HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******
|
VIÊT NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
********
|
Số: 24-CP
|
Hà Nội, ngày 02
tháng 02 năm 1976
|
NGHỊ ĐỊNH
BAN
HÀNH BẢN QUY ĐỊNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
CẤP TỈNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ KINH TẾ.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ vào luật tổ chức Hội đồng Chính phủ ngày 14-7-1960;
Căn cứ vào Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp ngày
10-11-1962;
Căn cứ vào nghị quyết của Hội nghị toàn thể Hội đồng Chính phủ trong phiên họp
ngày 12-1-1976;
Để cải tiến một bước tổ chức và hoạt động của Hội đồng Chính phủ và các Ủy ban
hành chính tỉnh trong lĩnh vực quản lý kinh tế.
NGHỊ ĐỊNH
Điều 1. – Nay ban hành kèm theo nghị định
này Bản quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền Nhà nước
cấp tỉnh trong lĩnh vực quản lý kinh tế.
Điều 2. – Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ phải quán triệt và cụ thể hóa những điều quy
định này trong điều lệ về tổ chức và hoạt động của cơ quan mình và trong công
tác thực tiễn.
Ủy ban hành chính các tỉnh phải quán triệt và cụ thể hóa những
điều quy định này trong điều lệ về tổ chức và hoạt động của tỉnh mình và trong
công tác thực tiễn.
Điều 3. – Các đồng chí chủ nhiệm Văn
phòng Phủ Thủ tướng, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc
Hội đồng Chính phủ, các đồng chí Chủ tịch Ủy ban hành chính các tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương có trách nhiệm thi hành bản quy định này.
|
T.M. HỘI ĐỒNG CHÍNH
PHỦ
K.T. THỦ TƯỚNG
CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Nguyễn Duy Trinh
|
BẢN
QUY ĐỊNH
VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ KINH TẾ.
(ban hành kèm theo nghị định số 24-CP
ngày 2-2-1976 của Hội đồng Chính phủ)
Tiếp theo Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Chính
phủ và Bản quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các Bộ trong lĩnh
vực quản lý kinh tế ban hành theo nghị định của Hội đồng Chính phủ số 172-CP
ngày 1-11-1973 nay ban hành Bản quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của chính quyền Nhà nước cấp tỉnh trong lĩnh vực quản lý kinh tế.
Bản quy định này áp dụng cho thành phố trực thuộc trung ương.
Những điều riêng cho thành phố sẽ được quy định bổ sung.
Đối với cấp huyện, sẽ có bản quy định riêng.
Chương I
NHỮNG
QUY ĐỊNH CHUNG
Việc kiện toàn tổ chức bộ máy chính quyền Nhà nước ở địa
phương (Hội đồng nhân dân, Ủy ban hành chính, các cơ quan chuyên môn) phải dựa
trên nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Điều 1. – Nền kinh tế quốc dân là một
thể thống nhất, gồm những bộ phận gắn bó hữu cơ với nhau, không thể chia cắt.
Nhà nước lãnh đạo tập trung và quản lý thống nhất toàn bộ nền
kinh tế quốc dân trên phạm vi cả nước, bảo đảm cho nền kinh tế quốc dân phát
triển theo đúng đường lối và chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước, và theo
đúng luật pháp của Nhà nước. Nhà nước quyết định các quy hoạch, các kế hoạch
dài hạn và kế hoạch hàng năm phát triển kinh tế quốc dân, các chính sách, chế độ
quản lý, các tiêu chuẩn, định mức chính, các quy định chung về tổ chức bộ máy,
về quản lý cán bộ. Nhà nước thống nhất quản lý các tài nguyên quốc gia, trực tiếp
tổ chức và quản lý các ngành, các cơ sở kinh tế trọng yếu có tác dụng thúc đẩy
toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển.
Điều 2. – Để tổ chức và phát triển tốt
nền kinh tế quốc dân, bảo đảm cho mọi hoạt động kinh tế đem lại hiệu quả, cần
phải thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo lãnh thổ.
Quản lý theo ngành là yêu cầu khách quan, là xu hướng tất yếu
của việc xây dựng và phát triển kinh tế. Nó thúc đẩy quá trình tích tụ, chuyên
môn hóa, hợp tác và liên hiệp sản xuất; nó bảo đảm phát triển nhanh chóng khoa
học và kỹ thuật, sử dụng hợp lý các tài nguyên, thiết bị, vật tư và nhân lực;
nó tiết kiệm vốn đầu tư và hạn chế được lãng phí về nhiều mặt.
Quản lý theo ngành phải kết hợp với quản lý theo lãnh thổ. Mọi
hoạt động kinh tế đều phải được tổ chức và thực hiện trên những địa bàn nhất định.
Trên những địa bàn, những lãnh thổ này, cần phải có một sự bố trí hợp lý theo một
kế hoạch thống nhất, một sự kết hợp chặt chẽ giữa các ngành cũng như giữa kinh
tế do trung ương trực tiếp quản lý và kinh tế do địa phương trực tiếp quản lý
thì mới phát huy tốt hiệu quả của nền kinh tế quốc dân.
Nội dung chủ yếu của công tác quản lý kinh tế của Nhà nước
trên lãnh thổ là:
1. Xây dựng kế hoạch kinh tế lãnh thổ và cân đối
theo lãnh thổ, trong đó quan trọng nhất là cân đối nhân lực, cân đối công
suất xây dựng, cân đối sản xuất và tiêu thụ vật liệu xây dựng, cân đối điện và
nước, cân đối vận tải, cân đối thu chi bằng tiền của dân cư...
2. Bảo đảm kết cấu kinh tế hạ tầng cho mọi hoạt động
kinh tế, sản xuất và đời sống trên lãnh thổ.
3. Tổ chức các mối quan hệ kinh tế lãnh thổ giữa các
ngành và các đơn vị kinh tế trên lãnh thổ, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa
sản xuất và lưu thông – phân phối, giữa quốc doanh và hợp tác xã, giữa phần
kinh tế do trung ương trực tiếp quản lý và phần kinh tế do địa phương trực tiếp
quản lý.
4. Giải quyết tốt một số chính sách, chế độ quản lý
kinh tế riêng đặt ra trên lãnh thổ như: giá một số loại mặt hàng, phụ cấp khu vực
trong chế độ tiền lương, chế độ khuyến khích sản xuất và phát triển kinh tế ở
những địa bàn quan trọng về kinh tế và quốc phòng v.v...
5. Tổ chức đời sống vật chất và văn hóa của toàn bộ dân
cư sống trên lãnh tổ.
6. Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên trên
lãnh thổ.
Mức độ và bước đi cụ thể của việc quản lý theo lãnh thổ được
xác định thích hợp với sự hình thành khách quan của kinh tế lãnh thổ phù hợp với
trình độ của cán bộ, công nhân.
Điều 3. – Trong việc quản lý nền
kinh tế quốc dân, vai trò của chính quyền địa phương rất quan trọng. Chính quyền
địa phương vừa là một bộ phận của Nhà nước xã hội chủ nghĩa thống nhất, vừa là
một cấp chính quyền do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương. Chính quyền địa phương là người đại diện cho lợi ích chung
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời là người đại diện cho lợi ích của nhân
dân sống trên lãnh thổ.
Dưới sự lãnh đạo tập trung và quản lý thống nhất của trung
ương, mỗi cấp chính quyền địa phương có chức năng quản lý công việc chung của
Nhà nước theo pháp luật định về kinh tế cũng như về các mặt khác trên lãnh thổ
mình phụ trách.
Xuất phát từ lợi ích chung của Nhà nước căn cứ và luật pháp đã
được ban hành và xem xét những điều kiện ở địa phương, Hội đồng nhân dân và Ủy
ban hành chính quyết định hoặc kiến nghị lên cấp trên tất cả những vấn đề liên
quan đến việc mở mang kinh tế, cũng như đến đời sống của những công dân sống và
làm việc trên lãnh thổ mình. Những quyết nghị của chính quyền địa phương phải
được các xí nghiệp, các tổ chức kinh doanh, cũng như các công dân sống và làm
việc trên lãnh thổ tuân theo.
Điều 4. – Theo đúng các quy định trong
luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp, Hội đồng nhân dân,
Ủy ban hành chính tỉnh lập ra những cơ quan chuyên ngành để thực hiện nhiệm vụ
của mình. Các ủy viên Ủy ban hành chính được phân công mỗi người lãnh đạo một số
cơ quan và trong phạm vi thẩm quyền đã được giao, có quyền ra chỉ thị cho các
cơ quan chuyên ngành, các xí nghiệp, cơ sở thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Các
cơ quan chuyên ngành thực hiện sự chỉ đạo và kiểm tra các xí nghiệp cơ quan trực
thuộc cấp tỉnh.
Để bảo đảm sự quản lý thống nhất của các cơ quan Nhà nước ở
trung ương về những vấn đề cơ bản đối với toàn ngành, đồng thời để bảo đảm phát
huy tính chủ động, sáng tạo của các cấp chính quyền địa phương, khai thác tốt
các khả năng tiềm tàng của các địa phương, và cân nhắc đầy đủ đến những đặc điểm
của địa phương, các cơ quan chuyên ngành ở cấp tỉnh vừa thuộc Hội đồng nhân dân
và Ủy ban hành chính, vừa thuộc cơ quan chuyên ngành có thẩm quyền cấp trên (Bộ,
Tổng cục…). Các thủ trưởng cấp trên chỉ đạo, hướng dẫn và giúp đỡ các cơ quan
chuyên ngành cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ, truyền đạt những kinh nghiệm tiên
tiến, kiểm tra các hoạt động của các cơ quan chuyên ngành cấp dưới. Thủ trưởng
cấp trên có quyền ra chỉ thị cho thủ trưởng cơ quan chuyên ngành cấp dưới trong
phạm vi thẩm quyền được giao. Nếu những chỉ thị ấy có liên quan đến các nghị
quyết (kế hoạch, ngân sách, chủ trương, biện pháp…) đã được Hội đồng nhân dân, Ủy
ban hành chính cấp tỉnh thông qua, thì thủ trưởng cấp trên phải bàn bạc với Ủy
ban hành chính tỉnh cho thống nhất. Nếu có vấn đề hai bên không thống nhất ý kiến
thì báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Điều 5. – Chính quyền địa phương phải
nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách của trung ương, kết hợp với các điều
kiện cụ thể của địa phương mà đề ra những chủ trưởng phát triển kinh tế địa
phương một cách đúng đắn theo quy định chung của Nhà nước. Những cơ sở và những
hoạt động kinh tế mà chính quyền địa phương xây dựng và quản lý phải kết hợp chặt
chẽ với kinh tế trung ương, để bảo đảm cho các ngành kinh tế hoạt động trên
lãnh thổ đạt được hiệu quả cao nhất. Những cơ sở và hoạt động kinh tế đó là:
1. Các hoạt động nông – lâm nghiệp và phục vụ nông –
lâm nghiệp trên lãnh thổ địa phương, các đơn vị hợp tác xã và các đơn vị quốc
doanh nông – lâm nghiệp do địa phương trực tiếp quản lý.
2. Những cơ sở công nghiệp chế biến nông – lâm sản, nhất
là công nghiệp chế biến lương thực và thực phẩm; công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của nhân dân, công nghiệp sửa chữa, công
nghiệp bảo đảm hoạt động của kinh tế đô thị.
3. Một số cơ sở công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất,
nhất là tư liệu sản xuất trực tiếp phục vụ nông – lâm nghiệp, làm công cụ cải
tiến và công cụ thường, sửa chữa thiết bị, máy móc, xe vận tải và các loại công
cụ cơ giới khác trong địa phương.
4. Các hệ thống giao thông địa phương; quản lý, bảo dưỡng,
tu bổ các đoạn quốc lộ và đường liên tỉnh chạy qua địa phương; các tổ chức vận
tải bảo đảm yêu cầu vận chuyển trong địa phương; toàn bộ việc vận tải hành
khách tại địa phương; vận tải hàng hóa trong địa phương; một phần vận tải hành
khách và hàng hóa cho nhu cầu trên các đường chạy qua địa phương.
5. Những cơ sở sản xuất và khai thác vật liệu xây dựng
tại địa phương, trong đó có thể bao gồm cả những cơ sở đáp ứng yêu cầu của từng
vùng rộng lớn; những công ty xây lắp và những tổ chức xây dựng phụ trách toàn bộ
việc xây dựng dân dụng và nhà ở tại địa phương (trừ những công trình kiến trúc
lớn), phụ trách xây dựng công nghiệp vừa và nhỏ, làm thủy lợi vừa và nhỏ, làm
đường sá trong địa phương; những tổ chức sửa chữa và bảo dưỡng nhà cửa tại địa
phương.
6. Hệ thống tổ chức bán lẻ hàng tiêu dùng và lương thực,
thực phẩm; hệ thống tổ chức ăn uống công cộng và các nhà ăn tập thể, hệ thống
phục vụ.
v.v…
Điều 6. – Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm chung về quản lý kinh tế của Ủy ban hành chính tỉnh là:
A. Đối với tổng thể kinh tế trên lãnh thổ tỉnh
1. Tham gia công tác phân vùng kinh tế, lập quy hoạch, xây dựng
kế hoạch, nhằm bảo đảm sự phát triển nhịp nhàng của các cơ sở thuộc các ngành,
các lĩnh vực khác nhau trên lãnh thổ tỉnh.
2. Xây dựng và quản lý kết cấu kinh tế hạ tầng phục vụ chung tất
cả các cơ sở kinh tế, văn hóa và đời sống của dân cư trên lãnh thổ tỉnh.
3. Quản lý lao động xã hội, thi hành các biện pháp hoặc kiến
nghị các chủ trương, biện pháp để mọi người có khả năng lao động đều có việc
làm, có tổ chức sử dụng và quản lý.
4. Tổ chức và điều hòa các mối quan hệ kinh tế diễn ra trên
lãnh thổ giữa các đơn vị kinh tế trung ương và các đơn vị kinh tế địa phương,
hoặc giữa các đơn vị kinh tế địa phương.
5. Tổ chức và chăm lo cải thiện đời sống của nhân dân trong
lãnh thổ tỉnh.
6. Quản lý và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường,
theo đúng những quy định của Nhà nước.
B. Đối với kinh tế do cấp tỉnh trực tiếp quản lý
1. Căn cứ và đường lối, chính sách của Đảng, phương hướng, nhiệm
vụ và các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch Nhà nước, xét duyệt kế hoạch phát triển
kinh tế – văn hóa – xã hội của tỉnh phát huy mọi khả năng của địa phương, nhằm
thực hiện những nhiệm vụ chung của Nhà nước ở địa phương và nâng cao đời sống của
nhân dân ở địa phương; tổ chức thực hiện kế hoạch ấy.
2. Xét duyệt dự toán ngân sách tỉnh trong phạm vi luật pháp
quy định; tổ chức thực hiện ngân sách ấy.
3. Quản lý nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp địa phương,
xây dựng, giao thông vận tải và các ngành kinh tế, văn hóa xã hội khác trực thuộc
chính quyền địa phương; bảo đảm các ngành, các tổ chức, các cơ quan ấy phát triển
mạnh mẽ, hoàn thành tốt kế hoạch Nhà nước và chấp hành tốt pháp luật của Nhà nước,
bảo đảm quản lý tốt mọi tài sản, tài nguyên được giao quản lý và chịu trách nhiệm
về lãi, lỗ đối với phần kinh tế được giao trực tiếp quản lý.
C. Đối với các cơ sở kinh tế do các Bộ trực tiếp quản lý.
Như điều lệ về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Chính phủ,
trong chương IV, điều 19 đã ghi:
1. Tham gia ý kiến vào quy hoạch, và kế hoạch phát triển của
các đơn vị sản xuất, kinh doanh trực thuộc trung ương có liên quan đến quy hoạch
chung trên lãnh thổ, đến việc phát triển các điều kiện lao động và sinh hoạt
chung của địa phương, nhằm tận dụng mọi khả năng vật chất và kỹ thuật trong phạm
vi lãnh thổ để phát triển sản xuất, bảo đảm lợi ích cả nước đồng thời phục vụ lợi
ích của nhân dân ở địa phương.
2. Tham gia ý kiến vào việc thiết lập, mở rộng, thu hẹp, bãi bỏ,
di chuyển các đơn vị trung ương, vào việc quyết định chọn địa điểm xây dựng các
công trình trực thuộc các Bộ.
3. Tổ chức và chăm lo không ngừng tăng cường và cải thiện những
cơ sở vật chất bảo đảm những điều kiện cần thiết cho sản xuất và lao động trong
lãnh thổ (tức là bảo đảm về kết cấu kinh tế hạ tầng cho hoạt động của các cơ sở
do trung ương hoặc do tỉnh trực tiếp quản lý).
4. Tổ chức và chăm lo cải thiện đời sống của công nhân, cán bộ,
nhân viên, thống nhất chỉ đạo và quản lý việc xây dựng những khu nhà ở, chỉ đạo
việc phát triển sự nghiệp phúc lợi công cộng và phúc lợi tập thể (bao gồm ăn, ở,
đi lại, giáo dục, y tế, giải trí…) của các đơn vị đó.
5. Giáo dục, động viên công nhân, cán bộ và nhân viên các đơn
vị ấy thực hiện mọi nhiệm vụ kế hoạch và công tác của Nhà nước.
6. Chỉ đạo các đơn vị hành chính và kinh tế ở địa phương cung
cấp nhân lực, nguyên liệu, vật liệu do địa phương sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch
Nhà nước, hoặc theo hợp đồng kinh tế trên nguyên tắc kinh doanh xã hội chủ
nghĩa.
7. Bảo đảm trật tự an ninh trong địa phương.
8. Kiểm tra việc chấp hành đúng các chính sách, chế độ và luật
pháp của Nhà nước, gồm cả những quyết định do chính quyền địa phương ban hành
theo thẩm quyền của mình.
D. Đối với các mặt hoạt động khác.
1. Căn cứ vào luật pháp của Nhà nước, ban hành những quy định
về các mặt h của Nhà nước ở địa phương, và bảo đảm sự tôn tọng và chấp hành
pháp luật của Nhà nước.
2. Giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản công cộng, xây dựng
lực lượng quân sư địa phương.
3. Quản lý tổ chức, biên chế và cán bộ thuộc cấp tỉnh.
Chương II
QUY
HOẠCH VÀ KẾ HOẠCH
Điều 7. – Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về phân vùng và quy hoạch là:
1. Tham gia ý kiến với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và các
Bộ trong việc phân vùng kinh tế, xây dựng quy hoạch của các ngành về phần liên
quan đến lãnh thổ tỉnh.
2. Tham gia ý kiến với Ủy ban Kế hoạch Nhà nước trong
việc xây dựng quy hoạch vùng kinh tế bao gồm nhiều tỉnh (trong đó có tỉnh
mình), và quy hoạch những hợp thể kinh tế lớn, kết hợp công nghiệp và nông –
lâm nghiệp, có liên quan đến nhiều tỉnh (trong đó có tỉnh mình).
3. Theo sự hướng dẫn của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, chủ
động xây dựng quy hoạch kinh tế của tỉnh, bao gồm:
- Quy hoạch các hoạt động kinh tế tỉnh để làm nhiệm vụ đối với
tổng thể kinh tế lãnh thổ;
- Quy hoạch phần kinh tế do cấp tỉnh trực tiếp quản lý, vừa bảo
đảm mối quan hệ khăng khích với quy hoạch chung, vừa phát huy những khả năng tiềm
tàng của địa phương.
Để giúp cho cấp tỉnh hoàn thành ba nhiệm vụ về công tác quy hoạch
vừa nêu trên, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước thông báo kịp thời cho cấp tỉnh những
phương hướng, chủ trương và những phần nội dung của phác thảo đầu tiên về quy
hoạch kinh tế có liên quan đến tỉnh. Các Bộ bàn bạc, thống nhất ý kiến với cấp
tỉnh về những phần trong quy hoạch ngành có liên quan đến tỉnh, cụ thể là những
điểm sau đây:
a) Chủ trương xây dựng trên lãnh thổ tỉnh những cơ sở sản xuất,
kinh doanh hoặc sự nghiệp do Bộ sẽ thiết lập (hoặc mở rộng) và trực tiếp quản
lý.
b) Những điều kiện cần thiết cho sự phát triển của những cơ sở
đó, như:
- Tài nguyên, đất đai, rừng núi, sông, bờ biển... được sử dụng
và những công trình sẽ xây dựng;
- Các yêu cầu về kết cấu kinh tế hạ tầng cho những cơ sở ấy hoạt
động;
- Các nguyên liệu, vật liệu... cần tổ chức sản xuất và cung ứng
trong phạm vi lãnh thổ;
- Số lượng lao động các loại cần cho các cơ sở ấy;
- Yêu cầu về tổ chức đời sống các mặt cho công nhân, cán bộ,
nhân viên của những cơ sở ấy và gia đình họ.
c) Những cơ sở sản xuất, kinh doanh, sự nghiệp, hoặc khối lượng
sản xuất, khối lượng công tác mà cấp tỉnh sẽ thiết lập và trực tiếp quản lý, và
các điều kiện, các phương tiện mà Bộ quản lý toàn ngành sẽ bảo đảm cho tỉnh.
Điều 8. - Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về kế hoạch là:
1. Lập kế hoạch phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội của
tỉnh, và tham gia vào việc xây dựng kế hoạch của các ngành và kế hoạch kinh tế
quốc dân về những mặt, những phần có liên quan đến lãnh thổ tỉnh.
Nội dung chủ yếu của kế hoạch tỉnh (kế hoạch 5 năm và kế hoạch
năm) gồm có:
a) Những chỉ tiêu về nhiệm vụ của tỉnh đối với cả nền kinh tế
quốc dân chung (tức là phần do địa phương cung cấp cho trung ương) về nhân lực,
vật lực, tài lực;
b) Những chỉ tiêu về phần kinh tế do cấp tỉnh trực tiếp quản
lý: khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản, khối lượng các sản phẩm chủ yếu, số lao
động trong biên chế, quỹ tiền lương;
c) Những chỉ tiêu về những phương tiện do trung ương cung cấp
cho tỉnh;
d) Những chỉ tiêu về mức sống của nhân dân trong tỉnh trên một
số mặt chủ yếu.
2. Để xây dựng được kế hoạch tỉnh theo nội dung như
trên, cấp tỉnh phải lập một số bảng cân đối chung cho lãnh thổ tỉnh. Trong thời
gian kế hoạch 5 năm 1976 – 1980, những bảng cân đối ấy là:
a) Cân đối nhân lực;
b) Cân đối vận tải;
c) Cân đối vật liệu xây dựng;
d) Cân đối một số mặt về nước, nhà ở, bệnh viện, trường học,
...;
e) Cân đối hàng tiêu dùng (kể cả lương thực, thực phẩm) cho
dân cư;
g) Cân đối thu chi bằng tiền của dân cư.
Những bảng cân đối lãnh thổ tỉnh trên đây nằm trong kế hoạch tỉnh.
3. Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và các Bộ trình Chính phủ
quyết định một danh mục các sản phẩm mà Bộ chủ quản tiến hành quản lý và kế hoạch
hóa toàn ngành trong toàn xã hội trong kế hoạch 5 năm 1976 – 1980. Các sản phẩm
không thuộc danh mục ấy thì thuộc phạm vi quản lý và kế hoạch hóa của địa
phương và do cấp tỉnh quyết định kế hoạch.
4. Về kết cấu kinh tế hạ tầng, trong kế hoạch 5 năm
1976 – 1980, cấp tỉnh chịu trách nhiệm xây dựng và quản lý việc sử dụng mấy loại
sau đây: một số đường giao thông, một phần lực lượng vận tải đường bộ và đường
sông, một số bến bãi, kho tàng, một phần phương tiện bốc dỡ dùng chung cho mọi
hoạt động kinh tế trên lãnh thổ tỉnh, việc cung cấp nước cho sản xuất và đời sống
... (Điện vẫn do Công ty trực thuộc trung ương thống nhất quản lý, nhưng chịu sự
kiểm tra của Ủy ban hành chính tỉnh trong việc phục vụ cho sản xuất và đời sống
trên lãnh thổ tỉnh).
5. Việc kết hợp kế hoạch hóa theo ngành và kế hoạch hóa
theo lãnh thổ, kết hợp giữa công tác kế hoạch hóa của các Bộ và công tác kế hoạch
hóa của Ủy ban hành chính tỉnh đã được xác định trong Bản quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của các Bộ trong lĩnh vực quản lý kinh tế.
Căn cứ vào số kiểm tra của kế hoạch Nhà nước do Hội đồng Chính
phủ giao (theo nội dung kế hoạch tỉnh đã nêu trên), chính quyền cấp tỉnh lãnh đạo
các ty chuyên môn của tỉnh và các cơ quan Nhà nước cấp huyện xây dựng kế hoạch
tỉnh.
Dưới sự lãnh đạo của Bộ chủ quản, ty xây dựng kế hoạch ngành ở
tỉnh. Nếu có ý kiến khác nhau giữa Ủy ban hành chính tỉnh và Bộ, thì Bộ trực tiếp
bàn bạc với Ủy ban hành chính tỉnh để đi đến thống nhất ý kiến. Nếu làm như vậy
mà vẫn chưa giải quyết được thì vấn đề sẽ được nêu ra thảo luận khi bảo vệ kế
hoạch tại Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và trong trường hợp cần thiết, thì báo cáo
lên Thủ tướng Chính phủ.
Ủy ban Kế hoạch tỉnh tổng hợp các dự án kế hoạch của các ty và
của các huyện, cân đối lại và xây dựng thành dự án kế hoạch tỉnh, trình Ủy ban
hành chính tỉnh xét và đưa ra Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định.
6. Để thực hiện tốt việc kết hợp kế hoạch hóa theo
ngành và kế hoạch hóa theo lãnh thổ, đặc biệt về vấn đề đầu tư xây dựng cơ bản,
bắt đầu từ kế hoạch Nhà nước 5 năm 1976 – 1980 phải thực hiện những biện pháp
sau đây:
a) Bộ chủ quản thông báo cho Ủy ban hành chính tỉnh dự án đầu
tư của ngành mình trên lãnh thổ tỉnh, để Ủy ban hành chính tỉnh nghiên cứu,
phát biểu ý kiến đối với dự án ấy về phương diện kinh tế – xã hội trên lãnh thổ.
b) Những dự án đầu tư thuộc kinh tế địa phương mà Ủy ban hành
chính đề nghị lên Chính phủ phải được các Bộ chủ quản xem xét và cho ý kiến trước
khi Ủy ban Kế hoạch Nhà nước trình Chính phủ phê chuẩn.
c) Mở những hội nghị gọi là hội nghị kinh tế lãnh thổ do một đồng
chí Phó thủ tướng thay mặt Thường vụ Hội đồng Chính phủ chủ trì, Ủy ban Kế hoạch
Nhà nước chuẩn bị, có các đại diện có thẩm quyền của các Bộ có liên quan, Chủ tịch
Ủy ban hành chính tỉnh và các thủ trưởng các ngành có liên quan của tỉnh dự để
cùng nhau thảo luận, đi đến nhất trí về các vấn đề cần thiết, trong việc xác định
kế hoạch đầu tư của các ngành cũng như của tỉnh trên lãnh thổ tỉnh. Hội nghị
kinh tế lãnh thổ bàn về tỉnh nào thì họp ngay tỉnh ấy.
7. Việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch và điều chỉnh kế hoạch
khi cần thiết tiến hành như đã xác định trong Bản quy định về nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của các Bộ trong lĩnh vực quản lý kinh tế.
Chương III
QUẢN
LÝ CÁC NGÀNH SẢN XUẤT
Điều 9. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về quản lý nông – lâm nghiệp là:
1. Theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của các cơ quan chủ quản
trung ương, chỉ đạo các ty có liên quan và các Ủy ban hành chính huyện xây dựng
kế hoạch nông – lâm nghiệp trong tỉnh và trong từng huyện của tỉnh.
2. Chỉ đạo các Ủy ban hành chính huyện và các ty
có liên quan xây dựng kế hoạch nông – lâm nghiệp 5 năm và hàng năm; chỉ đạo Ủy
ban Kế hoạch cùng với Ủy ban nông nghiệp và Ty lâm nghiệp tổng hợp kế hoạch
nông – lâm nghiệp của các huyện, kế hoạch của các đơn vị sản xuất nông – lâm
nghiệp trực thuộc cấp tỉnh, kế hoạch của các tổ chức kinh tế phục vụ nông – lâm
nghiệp trực thuộc cấp tỉnh, cân đối lại và xây dựng thành kế hoạch nông – lâm
nghiệp tỉnh.
3, Trực tiếp quản lý nông – lâm nghiệp trong tỉnh dưới
sự quản lý thống nhất của Ủy ban Nông nghiệp trung ương và Tổng cục Lâm nghiệp
về các mặt sau đây: hướng dẫn xây dựng quy hoạch và kế hoạch nông – lâm nghiệp
tỉnh; xác định những quy trình, quy phạm kỹ thuật áp dụng cho cả nước, hoặc cho
từng vùng, từng tỉnh; xây dựng những chính sách, chế độ quản lý thống nhất đối
với kinh tế nông nghiệp cả nước; phân phối và cung ứng cho tỉnh theo kế hoạch
đã duyệt, những phương tiện, vật tư mà Chính phủ giao cho các Bộ chủ quản thống
nhất quản lý (những vật tư này thông qua hệ thống kinh doanh, được giao cho cấp
tỉnh trực tiếp quản lý và sử dụng); kiểm tra việc chấp hành kế hoạch và các chủ
trương, chính sách của Nhà nước.
4. Chỉ đạo và kiểm tra toàn bộ công tác lâm nghiệp
trong tỉnh trong phạm vi thẩm quyền của mình, bảo đảm chấp hành các chỉ tiêu
pháp lệnh Nhà nước giao, và theo sự hướng dẫn của Tổng cục Lâm nghiệp.
Riêng ngành khai thác, chế biến và phân phối gỗ thì Tổng cục
Lâm nghiệp trực tiếp quản lý, hoặc ủy cho địa phương quản lý một phần, theo điều
lệ về quản lý lâm nghiệp do Tổng cục Lâm nghiệp xây dựng và trình Chính phủ.
5. Thông qua các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh mà quản lý
và chỉ đạo các nông trường, lâm trường do Chính phủ giao (hoặc do tỉnh xây dựng).
6. Chỉ đạo các trạm, trại nghiên cứu kỹ thuật và sản xuất
giống trực thuộc tỉnh, các công ty tư liệu sản xuất phục vụ nông – lâm nghiệp
trong tỉnh, các công trình đầu mối tưới tiêu trong phạm vi tỉnh. Theo sự hướng
dẫn của Ủy ban Nông nghiệp trung ương và của Tổng cục Lâm nghiệp, Ủy ban hành
chính tỉnh duyệt các đề tài nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật mới nông – lâm nghiệp
trong tỉnh, quyết định việc ứng dụng và quy mô ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật
vào sản xuất nông – lâm nghiệp trong tỉnh.
7. Tổ chức và kiểm tra việc thực hiện trong tỉnh các luật
pháp và thể lệ về nông nghiệp và lâm nhgiệp (về bảo vệ và sử dụng ruộng đất, về
bảo vệ rừng, trồng rừng và khai thác lâm sản)
Huy động nhân lực, vật lực, tài lực trong tỉnh để bảo vệ đê điều,
chống lũ, lụt, chống cháy rừng.
8. Chỉ đạo các Ủy ban hành chính huyện tổ chức lại sản
xuất và cải tiến quản lý nông nghiệp và lâm nghiệp trên địa bàn từng huyện; hướng
dẫn và giúp đỡ Ủy ban hành chính huyện trong việc chỉ đạo các hợp tác xã sản xuất
nông nghiệp (nông – lâm nghiệp) tổ chức lại sản xuất, cũng như trong việc cải
tiến phương thức quản lý nông – lâm nghiệp, hướng dẫn tổng kết kinh nghiệm, khắc
phục những chỗ yếu, uốn nắn những lệch lạc, phổ biến những kinh nghiệm tốt.
Điều 10. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về quản lý công nghiệp là:
1. Tham gia ý kiến với các Bộ và với Ủy ban Kế hoạch
Nhà nước trong việc xây dựng quy hoạch công nghiệp, đặc biệt là về chủ trương đầu
tư xây dựng những trung tâm công nghiệp do trung ương trực tiếp quản lý đặt
trên lãnh thổ tỉnh.
Dưới sự hướng dẫn của các Bộ quản lý công nghiệp và của Ủy ban
Kế hoạch Nhà nước, chỉ đạo các ty có liên quan xây dựng quy hoạch phần công
nghiệp do cấp tỉnh trực tiếp quản lý.
2. Thông qua các ty chuyên mông, các Ủy ban hành chính
huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, quản lý những cơ sở công nghiệp do tỉnh
trực tiếp quản lý và các cơ sở tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp trong tỉnh.
Chỉ đạo các ty có liên quan và các Ủy ban hành chính huyện, thị
xã, thành phố trực thuộc tỉnh xây dựng kế hoạch công nghiệp 5 năm và hàng năm
(bao gồm cả kế hoạch tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp do tỉnh hoặc do huyện
trực tiếp quản lý)
Tham gia ý kiến vào dự án kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm
của các đơn vị sản xuất công nghiệp do trung ương trực tiếp quản lý đặt trên
lãnh thổ tỉnh về những phần liên quan đến nhiệm vụ và quyền hạn quản lý trên
lãnh thổ của Ủy ban hành chính tỉnh (như về kết cấu hạ tầng, về lao động, về
nguyên liệu, về đời sống của công nhân, cán bộ, nhân viên...)
Chỉ đạo việc tổng hợp kế hoạch sản xuất công nghiệp, tiểu công
nghiệp, thủ công nghiệp của tỉnh bao gồm: kế hoạch của các đơn vị sản xuất tiểu
công nghiệp và thủ công nghiệp do các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trực
tiếp quản lý, kế hoạch của các đơn vị sản xuất công nghiệp do cấp tỉnh trực tiếp
quản lý, và những phần cần thiết trong kế hoạch của các đơn vị sản xuất công
nghiệp do trung ương trực tiếp quản lý đặt trên lãnh thổ tỉnh.
3. Bộ công nghiệp nhẹ chịu trách nhiệm chỉ đạo công
nghiệp địa phương thông qua các ty hoặc phòng công nghiệp địa phương. Bộ công
nghiệp nhẹ có trách nhiệm liên hệ, bàn bạc với các bộ có liên quan, thống nhất
ý kiến để xây dựng quy định, kế hoạch trong cả nước đối với các ngành thuộc
công nghiệp do cấp tỉnh trực tiếp quản lý. Sau khi kế hoạch đã được thông qua,
Bộ Công nghiệp nhẹ làm nhiệm vụ của Bộ chủ quản công nghiệp địa phương, chỉ đạo
và kiểm tra thực hiện kế hoạch ấy trong phạm vi cả nước.
4. Những chủ trương đầu tư mới về phân công nghiệp do cấp
tỉnh trực tiếp quản lý, nếu thuộc danh mục sản phẩm được quy hoạch và quản lý
toàn ngành thì phải được sự thỏa thuận của Bộ chủ quản ngành, không kể vốn đầu
tư là của trung ương trợ cấp, của tỉnh tự lo, hay là vay của ngân hàng. Quy mô
đầu tư, phương án kỹ thuật và phương án sản phẩm của những cơ sở mới xây dựng ấy
phải do Bộ chủ quản ngành duyệt.
5. Ủy ban hành chính tỉnh có nhiệm vụ thực hiện sự quản
lý của Nhà nước đối với tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp trong tỉnh, thông
qua các ty chuyên môn. Đối với các ngành tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp có
đủ điều kiện, phải chuyển ngay sang cách quản lý công nghiệp và phải kế hoạch
hóa và quản lý các đơn vị sản xuất ấy theo ngành kinh tế – kỹ thuật.
6. Về chỉ đạo thực hiện kế hoạch sản xuất công nghiệp, Ủy
ban hành chính tỉnh:
a) Thông qua các ty và các Ủy ban hành chính cấp dưới, chỉ đạo
các đơn vị sản xuất công nghiệp trực thuộc tỉnh, các cơ sở tiểu công nghiệp và
thủ công nghiệp trực thuộc huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thực hiện
kế hoạch Nhà nước.
b) Kiểm tra việc thực hiện các chính sách, chế độ và thể lệ của
Nhà nước trong tất cả các cơ sở công nghiệp đặt trên lãnh thổ; thúc đẩy mở rộng
sự hợp tác thông qua các hợp đồng kinh tế ký kết giữa các xí nghiệp do trung
ương trực tiếp quản lý và các xí nghiệp do địa phương trực tiếp quản lý.
c) Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của các xí nghiệp do trung
ương trực tiếp quản lý về những phần có liên quan đến nhiệm vụ và quyền hạn quản
lý trên lãnh thổ của Ủy ban hành chính tỉnh.
Điều 11. – Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về quản lý xây dựng là:
1. Theo quy hoạch phát triển và phân bố các đơn vị sản
xuất, kinh doanh thuộc các ngành trên lãnh thổ tỉnh đã được trung ương duyệt,
xây dựng quy hoạch các thành phố thuộc tỉnh, các thị xã, thị trất, các khu nhà ở,
các công trình phúc lợi công cộng trong tỉnh, và thống nhất quản lý việc xây dựng
theo quy hoạch đó.
Kế hoạch đầu tư xây dựng nhà ở, các công trình phúc lợi, cũng
như kết cấu kinh tế hạ tầng đều ghi vào kế hoạch tỉnh và do cấp tỉnh trực tiếp
quản lý.
2. Tham gia ý kiến với các Bộ có liên quan và với Ủy
ban Kế hoạch Nhà nước trong việc xác định địa điểm xây dựng trong lãnh thổ tỉnh
cho các cơ sở kinh tế trực thuộc trung ương.
Chỉ đạo các Ty và các Ủy ban hành chính huyện trong việc bố
trí địa điểm của các cơ sở do các cấp chính quyền địa phương trực tiếp quản lý.
3. Xây dựng các công trình do địa phương phụ trách: nhà
ở, công trình công nghiệp loại nhỏ, công trình công cộng, công trình kỹ thuật đô
thị, các công trình dân dụng khác; nhận thầu xây dựng các công trình của các
ngành trung ương như xây dựng nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, thủy lợi,
v.v... Tất cả các công trình của trung ương giao cho địa phương xây dựng này đều
phải ghi vào kế hoạch Nhà nước, và phải được cung ứng đầy đủ và đúng hạn các
phương tiện, vật tư để bảo đảm thực hiện kế hoạch xây dựng.
Bộ xây dựng đảm nhiệm xây dựng các công trình lớn của địa
phương đòi hỏi kỹ thuật phức tạp mà địa phương chưa làm được.
4. Chỉ đạo lập kế hoạch xây dựng của địa phương bao gồm
cả khu vực Nhà nước, khu vực tập thể và khu vực nhân dân; góp ý kiến vào kế hoạch
xây dựng của các ngành trung ương xây dựng trong tỉnh.
Chỉ đạo Ty xây dựng và các ty có liên quan lập kế hoạch đầu tư
đi liền với kế hoạch giao nhận thầu và kế hoạch thi công xây lắp do các cấp
chính quyền địa phương trực tiếp quản lý; chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện
các kế hoạch ấy.
5. Tỉnh tổ chức ngành xây dựng của mình theo hướng tập
trung, chuyên môn hóa thích hợp với trình độ phát triển. Ty xây dựng phụ trách
xây dựng các công trình công nghiệp, nhà ở, các công trình dân dụng, các công
trình kiến trúc trong nông nghiệp, Ty giao thông phụ trách xây dựng các công
trình giao thông, Ty thủy lợi phụ trách xây dựng các công trình thủy lợi.
Quản lý các lực lượng xây dựng và các cơ sở sản xuất vật liệu
xây dựng thuộc các cấp chính quyền địa phương quản lý (bao gồm lực lượng quốc
doanh, hợp tác xã và cá thể) đưa các lực lượng đó vào bảng cân đối xây dựng
trên lãnh thổ, chịu sự quản lý thống nhất theo ngành và sự điều động của Bộ Xây
dựng, và tích cực tham gia xây dựng các công trình trọng điểm của Nhà nước.
6. Chỉ đạo Ty xây dựng và các ty có liên quan, đồng thời
chỉ đạo các Ủy ban hành chính huyện, thị trấn, thành phố thuộc tỉnh xây dựng và
thực hiện quy hoạch và kế hoạch phát triển sản xuất vật liệu xây dựng do các cấp
chính quyền địa phương trực tiếp quản lý.
Chỉ đạo Ty xây dựng lập bảng cân đối vật liệu xây dựng trên
lãnh thổ tỉnh, gửi Bộ Xây dựng xét duyệt, và bảo đảm thực hiện bảng cân đối đó.
Trường hợp không thực hiện đủ kế hoạch sản xuất vật liệu xây dựng, thì Ủy ban
hành chính tỉnh phải ưu tiên cung ứng cho các công trình trọng điểm do trung
ương trực tiếp quản lý.
7. Cấp đất xây dựng theo đúng chế độ quản lý của Nhà nước,
kiểm tra việc chấp hành các chính sách, chế độ Nhà nước về sử dụng đất xây dựng
trên lãnh thổ tỉnh.
8. Với sự giúp đỡ của Bộ xây dựng, chỉ đạo Ty xây dựng
lập những bản thiết kế mẫu nhà ở, trường học, bệnh xá... để hướng dẫn việc xây
dựng nông thôn hợp với yêu cầu của sản xuất, đời sống và hợp với các điều kiện
tự nhiên và xã hội trong tỉnh.
Điều 12. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về quản lý giao thông vận tải là:
1. Tham gia ý kiến với các Bộ liên quan và với Ủy ban Kế
hoạch Nhà nước trong việc xây dựng quy hoạch giao thông vận tải, quy hoạch bưu
điện (phần có liên quan đến giao thông vật tải và bưu điện trong tỉnh).
Chỉ đạo Ty giao thông vận tải xây dựng quy hoạch giao thông vận
tải về phần do địa phương trực tiếp quản lý.
Hướng dẫn các huyện chỉ đạo các Ủy ban hành chính xã quy hoạch
đường giao thông trong nông thôn kết hợp với xây dựng thủy lợi, xây dựng đồng
ruộng, xây dựng địa bàn cơ giới hóa nông nghiệp trong hợp tác xã sản xuất nông
nghiệp (hoặc nông – lâm nghiệp)
2. Thông qua Ty giao thông vận tải, quản lý các hệ thống
giao thông thuộc địa phương, các cơ sở quốc doanh và hợp tác xã vận tải hành
khách và hàng hóa, các cơ sở xây dựng công trình giao thông đường thủy và đường
bộ, các cơ sở sản xuất, sửa chữa thiết bị và phương tiện giao thông vận tải,
các cơ sở quốc doanh và hợp tác xã bốc dỡ hoặc chuyển tải, các công trình giao
thông vận tải công cộng trong tỉnh. Ty giao thông vận tải tập trung quản lý tất
cả các xe ô-tô vận tải công cộng trong địa phương, nhằm sử dụng tốt hơn công suất
của phương tiện, đáp ứng tốt các nhu cầu vận tải trong lãnh thổ tỉnh.
Thông qua các Ủy ban hành chính huyện lãnh đạo và giáo dục
nhân dân địa phương thường xuyên chăm lo bảo vệ tốt các hệ thống đường giao
thông, các công trình giao thông công cộng và các phương tiện vận tải trong tỉnh,
nhất là đối với các quốc lộ, đường sắt, bến xe, bến cảng...
3. Phối hợp với Bộ chủ quản chỉ đạo Ty giao thông, các
ty có liên quan và các Ủy ban hành chính huyện xác định kế hoạch vận tải (kể cả
kế hoạch vận tải trong phạm vi tỉnh cho các đơn vị kinh tế do trung ương trực
tiếp quản lý đặt trong lãnh thổ tỉnh). Trường hợp tỉnh không đủ khả năng cân đối
thì Ủy ban hành chính tỉnh phải báo cáo và bàn bạc với Bộ Giao thông vận tải và
Ủy ban Kế hoạch Nhà nước để bảo đảm cân đối.
Ủy ban hành chính tỉnh phải có kế hoạch phát triển hệ thống đường
giao thông trong tỉnh, nhất là đối với các khu kinh tế mới, các khu công nghiệp;
thường xuyên sửa chữa, bảo dưỡng nâng cấp đường, bảo đảm giao thông thông suốt,
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và đời sống; bảo đảm bố trí sử dụng hợp lý mọi
lực lượng vận tải trong tỉnh; quản lý tốt lực lượng vận tải quốc doanh (theo hướng
tập trung, chuyên môn hóa), tận dụng hợp lý khả năng các trạm máy kéo, huy động
năng lực vận tải của các hợp tác xã vận tải và của cả các hợp tác xã sản xuất
nông nghiệp (hoặc nông – lâm nghiệp)
Để phát triển đúng hướng và cân đối các lực lượng vận tải địa
phương, Bộ Giao thông vận tải quy hoạch và tổ chức lại mạng lưới vận tải chung,
và quy định sự phân công, phối hợp giữa lực lượng vận tải trực thuộc trung ương
với lực lượng vận tải trực thuộc địa phương (gồm xí nghiệp quốc doanh trực thuộc
tỉnh, xí nghiệp quốc doanh trực thuộc huyện, và hợp tác xã vận tải) trong phạm
vi lãnh thổ tỉnh.
4. Trong việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch giao thông vận
tải của tỉnh, Ủy ban hành chính tỉnh:
a) Chỉ đạo Ty giao thông vận tải và các Ủy ban hành chính huyện
bảo đảm vận tải cho tất cả các đơn vị trong lãnh thổ tỉnh, gồm cả các đơn vị do
trung ương trực tiếp quản lý đặt trong lãnh thổ tỉnh, cũng như các đơn vị do cấp
tỉnh trực tiếp quản lý, theo đúng chỉ tiêu kế hoạch và theo hợp đồng kinh tế.
b) Tổ chức điều hòa vận tải cho khớp với yêu cầu và khả năng
thực hiện kế hoạch giao thông vận tải của tỉnh, bảo đảm ưu tiên vận tải cho những
đơn vị, những việc cần được ưu tiên, bảo đảm vận tải cho trung ương khi có nhu
cầu đột xuốt do Hội đồng Chính phủ giao hoặc Bộ giao thông vận tải yêu cầu.
c) Kiểm tra tất cả các đơn vị kinh tế trong lãnh thổ tỉnh về mặt
chấp hành các chính sách chế độ và luật lệ giao thông vận tải, về thực hiện kế
hoạch vận tải và hợp đồng vận tải.
Chương IV
QUẢN
LÝ TÀI CHÍNH, NGÂN HÀNG VÀ GIÁ CẢ
Điều 13. – Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm về quản lý tài chính Nhà nước của Ủy ban hành chính tỉnh là:
1. Lãnh đạo, tổ chức thực hiện và đôn đốc kiểm tra việc
thu nộp ngân sách Nhà nước (ngân sách trung ương và ngân sách tỉnh), của các xí
nghiệp quốc doanh, các hợp tác xã, các đơn vị sự nghiệp và đơn vị dự toán trong
lãnh thổ tỉnh theo đúng chính sách của Nhà nước, bảo đảm thu đúng kế hoạch,
đúng chế độ, thể lệ quy định thu nộp đủ và kịp thời và ngân sách Nhà nước; tích
cực chống thất thu, phát huy tốt tác dụng của các chính sách thu, thúc đẩy sản
xuất phát triển đúng phương hướng của kế hoạch Nhà nước, tăng cường quản lý thị
trường, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
2. Kiểm tra tài chính đối với tất cả các cơ quan, đơn vị
dự toán, đơn vị sự nghiệp, xí nghiệp quốc doanh đóng tại tỉnh để bảo vệ tài sản
Nhà nước, thực hành triệt để tiết kiệm, bảo đảm mọi nguồn vốn tài chính được
dùng đúng mục đích quy định, nâng cao hiệu quả đồng vốn, bài trừ tệ tham ô,
lãng phí và xâm phạm của công.
3. Lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng và tổ chức thực hiện
ngân sách tỉnh theo đúng chính sách, chế độ của Nhà nước và theo đúng sự hướng
dẫn, chỉ đạo của Bộ Tài chính, bảo đảm phát huy tác dụng của ngân sách tỉnh là
công cụ tài chính để thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội và
quản lý Nhà nước của chính quyền tỉnh.
4. Chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra chính quyền cấp dưới
xây dựng và quản lý ngân sách xã theo đúng điều lệ ngân sách xã và các chế độ
thể lệ của Nhà nước, bảo đảm thu đúng chính sách, chỉ tiêu tiết kiệm.
Điều 14. – Về công tác quản lý tài vụ
và tổ chức hạch toán kế toán của các ngành, các xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị
do tỉnh trực tiếp quản lý:
1. Ủy ban hành chính tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn,
kiểm tra các ngành, các đơn vị xí nghiệp, cơ quan trực thuộc tỉnh về công tác
quản lý tài vụ và tổ chức hạch toán kế toán theo đúng các chế độ và thể lệ tài
chính của Nhà nước, bảo đảm việc chấp hành nghiêm chỉnh chế độ hạch toán kinh tế,
tôn trọng kỷ luật tài chính, chống tham ô, lãng phí, nhằm thực hiện những nhiệm
vụ kế hoạch kinh tế quốc dân với hiệu quả cao nhất.
2. Đối với tài vụ hợp tác xã, Ủy ban hành chính tổ chức
kiểm tra các hợp tác xã làm tốt công tác kế toán và công tác quản lý tài vụ để
góp phần bảo đảm và phát huy quyền làm chủ tập thể của xã viên, phát huy tác dụng
giám đốc của kế toán, tài vụ đối với sản xuất và kinh doanh của hợp tác xã, để
bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, chống lãng phí, tham ô, bảo đảm thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ của hợp tác xã đối với Nhà nước và yêu cầu tăng cường tích lũy của
hợp tác xã, nâng cao đời sống của xã viên.
Điều 15. – Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về quản lý ngân hàng là:
1. Chỉ đạo Chi nhánh ngân hàng Nhà nước ở tỉnh phối hợp
với các ty chuyên môn xây dựng kế hoạch tín dụng dài hạn, kế hoạch tín dụng ngắn
hạn, kế hoạch tiền mặt của các cơ sở trực thuộc tỉnh và của các hợp tác xã
trong tỉnh; các kế hoạch đó do các cơ sở lập và gửi đến Chi nhánh ngân hàng Nhà
nước. Chỉ đạo Chi nhánh ngân hàng Nhà nước lập bảng cân đối thu chi bằng tiền của
dân cư trong tỉnh.
2. Kiểm tra Chi nhánh ngân hàng Nhà nước ở tỉnh trong
việc thực hiện kế hoạch tín dụng dài hạn cho các tổ chức kinh tế thuộc tỉnh và
chấp hành đúng các chínhs ách Nhà nước về tín dụng và tiền tệ.
3. Tổ chức động viên nhân dân trong tỉnh gửi tiền vào
quỹ tiết kiệm.
4. Để giúp Ủy ban hành chính tỉnh chỉ đạo việc xây dựng
và thực hiện kế hoạch tín dụng của tỉnh, thành lập ở mỗi tỉnh một hội đồng tín
dụng do một Phó chủ tịch Ủy ban hành chính tỉnh làm chủ tịch và các đại diện của
Chi nhánh ngân hàng Nhà nước ở tỉnh, Ty tài chính và Ủy ban Kế hoạch tỉnh làm ủy
viên.
Điều 16. – Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về quản lý giá cả là:
1. Chỉ đạo các ngành, các cấp trực thuộc nghiêm chỉnh
thực hiện đúng mọi chính sách chế độ quản lý giá cả;
2. Quy định những loại giá thuộc danh mục mà trung ương
giao cho cấp tỉnh quyết định;
3. Đề ra và chỉ đạo thực hiện những biện pháp cụ thể về
quản lý giá cả trong tỉnh;
4. Thường xuyên kiểm tra tất cả cá đơn vị kinh tế, văn
hóa trong lãnh thổ tỉnh (kể cả những đơn vị trực thuộc trung ương) về mặt chấp
hành chính sách, chế độ quản lý giá cả cho Nhà nước và nhân dân, Ủy ban hành
chính tỉnh có quyền ra lệnh sửa đổi hoặc đình chỉ thi hành, đồng thời báo ngay
cho Ủy ban Vật giá Nhà nước và Bộ có liên quan.
Chương V
QUẢN
LÝ LAO ĐỘNG VÀ TIỀN LƯƠNG, ĐÀO TẠO CÁN BỘ VÀ CÔNG NHÂN KỸ THUẬT
Điều 17. – Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về quản lý lao động là:
1. Tổ chức quản lý mọi lực lượng lao động xã hội trong
tỉnh, không được để những người có khả năng lao động mà không có tổ chức nào quản
lý; bảo đảm việc sử dụng lao động hợp lý, đúng các chính sách, chế độ quản lý
kinh tế, quản lý lao động.
2. Tuyển và cung cấp đủ lực lượng lao động cho nhu cầu
quốc phòng và các nhu cầu khác của cả nước theo đúng nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ
lao động của công dân và kế hoạch của Nhà nước.
3. Theo đúng chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước và hợp đồng về
lao động thời vụ, cung cấp đủ lực lượng lao động thường xuyên và lao động thời vụ
cho các cơ sở kinh tế do các Bộ trực tiếp quản lý đặt trong lãnh thổ tỉnh.
4. Tổ chức quản lý toàn diện lao động trong các ngành,
các cấp, các đơn vị cơ sở do địa phương trực tiếp quản lý; quy định các đm lao
động đối với những công việc mà trung ương không thống nhất quản lý; hướng dẫn,
chỉ đạo việc tổ chức lao động và định mức lao động đối với các đơn vị cơ sở thuộc
khu vực sở hữu tập thể.
5. Tổ chức phân bố lực lượng lao động cho các vùng kinh
tế mới trong tỉnh hoặc điều động cho tỉnh khác, theo đúng quy hoạch, kế hoạch
và chính sách, chế độ của Nhà nước.
6. Kiểm tra thường xuyên việc sử dụng lao động ở tất cả
các đơn vị cơ sở trong lãnh thổ tỉnh (kể cả các cơ sở do các Bộ trực tiếp quản
lý), bảo đảm điều phối lao động trong lãnh thổ tỉnh khớp với tình hình và khả
năng thực hiện kế hoạch Nhà nước của các đơn vị cơ sở ấy.
7. Tổ chức thanh tra lao động, thanh tra kỹ thuật an
toàn lao động và bảo hộ lao động đối với tất cả các đơn vị cơ sở trong lãnh thổ
tỉnh (kể cả các cơ sở do Bộ trực tiếp quản lý) ; giải quyết những trường hợp có
nguy cơ xảy ra tai nạn lao động, hoặc những vụ vi phạm luật an toàn lao động và
bảo hộ lao động theo đúng luật lệ và chế độ của Nhà nước.
Điều 18. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về quản lý tiền lương là:
1. Quyết định việc xếp lương, nâng cấp, nâng bậc cho
cán bộ, công nhân, nhân viên do địa phương trực tiếp quản lý, theo đúng chính
sách, chế độ tiền lương chung và trong phạm vi tổng quỹ lương đã được Chính phủ
xét duyệt cho tỉnh.
2. Quyết định các mức tiền công áp dụng trong địa
phương theo chế độ chung của Nhà nước.
3. Đề nghị với Bộ Lao động nghiên cứu và trình Hội đồng
Chính phủ ban hành mức lương cho những ngành nghề mới ở địa phương mà trong chế
độ lương chung của Nhà nước chưa có; trong khi chờ đợi quyết định, Ủy ban hành
chính tỉnh có quyền quyết định tạm thời, nhưng không được cao hơn mức lương của
các ngành nghề cần đến sự hao phí lao động và trình độ chuyên môn tương đương.
4. Chỉ đạo việc vận dụng các chính sách, chế độ tiền
công, chế độ phúc lợi tập thể trong khu vực kinh tế tập thể ở địa phương.
5. Tổ chức kiểm tra việc chấp hành các chính sách, chế
độ tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp đối với mọi đơn vị cơ sở trong lãnh thổ tỉnh
(kể cả các cơ sở do các Bộ trực tiếp quản lý)
Điều 19. – Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về việc đào tạo công nhân kỹ thuật và
cán bộ là:
1. Theo sự phân công và hướng dẫn của Tổng cục đào tạo
công nhân kỹ thuật, lập và chỉ đạo thực hiện kế hoạch đào tạo thợ mới và bổ túc
nâng cấp kỹ thuật cho công nhân thuộc cấp tỉnh quản lý theo nhu cầu và khả năng
của địa phương (có sự phối hợp với các cơ sở do trung ương trực tiếp quản lý đặt
trong lãnh thổ tỉnh)
2. Quyết định việc mở trường, lớp đào tạo, bổ túc cho
công nhân kỹ thuật theo chỉ tiêu kế hoạch được giao, quyết định việc tuyển sinh
và phân bố số thợ ra trường.
3. Đối với việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ
thuật, cán bộ quản lý kinh tế cho địa phương, theo sự hướng dẫn, giúp đỡ của Bộ
Đại học và trung học chuyên nghiệp và của các Bộ quản lý ngành, Ủy ban hành
chính xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật, cán bộ
quản lý kinh tế từ cơ sở đến trung cấp; xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch
đào tạo cán bộ sơ cấp về kỹ thuật và về quản lý kinh tế cho các đơn vị cơ sở,
nhất là cho các hợp tác xã.
Chương VI
QUẢN
LÝ CUNG ỨNG VẬT TƯ VÀ QUẢN LÝ THƯƠNG NGHIỆP
Điều 20. – Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về quản lý cung ứng vật tư là:
1. Ủy ban hành chính tỉnh chỉ đạo các đơn vị sản xuất
và kinh doanh thuộc tỉnh ký kết và thực hiện các hợp đồng với các tổ chức cung ứng
vật tư của các Bộ; chỉ đạo các tổ chức thuộc tỉnh quản lý và sử dụng các vật tư
được cung ứng một cách tiết kiệm theo đúng các chính sách, chế độ của Nhà nước.
2. Bộ Vật tư và các Bộ khác làm nhiệm vụ cung ứng vật
tư phải chỉ đạo các tổ chức kinh doanh vật tự trực thuộc mình ký kết hợp đồng với
các đơn vị kinh tế do cấp tỉnh trực tiếp quản lý, theo đúng chỉ tiêu kế hoạch
Nhà nước, bảo đảm cung ứng vật tư cho việc thực hiện kế hoạch kinh tế tỉnh, đồng
thời kiểm tra việc sử dụng các vật tư ấy.
Điều 21. – Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về quản lý thương nghiệp là:
1. Theo sự hướng dẫn của Bộ Nội thương, Ủy ban hành
chính tỉnh chỉ đạo các Ty thương nghiệp xây dựng kế hoạch thương nghiệp về thu
mua, điều động hàng hóa, lưu chuyển hàng hóa bán lẻ v.v… theo đúng những chỉ
tiêu pháp lệnh của kế hoạch Nhà nước giao cho tỉnh; chỉ đạo thực hiện kế hoạch ấy.
2. Tham gia ý kiến với Bộ Nội thương trong việc mở rộng
và quản lý thị trường xã hội chủ nghĩa thống nhất; trực tiếp chỉ đạo việc mở rộng
và quản lý thị trường trong tỉnh; thực hiện quản lý Nhà nước đối với mọi hoạt động
thương nghiệp trong lãnh thổ tỉnh theo đúng các chính sách, chế độ và quy định
của Nhà nước.
3. Đối với những loại sản phẩm hàng hóa do kinh tế địa
phương sản xuất mà thuộc loại trung ương thống nhất quản lý sự phân phối, thì Ủy
ban hành chính chỉnh có trách nhiệm chỉ đạo việc thu mua đúng chính sách và
giao nộp cho trung ương theo kế hoạch; nếu không giao nộp đủ kế hoạch mà không
phải vì thiên tai lớn, hoặc không vì trung ương không bảo đảm các điều kiện và
phương tiện đúng như kế hoạch Nhà nước, thì cấp tỉnh phải chịu trách nhiệm về
hành chính, và phải giao nộp đủ vào năm sau.
4. Đối với những loại sản phẩm hàng hóa do tỉnh sản xuất
mà không thuộc loại trung ương thống nhất quản lý sự phân phối, thì Ủy ban hành
chính tỉnh tổ chức và chỉ đạo các đơn vị kinh doanh ký kết hợp đồng thu mua và
cung ứng cho c1c cơ sở trong lãnh thổ theo kế hoạch tỉnh.
5. Đối với việc thu mua những loại sản phẩm thuộc diện
Nhà nước thống nhất quản lý, mà toàn bộ hoặc tuyệt đại bộ phận sẽ điều đi chứ
không để lại trong tỉnh, thì các công ty thu mua trực tiếp trung ương trực tiếp
thu mua, hoặc ủy quyền cho công ty địa phương thu mua và giao nộp theo kế hoạch
Nhà nước; Ủy ban hành chính tỉnh phải động viên, đôn đốc các đơn vị sản xuất
làm đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo kế hoạch Nhà nước; đối với những loại
sản phẩm khác, Ủy ban hành chính tỉnh tổ chức và chỉ đạo việc thu mua và phân
phối trong lãnh thổ tỉnh.
6. Về bán buôn trong thương nghiệp, nói chung đối với
hàng công nghiệp do các công ty bán buôn của trung ương nắm và phân phối; đối với
những loại hàng quy cách hoặc mặt hàng ít phức tạp, thì cố gắng tổ chức việc
giao thẳng từ các xí nghiệp công nghiệp đến các công ty bán lẻ hoặc cửa hàng
bán lẻ của cấp tỉnh theo đúng kế hoạch Nhà nước và sự phân bố của Bộ Nội
thương. Những mặt hàng công nghiệp do kinh tế địa phương sản xuất và chủ yếu là
tiêu thụ trong tỉnh thì do cấp tỉnh tổ chức việc thu mua và phân phối cho mạng
lưới bán lẻ trong tỉnh.
7. Mạng lưới thương nghiệp bán lẻ, ăn uống công cộng,
phục vụ, sửa chữa đồ dùng, v.v… đều do cấp tỉnh trực tiếp quản lý theo đúng những
chính sách, chế độ của Nhà nước và dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của Bộ
Nội thương, các cửa hàng bán lẻ thuộc công ty thương nghiệp tỉnh cũng chịu sự
kiểm tra của chính quyền cấp huyện, thị trấn, thành phố trực thuộc tỉnh.
Chương VII
QUẢN
LÝ KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT
Điều 22. – Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về quản lý khoa học và kỹ thuật là:
1. Căn cứ vào những quy định của Ủy ban Khoa học và kỹ
thuật Nhà nước và theo sự hướng dẫn của Ủy ban này, Ủy ban hành chính tỉnh chỉ
đạo các ty quản lý và kiểm tra việc thực hiện đúng các quy trình kỹ thuật, các
tiêu chuẩn, định mức, các quy định về quản lý đo lường và về chất lượng sản phẩm
ở các đơn vị cơ sở.
2. Chỉ đạo các ty tổ chức thực hiện một số vấn đề
nghiên cứu khoa học và kỹ thuật ứng dụng vào các đơn vị kinh tế do tỉnh trực tiếp
quản lý, theo sự phân công của các Bộ, hoặc có sự phối hợp của các Bộ quản lý
ngành.
3. Quy định những tiêu chuẩn, định mức đối với những
ngành nghề và công việc mà trung ương không quy định, để áp dụng trong các cơ sở
do tỉnh trực tiếp quản lý.
Chương VIII
QUẢN
LÝ ĐỜI SỐNG CỦA DÂN CƯ TRONG TỈNH
Điều 23. – Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về quản lý đời sống là:
1. Căn cứ vào những chỉ tiêu pháp lệnh của kế hoạch Nhà
nước do Hội đồng Chính phủ giao, chỉ đạo các Ty, các Ủy ban hành chính huyện,
thị trấn, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, xây dựng và thực hiện kế hoạch
cung ứng lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng cho dân cư trong tỉnh.
2. Tổ chức quản lý mạng lưới cửa hàng bán lẻ lương thực,
thực phẩm, hàng tiêu dùng cho dân cư trong tỉnh, tổ chức quản lý mạng lưới nhà
ăn tập thể và ăn uống công cộng, mạng lưới phục vụ, sửa chữa đồ dùng; tổ chức
quản lý hệ thống cung cấp nước trong tỉnh; kiểm tra việc cung cấp và sử dụng điện
trong sinh hoạt của nhân dân.
3. Tổ chức quản lý hệ thống đường giao thông và mạng lưới
vận tải, bảo đảm sự đi lại của dân cư trong tỉnh được thuận tiện nhanh chóng.
4. Phát triển các cơ sở y tế, giáo dục, văn hóa, đáp ứng
nhu cầu của dân cư trong tỉnh theo đúng chính sách và tiêu chuẩn Nhà nước; thống
nhất tổ chức và chỉ đạo mạng lưới vườn trẻ, nhà mẫu giáo được hợp lý và thuận
tiện cho các gia đình ở từng khu vực dân cư trong tỉnh.
5. Thống nhất tổ chức quản lý các khu nhà ở do Nhà nước
đầu tư xây dựng (kể cả quản lý sử dụng, xây dựng mới, sửa chữa, bảo dưỡng, thu
tiền nhà...) ở những thành phố, thị xã, thị trấn; hướng dẫn và giúp đỡ dân cư ở
nông thôn xây dựng nhà ở.
6. Theo những chính sách, chế độ, thể lệ chung của Nhà
nước, theo sự chỉ đạo và hướng dẫn của các Bộ chủ quản, Ủy ban hành chính tỉnh
quy định những thể lệ cụ thể về thương nghiệp, phục vụ v.v... nhằm bảo đảm phục
vụ tốt nhân dân, đúng chính sách, thuận tiện và văn minh.
7. Tổ chức quản lý trật tự, an ninh trong tỉnh; bảo đảm
các cơ quan Nhà nước, mọi tổ chức kinh tế, mọi người công dân trong tỉnh chấp
hành nghiêm chỉnh luật pháp của Nhà nước; tôn trọng nền pháp chế xã hội chủ
nghĩa, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân.
8. Thường xuyên kiểm tra các tổ chức và cơ quan phục vụ
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, kết hợp kiểm tra của Nhà nước và
kiểm tra của quần chúng ở cơ sở, chống tệ cửa quyền, tham ô, móc ngoặc, vi phạm
đến quyền dân chủ và các quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Chương IX
QUẢN
LÝ TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ CÁN BỘ
Điều 24. – Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về quản lý tổ chức bộ máy là:
Theo các nguyên tắc, các khung tổ chức chung của mỗi ngành ở tỉnh
do Bộ chủ quản xây dựng và được Hội đồng Chính phủ thông qua, theo những tiêu
chuẩn chung về biên chế bộ máy do Hội đồng Chính phủ quy định cho mỗi loại tỉnh,
theo yêu cầu thực tế quản lý đối với mỗi ngành trong tỉnh, Ủy ban hành chính tỉnh
xây dựng dự án tổ chức bộ máy và biên chế toàn tỉnh, (bao gồm cả bộ máy và biên
chế các ngành, các lĩnh vực công tác, các huyện) trình Hội đồng Chính phủ xét
duyệt (có các Bộ tham gia); trên cơ sở đó, Ủy ban hành chính tỉnh tổ chức thực
hiện cụ thể.
Điều 25. – Nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Ủy ban hành chính tỉnh về quản lý cán bộ là:
1. Theo những tiêu chuẩn cán bộ của từng ngành hoặc từng
lĩnh vực công tác do Bộ chủ quản xây dựng và được Hội đồng Chính phủ thông qua
cho mỗi loại tỉnh, theo tình hình cụ thể về cán bộ của mỗi ngành hoặc lĩnh vực
công tác trong tỉnh mình, Ủy ban hành chính tỉnh bố trí sử dụng cán bộ trong bộ
máy và biên chế ở tỉnh.
2. Đối với cán bộ phụ trách các ngành, các lĩnh vực
công tác ở tỉnh (trưởng ty, phó ty và tương đương), Ủy ban hành chính tỉnh chủ
động đề nghị với Bộ chủ quản ngành. Việc bổ nhiệm, cách chức hoặc thay đổi những
cán bộ này phải được bàn bạc nhất trí giữa Bộ chủ quản ngành và Ủy ban hành
chính tỉnh; sau đó Bộ trưởng Bộ chủ quản ký quyết định.
Trưởng hợp ở tỉnh không có cán bộ đủ tiêu chuẩn như đã quy định
để đề nghị Bộ chủ quản ngành bổ nhiệm làm trưởng ty, phó ty, thì Ủy ban hành
chính tỉnh đề nghị Bộ chủ quản chọn người ở nơi khác và bàn bạc nhất trí trước
khi Bộ quyết định việc điều động và bổ nhiệm ấy.
Đối với cán bộ đã qua đào tạo từ đại học trở lên về kỹ thuật,
nghiệp vụ, làm việc ở địa phương mà không giữ chức vụ phụ trách (cấp trưởng ty,
phó ty hoặc tương đương) thì Bộ trưởng chủ quản ngành có quyền điều động đi địa
phương khác đang cần hơn, sau khi bàn bạc nhất trí với Ủy ban hành chính tỉnh
có liên quan.
3. Trong việc bổ nhiệm, cách chức hoặc thay đổi,
điều động cán bộ như trên, nếu có sự không nhất trí của Ủy ban hành chính tỉnh
và Bộ chủ quản ngành thì Bộ trưởng phải báo cáo lên Thủ tướng Chính phủ quyết định.
|
T.M. HỘI ĐỒNG CHÍNH
PHỦ
K.T. THỦ TƯỚNG CHÍNH
PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Nguyễn Duy Trinh
|