11
tháng 5 năm 1979 và ngày 24 tháng 5 năm 1979,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1:
Nay ban hành kèm theo nghị định này bản Quy định của Hội đồng Chính phủ về chế
độ trách nhiệm, chế độ kỷ luật, chế độ bảo vệ của công và chế độ phục vụ nhân
dân của cán bộ, nhân viên và cơ quan Nhà nước.
Điều 2:
Đồng chí Bộ trưởng Phủ thủ tướng, các đồng chí bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ và các cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, chủ tịch Uỷ ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm tổ chức thi hành nghị
định này trong tất cả các cơ quan Nhà nước thuộc các ngành, các cấp.
QUY ĐỊNH
CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ VỀ "CHẾ ĐỘ TRÁCH NHIỆM, CHẾ ĐỘ KỶ
LUẬT, CHẾ ĐỘ BẢO VỆ CỦA CÔNG VÀ CHẾ ĐỘ PHỤC VỤ NHÂN DÂN" CỦA CÁN BỘ, NHÂN
VIÊN VÀ CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
(Ban hành kèm theo Nghị định số 217-CP ngày 8/6/1979 của Hội đồng Chính phủ)
Để giáo dục cán bộ, nhân viên
Nhà nước có ý thức phục vụ nhân dân, ra sức rèn luyện đạo đức cách mạng, hăng
hái làm tròn nhiệm vụ, thực hiện "cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô
tư" xứng đáng là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Để đề cao pháp chế xã hội chủ
nghĩa, đề cao trách nhiệm và kỷ luật, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước
chuyên chính vô sản, Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Để ngăn ngừa và đấu tranh khắc
phực có hiệu quả những hàng động vố trách nhiệm, vô kỷ luật, xâm phạm tài sản
công cộng và thiếu ý thức phục vụ nhân dân, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam.
Hội đồng Chính phủ quy định
"Chế độ trách nhiệm, chế độ kỷ luật, chế độ bảo vệ của công và chế độ phục
vụ nhân dân" của cán bộ, nhân viên và cơ quan Nhà nước như sau:
I. CHẾ ĐỘ
TRÁCH NHIỆM
Điều 1: -
Mọi tổ chức, mỗi cán bộ, nhân viên Nhà nước từ người lãnh đạo, quản lý đến người
thừa hành trong thời bình cũng như thời chiến, đều chịu trách nhiệm về công việc
của mình:
1. Thực hiện đúng chức năng được
giao, quán triệt đường lối của Đảng, chủ trương chính sách của Chính phủ, hoàn
thành tốt các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, các chương trình và kế hoạch công
tác, những công việc cụ thể do cấp có thẩm quyền giao phó.
2. Tôn trọng và chấp hành nghiêm
chỉnh các luật lệ, chế độ của Nhà nước, các nội quy, thể lệ, chế độ công tác của
cơ quan, đơn vị, các quy định trong đời sống tập thể.
3. Bảo đảm chất lượng và hiệu quả
của công việc mà mình có trách nhiệm thực hiện.
4. Giữ gìn bí mật Nhà nước về
chính trị, kinh tế kỹ thuật, quốc phòng, bảo vệ cơ sở, chống địch phá hoại.
Điều 2:
Người đứng đầu cơ quan Nhà nước, từ cấp trung ương đến các đơn vị cơ sở, chịu
trách nhiệm về công việc của mình trên các mặt sau đây:
1. Thực hiện đúng đắn và đầy đủ
quyền hạn, chức trách, nhiệm vụ của mình, đồng thời bảo đảm cho cơ quan, đơn vị
và cán bộ, nhân viên thuộc quyền, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ được giao.
2. Căn cứ luật pháp của Nhà nước
mà quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của ngành, địa phương, cơ
quan, đơn vị cho đến từng bộ phận, từng người thuộc quyền mình quản lý. Tuyệt đối
không được để cho ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị mình quản lý không có
trách nhiệm rõ ràng.
3. Bảo đảm cho các chủ trương,
chính sách, kế hoạch Nhà nước được thực hiện kịp thời và có chất lượng trong
ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị mình.
4. Quản lý và sử dụng có hiệu quả
lực lượng cán bộ, lao động, đất đai, thiết bị, vật tư, tiền vốn... mà Nhà nước
đã giao cho ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị mình. Khi điều động, sử dụng,
các nguồn lao động, vật tư, tài chính, người thủ trưởng phải ra lệnh bằng văn bản
và phải chịu trách nhiệm về lệnh ấy; nếu để xảy ra lãng phí, mất cắp, hư hỏng,
mất mát thì phải chịu trách nhiệm.
5. Trong phạm vi quyền hạn được
giao, quyết định các chủ trương biện pháp cần thiết để bảo đảm hoàn thành các
nhiệm vụ của ngành, địa phương, cơ quan đơn vị, đồng thời phải chịu trách nhiệm
về các quyết định đó. Trong phạm vi thẩm quyền và theo sự phân cấp quản lý của
Nhà nước, phải bảo đảm an toàn lao động, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của
cán bộ, công nhân, nhân viên thuộc quyền mình quản lý.
6. Chấp hành nghiêm chỉnh những
quy định của Nhà nước về chế độ hợp đồng kinh tế và chế độ hợp tác xã hội chủ
nghĩa với các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị khác, phải chịu trách nhiệm nếu
cơ quan đơn vị mình vi phạm hợp đồng đã ký kết hoặc không làm được phần việc mà
cơ quan, đơn vị mình có nhiệm vụ hợp tác.
7. Bảo đảm thực hiện đúng chính
sách của Đảng và Nhà nước trong việc nhận xét, đánh giá và quyết định việc khen
thưởng, đề bạt, xử phạt các cán bộ, nhân viên thuộc quyền mình quản lý.
8. Tôn trọng sự lãnh đạo của tập
thể cấp uỷ Đảng hoặc ban cán sự Đảng, tôn trọng các quy định của Nhà nước về
quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của công nhân, viên chức cũng như của
nhân dân lao động, đồng thời thực hiện đúng chế độ thủ trưởng, sử dụng đúng quyền
hạn quản lý của mình đã được pháp luật quy định.
Điều 3: -
Cán bộ nhân viên Nhà nước làm công việc sản xuất kinh doanh chịu trách nhiệm về
công việc của mình trên các mặt sau đây:
1. Thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ
sản xuất - kinh doanh, đạt chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước; thực hiện đúng các quy
trình, quy phạm kỹ thuật, đem lại năng suất lao động cao, chất lượng sản phẩm tốt,
đạt hiệu quả kinh tế cao, bảo đảm an toàn cho người và tài sản của Nhà nước.
2. Bảo đảm chất lượng sản xuất,
xây dựng hoặc kiểm nghiệm, giao nhận các sản phẩm hoặc các công trình xây dựng
mà mình có nhiệm vụ thực hiện, kể cả trường hợp sau khi sản phẩm hoặc công
trình đưa vào sử dụng mới phát hiện ra các thiếu sót.
3. Bảo đảm quản lý và sử dụng tốt
lao động và các phương tiện, máy móc, thiết bị, vật tư, tiền vốn..., mà Nhà nước
đã giao cho mình để đạt hiệu quả, công suất, năng suất quy định; không để xảy
ra lãng phí, mất mát, hư hỏng.
Thực hiện đúng chế độ kinh
doanh, hạch toán kinh tế và chế độ hợp đồng kinh tế.
Điều 4: -
Cán bộ, nhân viên làm công tác nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, thiết kế chịu
trách nhiệm, nhiệm vụ công việc của mình trên các mặt sau đây:
1. Hoàn thành đầy đủ, đúng kỳ hạn
các công trình nghiên cứu, thực hiện và ứng dụng khoa học - kỹ thuật, các công
trình sản xuất thử, các đề án và bản vẽ thiết kế v.v... do người có thẩm quyền
giao.
2. Chịu trách nhiệm về hiệu quả
và chất lượng các công việc về khoa học kỹ thuật mà mình đã làm theo như điểm 2
của điều 3 quy định.
Điều 5: -
Nguyên tắc xác định các vụ vi phạm chế độ trách nhiệm.
1. Phải căn cứ vào chức năng,
nhiệm vụ đã quy định cho từng tổ chức, từng bộ phận, từng cá nhân có liên quan
và căn cứ vào các điều trong bản quy định này, để xác định phạm vi và mức độ
trách nhiệm của từng tổ chức, từng bộ phận và từng người, kể cả người có trách
nhiệm ở cơ quan quản lý cấp trên, hoặc ở ngành khác có liên quan.
2. Trường hợp gặp thiên tai, địch
họa, hoặc các loại tai nạn khác, cán bộ, nhân viên đã cố gắng khắc phục khó
khăn nhưng vẫn không hoàn thành nhiệm vụ, thì được miễn hoặc giảm trách nhiệm;
mức độ miễn, giảm do cơ quan có thẩm quyền xét và quyết định.
3. Trong các trường hợp sau đây,
các tổ chức và cá nhân cán bộ, nhân viên không hoàn thành nhiệm vụ sẽ bị xử lý
nặng hơn.
- Cấp trên hoặc quần chúng đã
phát hiện sở hở hoặc thiếu sót và góp ý kiến giải quyết mà đương sự không có biện
pháp có hiệu lực để khắc phục kịp thời những sơ hở, thiếu sót ấy.
- Đương sự đã bị xử phạt về vi
phạm chế độ trách nhiệm mà lại tái phạm.
4. Thủ trưởng hoặc người đứng đầu
các ngành, các địa phương, các cơ quan, đơn vị phải liên đới chịu trách nhiệm
trong những trường hợo sau đây:
- Để cho cán bộ, nhân viên thuộc
quyền quản lý của mình vi phạm nghiêm trọng chế độ trách nhiệm mà không biết hoặc
biết nhưng không có biện pháp kiên quyết và có hiệu lực để khắc phục.
- Không giao rõ nhiệm vụ, không
kiểm tra, đôn đốc cấp dưới thực hiện.
- Cấp dưới đã báo cáo, xin chỉ
thị, nhưng không sử dụng đầy đủ quyền hạn của mình để giải quyết.
5. Trong trường hợp người thủ
trưởng hoặc người đứng đầu ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị để cho người giúp
việc (phó), người đại diện hoặc người mình uỷ quyền làm sai chế độ, chính sách
hoặc làm hư hỏng những nhiệm vụ mà pháp luật đã giao cho mình, thì người thủ
trưởng hoặc người đứng đầu vẫn phải chịu trách nhiệm chủ yếu trước cơ quan quản
lý cấp trên.
II. CHẾ ĐỘ KỶ
LUẬT
Điều 6: -
Mọi tổ chức và cá nhân mỗi cán bộ, nhân viên Nhà nước bất kỳ thuộc cấp nào và ở
cương vị công tác nào, đều phải chấp hành nghiêm chỉnh chế độ kỷ luật của Nhà
nước.
Thủ trưởng hoặc người đứng đầu
các ngành, các địa phuơng, các cơ quan, đơn vị phải gương mẫu chấp hành chế độ
kỷ luật, đồng thời sử dụng đầy đủ quyền hạn của mình để bảo đảm chế độ kỷ luật
được thi hành đầy đủ trong ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị mình.
Mọi cán bộ, nhân viên phải tự
giác chấp hành chế độ kỷ luật, đồng thời phải tích cực đấu tranh chống mọi biểu
hiện vi phạm chế độ kỷ luật.
Điều 7: -
Mọi tổ chức và cá nhân cán bộ, nhân viên Nhà nước phải nghiêm chỉnh chấp hành
các chế độ kỷ luật sau đây:
1. Nghiêm chỉnh chấp hành các luật
lệ, các chính sách, chế độ của Nhà nước do Quốc hội, Hội đồng Chính phủ, các Bộ,
các Uỷ ban nhân dân các cấp ban hành trong phạm vi thẩm quyền của mình theo quy
định của pháp luật.
2. Nghiêm chỉnh chấp hành các mệnh
lệnh về quốc phòng như: lệng tổng động viên, quân sự hoá và vũ trang toàn dân
v.v...
3. Nghiêm chỉnh thực hiện các
nhiệm vụ và các chỉ tiêu pháp lệnh của kế hoạch Nhà nước.
4. Nghiêm chỉnh chấp hành các chế
độ quản lý kinh tế của Nhà nước.
5. Nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật
lao động trong sản xuất và công tác.
6. Nghiên chỉnh chấp hành các nội
quy công tác do thủ trưởng cơ quan, đơn vị ban hành, các quy tắc sinh hoạt
trong đời sống xã hội và trong sinh hoạt tập thể.
7. Nghiêm chỉnh chấp hành các
quy định về bảo vệ bí mật Nhà nước
8. Nghiêm chỉnh chấp hành các
quy định của Nhà nước về quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân
lao động.
Điều 8: Các
ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị và cá nhân, mỗi cán bộ, nhân viên Nhà nước
phải tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiệm nghiêm túc chế độ thủ
trưởng trong các cơ quan Nhà nước. Cấp dưới phải thi hành nghiêm chỉnh các chỉ
thị, mệnh lệnh của cấp trên; mọi thành viên trong một cơ quan, đơn vị phải thi
hành các chỉ thị, mệnh lệnh của người thủ trưởng.
Trong các tổ chức được luật pháp
quy định nguyên tắc làm việc tập thể, thì mọi thành viên trong tổ chức phải chấp
hành đầy đủ các nghị quyết của tập thể.
Không ai được viện bất cứ lý do
gì để truyền đạt hướng dẫn sai lệch, nội dung các chính sách, chế độ, thể lệ hoặc
tự tiện thay đổi các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, tự tiện làm trái các chỉ thị,
mệnh lệnh của cấp trên hoặc của người thủ trưởng cơ quan, đơn vị mình.
Trường hợp người thi hành thấy
chính sách, chế độ, kế hoạch Nhà nước, chỉ thị mệnh lệnh... có điểm nào không
phù hợp với thực tế hoặc không đủ điều kiện thi hành, thì có quyền và có nghĩa
vụ đề nghị lên cấp có thẩm quyền giải thích, hướng dẫn hoặc điều chỉnh, bổ
sung, sửa đổi, nhưng trong khi chờ cấp trên quyết định thì vấn phải chấp hành
nghiêm chỉnh.
Cơ quan có thẩm quyền ở cấp
trên, hoặc thủ trưởng đơn vị phải trả lời các đề nghị của cấp dưới trong thời hạn
do luật pháp quy định. Trường hợp chưa được quy định, thì thời hạn trả lời chậm
nhất là 15 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị.
Điều 9:
Các ngành, các cấp phải nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật xin chỉ thị và báo cáo
theo đúng chế độ quy định.
Báo cáo phải rõ ràng, trung thực
và phải do người có thẩm quyền ký. Người báo cáo sai sự thật phải chịu trách
nhiệm về sự sai sót đó. Mọi hành vi cưỡng ép cán bộ, nhân viên cấp dưới báo
cáo, cung cấp tình hình và số liệu sai sự thật đều bị xử lý theo pháp luật.
III. CHẾ ĐỘ BẢO
VỆ CỦA CÔNG
Điều 10: -
Mọi tổ chức và cá nhân mỗi cán bộ, nhân viên Nhà nước đều có nghĩa vụ tôn trọng
và bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa.
1. Tự mình không xâm phạm, không
lãng phí tài sản xã hội chủ nghĩa và đấu tranh chống mọi hành vi xâm phạm lãng
phí tài sản xã hội chủ nghĩa, chấp hành nghiêm chỉnh chế độ quản lý, bảo vệ và
sử dụng tài sản xã hội chủ nghĩa.
2. Tài sản xã hội chủ nghĩa phải
được quản lý nghiêm ngặt ở tất cả các khâu: sản xuất, bảo quản, vận chuyển, lưu
thông, phân phối và tiêu dùng theo đúng chế độ, thể lệ của Nhà nước, nhằm sử dụng
đúng mục đích, tiết kiệm, đạt hiệu quả kinh tế cao.
Nơi nào hoặc lĩnh vực nào chưa
có chế độ, thể lệ, hoặc trong các chế độ, thể lệ có những sơ hở có thể dẫn đến
mất mát, hao hụt tài sản xã hội chủ nghĩa, thì người có trách nhiệm quản lý tài
sản phải xây dựng ngay chế độ, thể lệ quản lý hoặc sửa đổi, bổ sung chế độ, thể
lệ đã có.
3. Thủ trưởng hoặc người đứng đầu
các ngành, các địa phương, các cơ quan, đơn vị phải gương mẫu trong việc sử dụng
tài sản xã hội chủ nghĩa và phải thường xuyên giáo dục cho cán bộ, nhân viên
thuộc quyền quản lý của mình về ý thức tôn trọng của công, phổ biến các chế độ,
thể lệ, nội quy ấy.
Khi phát hiện tài sản thuộc
ngành, địa phương hay cơ quan, đơn vị mình bị hư hỏng, mất mát, không được bảo
quản chu đáo hoặc có hiện tượng tham ô, lãng phí, thì thủ trưởng hoặc người đứng
đầu các ngành, các địa phương, các cơ quan, đơn vị phải nhanh chóng tổ chức việc
điều tra có biện pháp xử lý thích đáng, không được bỏ qua, hoặc đưa đẩy việc điều
tra và xử lý cho cơ quan khác.
4. Nghiêm cấm mọi hành động tham
ô, trộm cắp hoặc sử dụng trái nguyên tắc đối với tài sản xã hội chủ nghĩa;
nghiêm cấm hành động bao che, dung túng người xâm phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa.
Điều 11:
Những cán bộ, nhân viên trực tiếp làm các công việc giao nhận, quản lý bảo vệ,
vận chuyển, phân phối tài sản xã hội chủ nghĩa có nhiệm vụ:
1. Chấp hành nghiêm chỉnh các
nguyê tắc, chế độ, thể lệ do Nhà nước quy định về bảo quản, giao nhận, vận chuyển,
phân phối, cấp phát vật tư, hàng hóa, tem phiếu, tiền bạc v.v...
Tuyệt đối không được phân phối,
cấp phát, giao nhận, xuất kho vận chuyển tài sản không đúng các nguyên tắc, chế
độ, thể lệ của Nhà nước.
2. Phải học tập để nắm vững kỹ
thuật, nghiệp vụ hoặc chế độ, thể lệ để chấp hành cho đúng, cho nghiêm chế độ bảo
vệ của công đã được quy định.
3. Khi xảy ra mất mát, hư hỏng
tài sản, hoặc thấy có sơ hở có thể dẫn đến mất mát, hư hỏng tài sản, thì người
giữ kho hoặc người bốc dỡ, vận chuyển, quản lý việc phân phối, cấp phát v.v...
phải báo cáo ngay cho người có trách nhiệm để có biện pháp xử lý.
4. Trong phạm vi trách nhiệm của
mình mọi người đều phải giữ gìn tài sản xã hội chủ nghĩa, không để xảy ra hư hỏng,
mất mát, trừ trường hợp hao hụt tự nhiên theo mức quy định. Người quản lý hoặc
vận chuyển tài sản chịu trách nhiệm về tình trạng mất mát, hư hỏng tài sản.
Điều 12:
Cán bộ nhân viên làm chức năng giám định và kiểm soát tài sản có nhiệm vụ:
1. Các cán bộ, nhân viên có chức
năng giám định và kiểm tra chất lượng sản phẩm, khi kiểm tra và thu nhận, phải
ghi rõ chất lượng tài sản, làm biên bản về những hàng không đúng quy định; phải
chịu trách nhiệm về tình trạng tài sản hư hỏng, thiếu hụt do lỗi ở khâu giám định,
kiểm tra chất lượng gây ra.
2. Cán bộ, nhân viên có chức
năng kiểm tra, kiểm soát nhằm ngăn ngừa các vụ xâm phạm tài sản xã hội chủ
nghĩa (như bảo vệ, hải quan, công an, thuế vụ, kiểm lâm v.v...) phải bắt giữ, xử
lý, không để cho kẻ gian mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phéo tài sản Nhà nước.
Người nào cố ý để cho kẻ gian tẩu thoát hoặc bắt giữ những tài sản đó mà không
nộp vào công quỹ sẽ bị xử phạt theo pháp luật.
Người chứa chấp hoặc lưu hành bất
hợp pháp các tài sản này cũng bị trừng phạt theo pháp luật.
IV. CHẾ ĐỘ PHỤC
VỤ NHÂN DÂN
Điều 13:
Mọi tổ chức và cá nhân, mỗi cán bộ, nhân viên Nhà nước trên mọi lĩnh vực và
cương vị công tác đều phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân.
Phải phát huy quyền làm chủ tập
thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động, tôn trọng các quyền tự do, dân chủ
của nhân dân, không được xâm phạm đến thân thể và tài sản của nhân dân; phải
liên hệ chặt chẽ với nhân dân và lắng nghe ý kiến phê bình của nhân dân để cải
tiến công tác của mình.
Mọi người phải có thái độ ân cần,
hoà nhã, khiêm tốn lịch sự với nhân dân.
Nghiêm cấm mọi thái độ và hành động
quan liêu cửa quyền hách dịch, vô trách nhiệm với nhân dân.
Điều 14:
Thủ trưởng cơ quan đơn vị phải gương mẫu thực hiện và có trách nhiệm quy định
rõ chế độ phục vụ nhân dân trong ngành, cơ quan, đơn vị; kiểm tra cán bộ, nhân
viên thuộc quyền thực hiện nghiêm chỉnh chế độ ấy.
Thủ trưởng cơ quan, đơn vị phải
có lịch tiếp dân, ít nhất một tháng một lần. Ngày giờ tiếp phải được niêm yết
công khai.
Điều 15:
Các cơ quan có nhiệm vụ nghiên cứu hoặc ban hành chính sách, chế độ phải quán
triệt quan điểm phục vụ nhân dân. Đối với những chính sách, chế độ quan trọng,
có ảnh hưởng nhiều đến quần chúng, ttước khi trình cấp trên ban hành hoặc tự
mình ban hành, phải thu thập ý kiến của các đoàn thể quần chúng có liên quan
như công đoàn, đoàn thanh niên cộng sản, hội liên hiệp phụ nữ và các đại biểu
nhân dân. Sau khi ban hành các chính sách chế độ ấy phải công bố, niêm yết công
khai cho nhân dân biết.
Các quy định trái với quan điểm
phục vụ nhân dân, gây phiền hà cho dân phải được bãi bỏ hoặc sửa chữa và cũng
phải công bố cho nhân dân biết.
Điều 16: -
Các ngành và đơn vị sản xuất kinh doanh phải nêu cao ý thức phục vụ nhân dân bằng
cách sản xuất và kinh doanh nhiều hàng hoá, bảo đảm hàng hoá, có phẩm chất tốt,
giá thành hạ, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân. Người nào do thiếu
trách nhiệm trong khi sản xuất - kinh doanh, hoặc do làm dối, làm ẩu mà gây thiệt
hại cho Nhà nước, cho tập thể và cho người tiêu dùng, thì phải chịu trách nhiệm
vật chất theo quy định của pháp luật.
Điều 17: -
Những cơ quan và những người có nhiệm vụ thực hiện phân phối hàng hoá cho nhân
dân phải thi hành đúng chế độ Nhà nước quy định, niêm yết công khai những tiêu
chuẩn, chế độ mà quần chúng được hưởng, việc cân, đong, đo, đếm phải làm công
khai. Các cơ quan thanh tra Nhà nước hoăc thanh tra nhân dân có nhiệm vụ thường
xuyên kiểm tra và có quyền đòi những người làm sai phải sửa chữa ngay tại chỗ để
bảo đảm cân, đo, đong, đếm đủ cho nhân dân. Người tiêu thụ có quyền đòi cơ quan
và người bán hàng sửa chữa ngay những sự sai sót nếu có.
Điều 18: -
Những cơ quan, những người có nhiệm vụ phục vụ nhu cầu hàng ngày của nhân dân về
ăn, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh, giải trí v.v... và những cơ quan, những người
có nhiệm vụ giải quyết các thủ tục, giấy tờ cho nhân dân đều có trách nhiệm khắc
phục khó khăn, tạo điều kiện dễ dàng, thuận lợi cho nhân dân, không được có
thái độ ban ơn, sách nhiễu, không được đầu cơ, vụ lợi, ăn hối lộ dưới bất cứ
hình thức nào.
Điều 19: -
Nhà nước hoan nghênh những ý kiến đóng góp của nhân dân; khi nhận được ý kiến,
các cơ quan có trách nhiệm phải xem xét chu đáo, tiếp thu nghiêm túc và tổ chức
thực hiện những ý kiến xét thấy hợp lý. Đối với những ý kiến đề nghị chưa có điều
kiện thực hiện hoặc không được chấp nhận, thì cơ quan nhận ý kiến phải giải
thích rõ ràng cho người đề nghị.
Điều 20: -
Người nào dựa vào quyền hành của mình để ức hiếp nhân dân, vi phạm thô bạo các
quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân, hoặc lợi dụng chức trách,
nhiệm vụ công tác của mình để hạch sách, ăn hối lộ, nhũng nhiễu nhân dân hoặc
dùng thủ đoạn gian dối để ăn bớt, ăn chặn các quyền lợi của nhân dân, thì tuỳ
theo mức độ vi phạm, đều bị trừng trị theo pháp luật.
V. ĐIỀU KHOẢN
THI HÀNH
Điều 21: -
Quy định này có hiệu lực từ ngày ban hành. Tất cả các cán bộ, nhân viên Nhà nước
từ thủ trưởng hoặc người đứng đầu các cơ quan Nhà nước ở cấp trung ương đến các
đơn vị cơ sở đều phải nghiêm chỉnh chấp hành bản quy định này.
Điều 22: -
Thủ trưởng các ngành ở trung ương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương và thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm:
1. Truyền đạt cho các cơ quan và
cán bộ, nhân viên thuộc quyền quán triệt tinh thần và nội dung quy định này.
2. Có kế hoạch cụ thể để thi
hành quy định này trong ngành, địa phương và cơ quan, đơn vị mình. Trước mắt,
phải xác định chức năng, nhiệm vụ của ngành, địa phương, cơ quan đơn vị đồng thời
xây dựng hoặc bổ sung sửa chữa các điều lệ, nội quy, xác định rõ nhiệm vụ của từng
tổ chức, từng người.
3. Theo dõi đôn đốc và kiểm tra
thường xuyên việc thi hành bản quy định này.
Điều 23:
Giám sát việc thực hiện chế độ
1. Mọi công dân đều có quyền
giám sát cán bộ, nhân viên Nhà nước chấp hành các chế độ nói trên, có quyền trực
tiếp hoặc thông qua các đoàn thể quần chúng, các cơ quan báo chí để yêu cầu người
phụ trách các cơ quan, đơn vị ở mọi cấp, mọi ngành xem xét và xử lý thích đáng
những người vi phạm chế độ nói trên.
2. Trong phạm vi quyền hạn của
mình, các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, cơ quan thanh
tra Nhà nước ở các ngành, các cấp và các ban thanh tra nhân dân, đều có quyền lập
biên bản và kiến nghị việc xử lý đối với những cán bộ, nhân viên có hành động
vi phạm các chế độ nói trên.
3. Sau khi nhận được các báo
cáo, thư tố giác, biên bản về việc cán bộ, nhân viên vi phạm các chế độ trên
đây, người phụ trách cơ quan có thẩm quyền phải xem xét ngay, và trong thời hạn
chậm nhất là một tháng phải xử lý và trả lời người đã báo cáo, đồng thời báo
cho tổ chức thanh tra biết. Gặp trường hợp phải điều tra thêm, thì người phụ
trách phải thông báo cho người đã báo cáo biết và thời hạn trả lời không được
chậm quá 3 tháng, kể từ ngày nhận được báo cáo. Nghiêm cấm mọi hành động trả
thù người báo cáo, hoặc dung túng, bao che người vi phạm các chế độ kể trên.
Điều 24:
Khen thường
1. Tập thể hoặc cá nhân nào có
thành tích trong việc chấp hành các chế độ trên đây, thì được khen thưởng theo
một hoặc nhiều hình thức sau đây:
- Biểu dương trong cơ quan, đơn
vị, trong ngành hoặc địa phương.
- Được cấp giấy, bằng khen hoặc
được đề nghị tặng huy chương, huân chương, tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua,
danh hiệu anh hùng.
- Được bồi dưỡng, đề bạt hoặc
nâng cấp bậc lương
- Được thưởng tiền hoặc hiện vật
theo chế độ của Nhà nước.
2. Thủ trưởng hoặc người đứng đầu
các ngành, các địa phương, các cơ quan, đơn vị quyết định việc khen thưởng cán
bộ, nhân viên thuộc quyền hoặc đề nghị cấp trên xét khen thưởng trong những trường
hợp thuộc thẩm quyền của cấp trên.
Điều 25: Xử
phạt
1. Cán bộ, nhân viên nào vi phạm
các chế độ trong quy định này tuỳ theo mức độ và tác hại của hành động vi phạm,
tùy theo chức trách, nhiệm vụ của người vi phạm, sẽ bị xử lý theo một hoặc nhiều
hình thức xử phạt sau đây.
- Không được xét khen thưởng định
kỳ 6 tháng, hàng năm; bị kéo dài thời hạn xét nâng bậc lương.
- Khiển trách
- Cảnh cáo
- Hạ bậc lương hoăc hạ chức vụ,
cách chức
- Buộc thôi việc
- Truy tố trước toà án để trừng
trị theo pháp luật
- Nếu người vi phạm làm thiệt hại
đến tài sản của Nhà nước hoặc tài sản của nhân dân, thì còn phải chịu phạt về vật
chất theo quy định của pháp luật.
2. Thủ trưởng hoặc người đứng đầu
các ngành, các địa phương, các cơ quan đơn vị có quyền quyết định xử phạt từ
hình thức khiển trách, cảnh cáo đến buộc thôi việc đối với tất cả cán bộ, nhân
viên thuộc quyền quản lý của mình. Trường hợp cách chức, buộc thôi việc đối với
cán bộ thuộc quyền quản lý của cấp trên, thì phải báo cáo để cấp có thẩm quyền
xét và quyết định thi hành kỷ luật.
Bộ trưởng Bộ Lao động cùng Bộ
trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn những điều cụ thể để thi hành việc khen thưởng và
xử phạt về vật chất.
Điều 26: -
Bộ trưởng Phủ thủ tướng cùng với Chủ nhiệm Uỷ ban thanh tra của Chính phủ, Bộ
trưởng Bộ nội vụ, Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp chế của Chính phủ, viện trưởng Viện
Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương có trách nhiệm giúp Hội đồng Chính phủ hướng
dẫn theo dõi, đôn đốc và kiểm tra việc thi hành bản quy định này.