CHÍNH
PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
101-CP
|
Hà
Nội, ngày 23 tháng 9 năm 1997
|
NGHỊ ĐỊNH
CỦA
CHÍNH PHỦ SỐ 101-CP NGÀY 23 THÁNG 9 NĂM 1997 QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH MỘT SỐ
ĐIỀU CỦA LUẬT BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
CHÍNH PHỦ
Căn cứ và Luật Tổ chức Chính
phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Căn cứ vào Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 12 tháng 11 năm
1996;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ,
NGHỊ ĐỊNH:
Chương 1:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Văn
bản quy phạm pháp luật
1. Văn bản quy phạm pháp luật là
văn bản có đầy đủ các yếu tố sau đây:
a) Văn bản do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ban hành với hình thức được quy định tại Điều 1 của Chương I và
Chương II của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
b) Văn bản được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ở Trung ương ban hành theo đúng thủ tục, trình tự được quy định tại
các chương III, IV, V, VI và VII của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
và các quy định tại Nghị định này;
c) Văn bản có chứa các quy tắc xử
sự chung, được áp dụng nhiều lần, đối với mọi đối tượng hoặc một nhóm đối tượng,
có hiệu lực trong phạm vi toàn quốc hoặc từng địa phương.
Quy tắc xử sự chung là những chuẩn
mực mà mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tuân theo khi tham gia quan hệ xã hội
được quy tắc đó điều chỉnh;
d) Văn bản được Nhà nước bảo đảm
thi hành bằng các biện pháp như tuyên tryền, giáo dục, thuyết phục, các biện
pháp về tổ chức, hành chính, kinh tế; trong trường hợp cần thiết thì Nhà nước
áp dụng biện pháp cưỡng chế bắt buộc thi hành và quy định chế tài đối với người
có hành vi vi phạm.
2. Những văn bản cũng do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành mà không có đầy đủ các yếu tố nói trên để giải
quyết những vụ việc cụ thể đối với những đối tượng cụ thể, thì không phải là
văn bản quy phạm pháp luật và không chịu sự điều chỉnh của Luật ban hành văn, bản
quy phạm pháp luật và Nghị định này như: quyết định lên lương, khen thưởng, kỷ
luật, điều động công tác, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, công chức, quyết định xử
phạt vi phạm hành chính, quyết định phê duyệt dự án, chỉ thị về việc phát động
phong trào thi đua, biểu dương người tốt, việc tốt và những văn bản cá biệt
khác.
Điều 2.
Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, văn bản liên tịch của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, giữa
các cơ quan nhà nược có thẩm quyền với tổ chức chính trị - xã hội, văn bản quy
phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp
1. Nghị quyết, Nghi định do
Chính phủ ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch
nước.
2. Quyết định, chỉ thị do Thủ tướng
Chính phủ ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch
nước, nghị quyết, nghị định của Chính phủ.
3. Quyết định, chỉ thị, thông tư
do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ
ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
nghị quyết của Uỷ ban thường vị Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước,
nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ,
các văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ về quản lý ngành, lĩnh vực do Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
phụ trách.
4. Nghị quyết, thông tư liên tịch
do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương hoặc do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ở Trung ương với tổ chức chính trị - xã hội ban hành phải phù hợp với
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị quyết, nghị định của
Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
5. Nghị quyết do Hội đồng nhân
dân, quyết định, chỉ thị do Uỷ ban nhân dân các cấp ban hành phải phù hợp với
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị quyết, nghị định của Chính
phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, các văn bản của các cơ quan
nhà nước cấp trên.
Văn bản quy phạm pháp luật của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở
Trung ương với nhau, giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương với tổ chức
chính trị - xã hội, văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân các cấp trái với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên phải bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ, bãi bỏ theo quy định của
pháp luật hiện hành.
Điều 3.
Số và ký hiệu của văn bản quy phạm pháp luật
1. Văn bản quy phạm pháp luật
khi ban hành phải được đánh số thứ tự theo năm ban hành và có ký hiệu riêng cho
từng loại văn bản.
2. Việc đánh số thứ tự phải bắt
đầu từ số 01 theo từng loại văn bản của năm ban hành loại văn bản đó.
Năm ban hành văn bản phải được
ghi đầy đủ các số.
3. Ký hiệu văn bản quy phạm pháp
luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ ban hành, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch
do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương hoặc do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ở Trung ương với tổ chức chính trị - xã hội ban hành được quy định
như sau:
a) Nghị quyết, Nghị dịnh do
Chính phủ ban hành: Số../199../NQ-CP; Số.../199.../NĐ/CP;
b) Quyết định, Chỉ thị do Thủ tướng
Chính Phủ ban hành: Số....... /199.../QĐ-TTg; Số.../199.../CT-TTg;
c) QUyết định, chỉ thị, thông tư
do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ
ban hành: Số.../199... /QĐ- (tên viết tắt do cơ quan ban hành văn bản), ví dụ:
Quyết định số 01 ngày 20 tháng 01 năm 1997 do Bộ Tư pháp ban hành được đánh số
là: Số 01/1997/QĐ - BTP; Số.../199.../CT - (tên viết tắt của cơ quan ban hành
văn bản), ví dụ: Chỉ thị số 01 ngày 25 tháng 01 năm 1997 do Bộ Tài chính ban
hành được đánh số là: Số 01/1997/CT - BTC; Số.../199... /TT-(tên viết tắt của
cơ quan ban hành văn bản), ví dụ: Thông tư số 01 ngày 25 tháng 8 năm 1997 của Bộ
Công nghiệp ban hành được đánh số là: Số 01/1997/TT-BCN ;
d) Nghị quyết liên tịch, Thông
tư liên tịch: Số .../199.../NQLT - (tên viết tắt của cơ quan, tổ chức ban hành
văn bản), ví dụ: Nghị quyết liên tịch số 05 ngày 18 tháng 9 năm 1997 do Tổng
liên đoàn Lao động Việt Nam với Bộ Tài chính ban hành được đánh số là: Số
05/1997/NQLT - TLĐLĐ - BTC; Số .../199.../TTLT - (tên viết tắt của cơ quan ban
hành văn bản), ví dụ: Thông tư liên tịch số 01 ngày 15 tháng 9 năm 1997 do Bộ
Tài chính và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành được đánh số là: Số
01/1997/TTLT -BTC - BLĐTB và XH.
Điều 4.
Gửi văn bản quy phạm pháp luật
1. Trong thời gian chậm nhất là
hai ngày, kể từ ngày văn bản quy phạm pháp luật được công bố hoặc ký ban hành,
Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm gửi văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban
hành đến các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các tổ chức chính
trị - xã hội hữu quan, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương.
2. Trong thời gian chậm nhất là
hai ngày, kể từ ngày ký ban hành, Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
phải gửi văn bản quy phạm pháp luật do mình ban hành đến Chính phủ, các cơ quan
nhà nước ở Trung ương, các tổ chức chính trị - xã hội hữu quan, Hội đồng nhân
dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
3. Trong thời gian chậm nhất là
hai ngày, kể từ ngày ký ban hành, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương phải gửi văn bản quy phạm pháp luật do mình ban
hành đến Chính phủ, các cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội hữu quan, Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp dưới.
4. Văn bản quy phạm pháp luật do
các cơ quan nhà nước ở Trung ương, văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân ban hành được gửi, lưu giữ trên mạng tin học diện rộng của
Chính phủ và có giá trị như bản gốc.
5. Khi nhận được văn bản quy phạm
pháp luật, kể cả nhận trên mạng tin học diện rộng của Chính phủ, các cơ quan
nhà nước và các tổ chức liên quan có trách nhiệm tổ chức thi hành.
6. Văn phòng Chính phủ quy định
cụ thể việc tổ chức, quản lý, sử dụng và kiểm tra mạng tin học diện rộng của
Chính phủ.
Điều 5.
Việc đăng Công báo
1. Văn bản quy phạm pháp luật do
cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành phải được đăng Công báo nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời hạn chậm nhất là mười lăm ngày, kể từ ngày
công bố hoặc ký ban hành.
2. Văn bản quy phạm pháp luật do
các cơ quan nhà nước ở Trung ương ban hành phải được gửi đến Văn phòng Chính phủ
chậm nhất là hai ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành để kịp thời đăng
Công báo.
3. Công báo được công bố công
khai, phát hành rộng rãi trong các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức
kinh tế, đơn vị vũ trang và trong nhân dân, kể cả cá nhân, tổ chức, cơ quan nước
ngoài.
4. Văn bản đăng Công báo có giá
trị như bản gốc.
5. Văn phòng Chính phủ chịu
trách nhiệm xuất bản Công báo nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Điều 6.
Đưa tin, đăng và phát sống nội dung văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản quy phạm pháp luật phải
được đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Các cơ quan báo chí ở Trung ương
và địa phương, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền
hình và Đài Phát thanh ở địa phương có trách nhiệm đưa tin, đăng, phát sóng
toàn văn hoặc nội dung cơ bản của văn bản quy phạm pháp luật nhằm tuyên truyền,
phổ biến rộng rãi văn bản quy phạm pháp luật.
Điều 7.
Việc dịch văn bản quy phạm pháp luật ra tiếng nước ngoài
1. Văn bản quy phạm pháp luật đã
được công bố hoặc ký ban hành có thể được dịch ra tiếng nước ngoài.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân dịch
văn bản quy phạm pháp luật ra tiếng nước ngoài chịu trách nhiệm về nội dung bản
dịch của mình.
Việc dịch văn bản quy phạm pháp
luật ra tiếng nước ngoài phải bảo đảm đúng nội dung của văn bản quy phạm pháp
luật được dịch, từ ngữ trong bản dịch phải chính xác.
Bản dịch văn bản quy phạm pháp
luật ra tiếng nước ngoài chỉ có giá trị tham khảo.
3. Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ
Văn hoá - Thông tin lựa chọn một số nhà xuất bản để thực hiện việc xuất bản và
phát hành bản dịch văn bản quy phạm pháp luật ra tiếng nước ngoài.
Điều 8.
Tuân thủ các quy định về bảo vệ bí mật nhà nước.
Việc gửi văn bản quy phạm pháp
luật theo quy định tại Điều 4, đăng Công báo theo quy định tại Điều 5, đưa tin,
đăng và phát sóng theo quy định tại Điều 6, dịch văn bản ra tiếng nước ngoài
theo quy định tại Điều 7 của Nghị dịnh này phải tuân thủ các quy định về bảo vệ
bí mật nhà nước.
Chương 2:
LẬP DỰ KIẾN CHƯƠNG TRÌNH
CỦA QUỐC HỘI VỀ XÂY DỰNG LUẬT, PHÁP LỆNH, CHƯƠNG TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ VỀ XÂY DỰNG
NGHỊ QUYẾT, NGHỊ ĐỊNH
Điều 9.
Đề xuất chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết, Nghị định của Chính
phủ
1. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 22 và
Điều 59 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và yêu cầu quản lý của
ngành, lĩnh vực do mình phụ trách, các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ dự kiến xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết, nghị định
để trình Chính phủ.
Tổ chức pháp chế ở các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ lập dự kiến xây dựng luật,
pháp lệnh, nghị quyết, nghị định để trình Chính phủ.
2. Bản dự kiến xây dựng luật,
pháp lệnh hàng năm của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ phải do Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ quyết định
và được gửi đến Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ, trong đó nêu rõ sự cần thiết
ban hành văn bản, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của văn bản, thời gian trình và
các điều kiện cần thiết bảo đảm cho việc soạn thảo văn bản.
3. Dự kiến xây dựng luật, pháp lệnh
hành năm được gửi đến Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ chậm nhất là ngày 15
tháng 7 năm trước. Dự kiến xây dựng luật, pháp lệnh theo nhiệm kỳ của Quốc hội
được gửi đến Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ chậm nhất là ngày 15 tháng 7 của
năm kết thúc nhiệm kỳ của Quốc hội khoá trước.
Dự kiến của các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ về xây dựng nghị quyết, nghị định của Chính
phủ hàng năm được gửi đến Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp chậm nhất là ngày 15
tháng 10 năm trước, trong đó nêu rõ sự cần thiết ban hành, đối tượng, phạm vị
điều chỉnh của văn bản, thời hạn ban hành và kế hoạch tổ chức thực hiện khi văn
bản quy phạm pháp luật được ban hành.
4. Trên cơ sở tổng hợp dự kiến
chương trình xây dựng nghị quyết, nghị định hàng năm của Chính phủ do các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đề nghị, Văn phòng Chính phủ lập
chương trình xây dựng nghị quyết, nghị định của Chính phủ theo định kỳ ba
tháng, sáu tháng và cả năm trình Chính phủ quyết định.
Điều 10.
Tổng hợp ý kiến đề xuất và trình Chính phủ quyết định về dự kiến chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh, chương trình xây dựng Nghị quyết, Nghị định của Chính
phủ
1. Trong thời gian mười ngày, kể
từ ngày hết hạn gửi dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, Bộ Tư pháp
chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ lập dự kiến chương trình của Chính phủ
về xây dựng luật, pháp lệnh. Dự kiến chương trình được gửi đến các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ để lấy ý kiến. Chậm nhất là bảy ngày, kể từ
ngày nhận được dự kiến chương trình, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ phải gửi ý kiến tham gia bằng văn bản đến Bộ Tư pháp và Văn phòng
Chính phủ.
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ, Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ chỉnh lý dự kiến
chương trình xây dựng luật, pháp lệnh trình Chính phủ quyết định tại phiên họp
tháng 8 hàng năm.
2. Trong thời gian mười ngày, kể
từ ngày hết hạn gửi ý kiến đề xuất về chương trình xây dựng nghị quyết, nghị định,
Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp chuẩn bị dự thảo chương
trình của Chính phủ và gửi đến các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Chậm nhất là bảy ngày, kể từ ngày nhận được dự thảo chương trình, các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ phải gửi ý kiến tham gia bằng văn bản đến
Văn phòng Chính phủ và Bộ Tư pháp.
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ, Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp chỉnh lý dự thảo
chương trình xây dựng nghị quyết, nghị định trình Chính phủ quyết định tại
phiên họp thường kỳ cuối năm.
Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm
gửi đến các thành viên Chính phủ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh, chương trình xây dựng nghị quyết, nghị định của
Chính phủ.
Điều 11.
Chính phủ tham gia ý kiến về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của các cơ quan
khác, các tổ chức và đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh và kiến nghị về luật,
pháp lệnh của đại biểu Quốc hội
1. Văn phòng Chính phủ có trách
nhiệm tập hợp đầy đủ các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của các cơ quan khác,
các tổ chức và đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, kiến nghị về luật, pháp lệnh của
đại biểu Quốc hội.
2. Chậm nhất là mười ngày, kể từ
ngày nhận được bản tập hợp đề nghị, kiến nghị về luật, pháp lệnh do Văn phòng
Chính phủ gửi, Bộ Tư pháp phải gửi ý kiến tham gia bằng văn bản đến Văn phòng
Chính phủ.
3. Chính phủ có ý kiến bằng văn
bản về đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan khác, các tổ chức về đề nghị
xây dựng luật, pháp lệnh, kiến nghị về luật, pháp lệnh của đại biểu Quốc hội
trên cơ sơ báo cáo của Văn phòng Chính phủ và ý kiến tham gia của Bộ Tư pháp.
Điều 12.
Dự kiến điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, chương trình xây dựng
nghị quyết, nghị định của Chính phủ
1. Theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ, đề nghị của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ Tư
pháp dự kiến điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh để Chính phủ xem
xét, trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
2. Theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ, đề nghị của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn
phòng Chính phủ lập dự kiến điều chỉnh chương trình xây dựng nghị quyết, nghị định
trình Chính phủ.
Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm
thông báo quyết định của Chính phủ về việc điều chỉnh chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh, điều chỉnh chương trình xây dựng nghị quyết, nghị định đến Bộ Tư
pháp và các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan.
Điều 13.
Bảo đảm thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, chương trình xây dựng
nghị quyết, nghị định của Chính phủ
1. Chính phủ chỉ đạo việc thực
hiện chương trình xây dựng các dự án luật, pháp lệnh do Chính phủ trình Quốc hội
và Uỷ ban thường vụ Quốc hội chương trình xây dựng nghị quyết, nghị định của
Chính phủ.
2. Văn phòng Chính phủ có trách
nhiệm đôn đốc, kiểm tra cơ quan được phân công chủ trì soạn thảo trong việc bảo
đảm tiến độ soạn thảo và thời hạn trình dự án, dự thảo văn bản.
3. Bộ Tư pháp, trong phạm vi chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình có trách nhiệm tham gia vào quá trình soạn
thảo và thẩm định dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định do Chính
phủ ban hành, tham gia ý kiến bằng văn bản về dự thảo quyết định, chỉ thị do Thủ
tướng Chính phủ ban hành.
4. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ phải thường xuyên chỉ đạo và kịp
thời cho ý kiến về việc thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, chương
trình xây dựng nghị quyết, nghị định của Chính phủ do Bộ, ngành mình chủ trì soạn
thảo.
Tổ chức pháp chế Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chương trình xây dựng
các văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm văn bản chặt chẽ về mặt pháp lý, có chất
lượng và trình đúng thời hạn quy định.
5. Kinh phí xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật do ngân sách nhà nước cấp.
Trong thời hạn 60 ngày, kể từ
ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành, Bộ trưởng Bộ Tài chính trủ trì, phối hợp
với Bộ trưởng Bộ Tư pháp và cơ quan hữu quan khác trình Thủ tướng Chính phủ ban
hành quy chế về sử dụng kinh phí xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Chương 3:
SOẠN THẢO DỰ ÁN LUẬT,
PHÁP LỆNH, DỰ THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH PHỦ, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ,
CÁC BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ
Điều 14.
Thành lập Ban soạn thảo
1. Chính phủ uỷ quyền cho cơ quan
được phân công chủ trì soạn thảo thành lập Ban soạn thảo dự án luật, pháp lệnh
do Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và dự thảo loại nghị định
được quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 56 của Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, trừ trường hợp Chính phủ thành lập Ban soạn thảo.
2. Cơ quan được phân công chủ
trì soạn thảo thành lập Ban soạn thảo đối với những dự thảo nghị quyết, nghị định
khác của Chính phủ.
3. Việc soạn thảo các dự án luật,
pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định do Ban soạn thảo đảm nhiệm. Thành phần
Ban soạn thảo gồm đại diện có thẩm quyền của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ hữu quan; Thủ trưởng cơ quan chủ trì soạn thảo là Trưởng ban.
Giúp việc Ban soạn thảo có tổ
biên tập do trưởng ban soạn thảo chỉ định. Thành viên của tổ biên tập gồm các
luật gia, các nhà khoa học và các chuyên gia am hiểu các vấn đề chuyên môn thuộc
nội dung của dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
4. Khi thấy cần thiết, Thủ tướng
Chính phủ có thể thành lập Tổ chuyên gia làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
Thủ tướng để thực hiện nhiệm vụ của Ban soạn thảo hoặc để tu chỉnh dự thảo luật,
pháp lệnh, nghị quyết, nghị định của Chính phủ trước khi ký trình hoặc ký ban
hành.
5. Cơ quan có thành viên trong
Ban soạn thảo có trách nhiệm góp ý kiến bằng văn bản về nội dung của dự án, dự
thảo có liên quan đến ngành, lĩnh vực do mình quản lý.
6. Việc soạn thảo văn bản quy phạm
pháp luật của Thủ tướng Chính phủ, của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ được tiến hành theo quy định tại Điều 65 và
Điều 66 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Điều 15.
Trách nhiệm của Ban soạn thảo
Để bảo đảm chất lượng và thời hạn
trình dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định, Ban soạn thảo phải thực
hiện đầy đủ các quy định tại Điều 26 và Điều 61 của Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, đồng thời có trách nhiệm sau đây:
1. Định kỳ thông báo với Văn
phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp về tiến độ và chất lượng soạn thảo dự án luật, pháp
lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định;
2. Kịp thời báo cáo, xin ý kiến
chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về các vấn đề mới, phức tạp và những
ý kiến còn khác nhau;
3. Bảo đảm việc soạn thảo văn bản
có chất lượng; nội dung các điều, khoản của văn bản phải được quy định cụ thể,
rõ ràng để khi văn bản có hiệu lực thì thi hành được ngay.
Trong trường hợp dự án, dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật cần có văn bản quy định chi tiết hoặc hướng dẫn thi
hành thì Ban soạn thảo có trách nhiệm soạn thảo hoặc đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn
cơ quan được Chính phủ phân công soạn thảo các văn bản đó để trình đồng thời với
dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định lên Chính phủ.
4. Xác định tên các văn bản dự
kiến bị bãi bỏ (bãi bỏ toàn bộ văn bản hoặc một phần nội dung: chương, mục, điều,
khoản, điểm của văn bản).
Điều 16.
Lấy ý kiến về dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ
Trong quá trình soạn thảo dự án
luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định, cơ quan chủ trì soạn thảo phải
tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ
ngày nhận được dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định, cơ quan, tổ
chức, cá nhân được hỏi ý kiến có trách nhiệm tham gia góp ý bằng văn bản và gửi
đến cơ quan chủ trì soạn thảo. Văn bản tham gia góp ý kiến của các Bộ, cơ quan,
tổ chức phải do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan, người đứng đầu cơ quan, tổ chức
đó ký. Cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý
dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và gửi dự án dự thảo văn bản đã chỉnh
lý đến Văn phòng Chính phủ và Bộ Tư pháp.
Điều 17.
Xin ý kiến Uỷ ban thường vụ Quốc hội về nghị định quy định những vấn đề hết sức
cần thiết nhưng chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật hoặc pháp lệnh
Trước khi soạn thảo những nghị định
được quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 56 của Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, Chính phủ gửi bản thuyết trình về sự cần thiết ban hành nghị định và
dự kiến các vấn đề cơ bản thuộc nội dung của nghị định để xin ý kiến của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội.
Chương 4:
THẨM ĐỊNH VÀ TRÌNH CHÍNH
PHỦ DỰ ÁN; LUẬT, PHÁP LỆNH, DỰ THẢO NGHỊ QUYẾT, NGHỊ ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ VÀ VIỆC
THAM GIA Ý KIẾN VỀ DỰ THẢO QUYẾT ĐỊNH, CHỈ THỊ CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Điều 18.
Việc chuẩn bị trình Chính phủ dự án luật, pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định
của Chính phủ
Văn phòng Chính phủ phối hợp với
Bộ Tư pháp và cơ quan chủ trì soạn thảo xem xét dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo
Nghị quyết, Nghị định trước khi trình Chính phủ.
Trong trường hợp thống nhất ý kiến
để trình Chính phủ dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định thì quy
trình tiếp theo được quy định như sau:
1. Đối với dự án Luật, dự án
Pháp lệnh.
Văn phòng Chính phủ phối hợp với
cơ quan chủ trì soạn thảo dự án tổ chức cuộc họp để giới thiệu nội dung của dự
án luật, dự án pháp lệnh cho đại diện có thẩm quyền của các Bộ, cơ quan ngang Bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan, tổ chức hữu quan.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ
ngày tổ chức cuộc họp giới thiệu dự án, các cơ quan, tổ chức phải nghiên cứu, gửi
ý kiến tham gia bằng văn bản đến các cơ quan chủ trì soạn thảo, Văn phòng Chính
phủ và Bộ Tư pháp.
Cơ quan chủ trì soạn thảo có
trách nhiệm nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các cơ quan, tổ chức dể chỉnh lý dự
án và gửi dự án đã được chỉnh lý đến Bộ Tư pháp để thẩm định.
2. Đối với dự thảo Nghị quyết,
Nghị định.
Cơ quan chủ trì soạn thảo chỉnh
lý dự thảo văn bản trên cơ sở tham khảo ý kiến của Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư
pháp và gửi dự thảo đã được chỉnh lý đến Bộ Tư pháp để thẩm định.
Điều 19.
Thẩm định các dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ
1. Các dự án Luật, Pháp lệnh, dự
thảo Nghị quyết, Nghị định được thẩm định bao gồm:
a) Dự án Luật, Pháp lệnh do
Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
b) Dự án Luật, Pháp lệnh do cơ
quan khác, các tổ chức, đại biểu Quốc hội trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội;
c) Các dự thảo Nghị quyết, Nghị
định trình Chính phủ.
2. Chính phủ chỉ xem xét các dự
án Luật, Pháp lệnh để quyết định trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc
để tham gia ý kiến đối với dự án luật, pháp lệnh do các cơ quan khác, các tổ chức,
đại biểu Quốc hội trình hoặc xem xét dự thảo nghị quyết, nghị định để ban hành,
sau khi đã có báo cáo thẩm định bằng văn bản của Bộ Tư pháp.
Điều 20.
Trách nhiệm của cơ quan soạn thảo dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết,
Nghị định của Chính phủ
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ phân công chủ trì soạn thảo dự án
Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định có trách nhiệm:
1. Gửi công văn yêu cầu thẩm định
và hồ sơ dự án Luật, pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định đến Bộ Tư pháp
đúng thời hạn quy định tại Điều 22 của nghị định này;
2. Cung cấp thông tin, tài liệu
cần thiết có liên quan đến dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định
đến cơ quan thẩm định;
3. Thuyết trình về dự án Luật,
Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định khi có yêu cầu của Bộ Tư pháp.
Điều 21.
Hồ sơ dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ gửi thẩm
định
1. Hồ sơ dự án Luật, Pháp lệnh,
dự thảo Nghị quyết, Nghị định gửi thẩm định bao gồm:
a) Công văn yêu cầu thẩm định;
b) Tờ trình Chính phủ về dự án
Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định;
c) Bản dự án, dự thảo cuối cùng
được cơ quan soạn thảo quyết định trình Chính phủ xem xét và bản tập hợp ý kiến
của các Bộ, ngành về dự án, dự thảo đó;
d) Bản thuyết trình chi tiết về
dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định và dự thảo các văn bản hướng
dẫn thi hành (nếu có).
2. Số lượng hồ sơ gửi thẩm định
ít nhất là 10 bộ.
Điều 22.
Thời hạn gửi hồ sơ dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định của
Chính phủ để thẩm định
Chậm nhất là hai mươi ngày, trước
ngày Chính phủ họp, cơ quan soạn thảo dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết,
Nghị định phải gửi đến Bộ Tư pháp hồ sơ dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết,
Nghị định để thẩm định.
Điều 23.
Trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong việc thẩm định dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo
Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ
1. Khi nhận được hồ sơ dự án Luật,
Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định, Bộ Tư pháp có trách nhiệm kịp thời tổ
chức việc thẩm định dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định. Trong
trường hợp cần thiết, Bộ Tư pháp có thể yêu cầu cơ quan soạn thảo thuyết trình
về dự án, dự thảo, cung cấp thông tin và tài liệu có liên quan đến dự án, dự thảo
văn bản đó.
2. Khi cần thiết, mời các luật
gia, các nhà khoa học và các chuyên gia am hiểu các vấn đề chuyên môn thuộc nội
dung dự án, dự thảo tham gia thẩm định.
3. Chuẩn bị và gửi báo cáo thẩm
định đúng thời hạn theo quy định tại Điều 26 của Nghị định này.
Điều 24.
Phạm vi thẩm định
Bộ Tư pháp thẩm định về đối tượng,
phạm vi điều chỉnh của văn bản, tính khả thi của văn bản, kỹ thuật soạn thảo
văn bản, ngôn ngữ pháp lý, và chịu trách nhiệm về tính hợp hiến, hợp pháp, tính
thống nhất của văn bản trong hệ thống pháp luật.
Trong trường hợp cơ quan soạn thảo
và các Bộ, ngành còn có ý kiến khác nhau về những vấn đề thuộc nội dung của dự
án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định của Chính phủ, thì Bộ Tư pháp
có trách nhiệm phát biểu rõ quan điểm và đề xuất phương án xử lý đối với các vấn
đề còn có ý kiến khác nhau đó.
Điều 25.
Tổ chức thẩm định
1. Bộ trưởng Bộ Tư pháp tổ chức
việc thẩm định dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định của Chính
phủ, bảo đảm chất lượng và thời hạn thẩm định.
Trong trường hợp cần thiết, Bộ
trưởng Bộ Tư pháp quyết định thành lập Hội đồng thẩm định dự án luật, pháp lệnh,
dự thảo nghị quyết, nghị định.
Đối với dự án Luật, pháp lệnh, dự
thảo Nghị quyết, Nghị định do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo thì thành phần Hội đồng
thẩm định do Bộ trưởng Bộ Tư pháp thành lập phải có sự tham gia của đại diện
Văn phòng Chính phủ, đại diện các Bộ, ngành hữu quan.
2. Thủ tục, trình tự cụ thể của
việc thẩm định văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định.
Điều 26.
Gửi báo cáo thẩm định
Chậm nhất là 5 ngày, trước ngày
bắt đầu phiên họp Chính phủ, Bộ Tư pháp gửi báo cáo thẩm định dự án Luật, Pháp
lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định đến cơ quan chủ trì soạn thảo và Văn phòng
Chính phủ. Đối với dự án Luật, Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định do Bộ
Tư pháp soạn thảo, trong thời hạn chậm nhất là năm ngày, trước ngày bắt đầu
phiên họp Chính phủ, Bộ Tư pháp phải gửi ý kiến của Hội đồng thẩm định cùng dự
thảo văn bản đến Văn phòng Chính phủ để chuẩn bị cho phiên họp Chính phủ.
Điều 27.
Hồ sơ dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định trình Chính phủ
Cơ quan chủ trì soạn thảo phải
chuẩn bị đầy đủ hồ sơ dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định để
trình Chính phủ. Hồ sơ bao gồm:
1. Tờ trình Chính phủ về dự án
luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định;
2. Bản dự án luật, pháp lệnh, dự
thảo nghị quyết, nghị định;
3. Văn bản thẩm định của Bộ Tư
pháp về dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, nghị định;
4. ý kiến tham gia về dự án, dự
thảo của các Bộ, ngành có liên quan;
5. Các tài liệu liên quan (nếu
có);
Số lượng hồ sơ trình Chính phủ
theo yêu cầu của Văn phòng Chính phủ.
Điều 28.
Trách nhiệm của Văn phòng Chính phủ
Khi nhận được Tờ trình, dự án Luật,
Pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, Nghị định, văn bản thẩm định của Bộ Tư pháp và
các tài liệu liên quan đến Dự án, dự thảo do cơ quan chủ trì soạn thảo gửi đến,
Văn phòng Chính phủ kiểm tra các thủ tục, nội dung dự án, dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật. Trong trường hợp dự án, dự thảo có những vấn đề còn có ý kiến
khác nhau thì Văn phòng Chính phủ xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và
tổ chức cuộc họp với cơ quan chủ trì soạn thảo, Bộ Tư pháp, các Bộ, ngành hữu
quan để xử lý và đề xuất các vấn đề đưa ra Chính phủ thảo luận, quyết định.
Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm
báo cáo với Chính phủ về các vấn đề mà các Bộ, ngành đã thống nhất ý kiến, các
vấn đề còn có ý kiến khác nhau của dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật để
Chính phủ thảo luận, quyết định.
Điều 29.
Chính phủ tham gia ý kiến đối với dự án luật, pháp lệnh do các cơ quan khác,
các tổ chức, đại biểu Quốc hội soạn thảo
1. Trong thời hạn hai ngày, kể từ
ngày nhận được dự án Luật, dự án Pháp lệnh và những tài liệu có liên quan do
các cơ quan khác, các tổ chức, đại biểu Quốc hội soạn thảo gửi đến để Chính phủ
tham gia ý kiến, Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm gửi đến các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ hữu quan để tham gia ý kiến và gửi đến Bộ Tư
pháp để thẩm định.
2. Bộ Tư pháp có trách nhiệm tiến
hành việc thẩm định dự án luật, pháp lệnh theo quy định tại các Điều 23, 24, và
25 của Nghị định này. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ hữu
quan có trách nhiệm góp ý kiến bằng văn bản về nhưng nội dung của dự án trực tiếp
liên quan đến chức năng, nhiệm vụ quản lý ngành, lĩnh vực của mình.
Trong thời hạn chậm nhất là mười
ngày, kể từ ngày nhận được dự án Luật, Pháp lệnh, Bộ Tư pháp gửi báo cáo thẩm định
đến Văn phòng Chính phủ.
3. Trên cơ sở báo cáo thẩm định
của Bộ Tư pháp, văn bản góp ý kiến của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, Văn phòng Chính phủ tổng hợp, hoàn chỉnh và trình Thủ tướng xem xét
văn bản tham gia ý kiến của Chính phủ về các dự án Luật, Pháp lệnh nói trên và
gửi cho cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội soạn thảo dự án Luật, Pháp lệnh đó.
Điều 30.
Tham gia ý kiến về dự thảo quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ
1. Bộ Tư pháp có trách nhiệm
tham gia ý kiến bằng văn bản và chịu trách nhiệm về tính hợp hiến, hợp pháp,
tính thống nhất của văn bản trong hệ thống pháp luật đối với dự thảo Quyết định,
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ trước khi trình Thủ tướng Chính phủ xem xét,
ban hành. 2. Chậm nhất là mười lăm ngày, trước ngày trình Thủ tướng Chính phủ,
cơ quan soạn thảo Quyết định, Chỉ thị có trách nhiệm gửi đến Bộ Tư pháp hồ sơ dự
thảo Quyết định, Chỉ thị.
3. Hồ sơ dự thảo Quyết định, Chỉ
thị gửi tham gia ý kiến bao gồm:
a) Công văn yêu cầu tham gia ý
kiến;
b) Tờ trình Thủ tướng Chính phủ
về dự thảo Quyết định, Chỉ thị;
c) Dự thảo Quyết định, Chỉ thị
và bản tổng hợp ý kiến của các Bộ, ngành về dự thảo Quyết định, Chỉ thị.
4. Số lượng hồ sơ gửi tham gia ý
kiến ít nhất là 05 bộ.
5. Chậm nhất là bảy ngày, sau
khi nhận được hồ sơ, Bộ Tư pháp tham gia ý kiến bằng văn bản và gửi đến cơ quan
chủ trì soạn thảo.
6. Cơ quan chủ trì soạn thảo có
trách nhiệm chỉnh lý dự thảo Quyết định, Chỉ thị để trình Thủ tướng Chính phủ
xem xét, quyết định.
Hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ
bao gồm:
a) Tờ trình Thủ tướng Chính phủ
về dự thảo Quyết đinh, Chỉ thị;
b) Dự thảo Quyết định, chỉ thị;
c) ý kiến tham gia của các cơ
quan, tổ chức hữu quan;
d) ý kiến tham gia của Bộ Tư
pháp.
Chương 5:
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 31. Hiệu
lực của Nghị định
Nghị định này có hiệu lực thi
hành sau 15 ngày kể từ ngày ký.
Điều 32.
Trách nhiệm thi hành Nghị định
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.