QUỐC
HỘI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
6-LCT/HĐNN7
|
Hà
Nội, ngày 30 tháng 12 năm 1981
|
NGHỊ QUYẾT
QUY ĐỊNH MỘT SỐ ĐIỂM VỀ VIỆC THI HÀNH LUẬT NGHĨA VỤ QUÂN SỰ
Căn cứ vào Điều
83 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Theo đề nghị của Hội đồng bộ trưởng;
QUYẾT NGHỊ:
1- Luật nghĩa vụ
quân sự được Quốc hội thông qua ngày 30 tháng 12 năm 1981 có hiệu lực từ ngày
công bố.
2- Để bảo đảm khả năng sẵn sàng
chiến đấu của quân đội, giao cho Hội đồng bộ trưởng định kế hoạch cho những hạ
sĩ quan và binh sĩ nhập ngũ trước tháng 12 năm 1981 được lần lượt xuất ngũ từ
nay đến hết năm 1984 theo thứ tự thời gian nhập ngũ.
Nghị quyết này đã được Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VII, kỳ họp thứ 2, thông qua ngày
30 tháng 12 năm 1981.
LUẬT
NGHĨA VỤ QUÂN SỰ
Để phát huy truyền thống yêu
nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Việt Nam;
Để thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân, tạo điều kiện cho công dân Việt
Nam làm tròn nghĩa vụ quân sự;
Để xây dựng Quân đội nhân dân chính quy và hiện đại, tăng cường quốc phòng, bảo
đảm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa;
Căn cứ vào Điều 52, Điều 77 và Điều 83 của Hiến pháp nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Luật này quy định về chế độ nghĩa vụ quân sự của công dân nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Chương 1:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1
Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là
nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.
Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ
quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân.
Điều 2
Nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ vẻ
vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Làm nghĩa vụ quân sự bao gồm phục
vụ tại ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị của quân đội.
Công dân phục vụ tại ngũ gọi là
quân nhân tại ngũ.
Công dân phục vụ trong ngạch dự
bị gọi là quân nhân dự bị.
Điều 3
Công dân nam giới,
không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn
hoá, nghề nghiệp, nơi cư trú, có nghĩa vụ phục vụ tại ngũ trong Quân đội nhân
dân Việt Nam.
Điều 4
Phụ nữ có
chuyên môn cần cho quân đội, trong thời bình, phải đăng ký nghĩa vụ quân sự và
được gọi huấn luyện; nếu tự nguyện thì có thể được phục vụ tại ngũ.
Trong thời chiến theo quyết định
của Hội đồng bộ trưởng, phụ nữ được gọi nhập ngũ và đảm nhiệm công tác thích hợp.
Điều 5
Những người sau đây không được
làm nghĩa vụ quân sự:
1- Người đang trong thời kỳ bị
pháp luật hoặc Toà án nhân dân tước quyền phục vụ trong các lực lượng vũ trang
nhân dân;
2- Người đang bị giam giữ.
Điều 6
Quân nhân tại ngũ và quân nhân dự
bị gồm có sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan và binh sĩ.
Chế độ phục vụ của sĩ quan do Luật
về sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam quy định.
Điều 7
Quân nhân tại
ngũ và quân nhân dự bị được phong cấp bậc quân hàm tương ứng với chức vụ.
Hệ thống cấp bậc quân hàm của
Quân đội nhân dân Việt Nam do Hội đồng Nhà nước quy định.
Việc phong, thăng, giáng và tước
cấp bậc quân hàm của sĩ quan do Luật về sĩ quan Quân đội
nhân dân Việt Nam quy định.
Việc phong, thăng, giáng và tước
cấp bậc quân hàm của quân nhân chuyên nghiệp do Hội đồng bộ
trưởng quy định.
Việc phong, thăng, giáng và tước
cấp bậc quân hàm của hạ sĩ quan và binh sĩ do Bộ trưởng Bộ quốc phòng quy định.
Điều 8
Quân nhân tại ngũ và quân nhân dự
bị phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
Điều 9
Quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị
trong thời gian tập trung huấn luyện, có quyền và nghĩa vụ của công dân quy định
trong Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Điều 10
Các cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Tổng công đoàn Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam, các tổ chức
xã hội khác, nhà trường và gia đình, trong phạm vi chức năng của mình, có nhiệm
vụ động viên, giáo dục, tổ chức và tạo điều kiện cho công dân làm tròn nghĩa vụ
quân sự.
Điều 11
Địa phương, đoàn thể, cơ quan,
đơn vị, gia đình hoặc cá nhân có nhiều thành tích trong việc thi hành chế độ
nghĩa vụ quân sự quy định trong Luật này thì được Nhà nước khen thưởng.
Chương
2:
VIỆC PHỤC VỤ TẠI NGŨ CỦA
HẠ SĨ QUAN VÀ BINH SĨ
Điều 12
Công dân nam giới đủ 18 tuổi được
gọi nhập ngũ; lứa tuổi gọi nhập ngũ từ đủ 18 tuổi đến hết 27 tuổi.
Điều 13
Công dân nam giới
đến 17 tuổi, có nguyện vọng phục vụ lâu dài trong quân đội, có đủ tiêu chuẩn
theo quy định của Bộ trưởng Bộ quốc phòng, thì có thể được nhận vào học ở trường
quân sự và được công nhận là quân nhân dân tại ngũ.
Điều
14
Thời gian phục vụ tại ngũ của hạ
sĩ quan và binh sĩ quy định như sau:
1- Ba năm, đối với hạ sĩ quan và
binh sĩ;
2- Bốn năm, đối với hạ sĩ quan,
binh sĩ chuyên môn, kỹ thuật do quân đội đào tạo, hạ sĩ quan và binh sĩ trên
tàu hải quân;
3- Hai năm, đối với hạ sĩ quan
và binh sĩ đã tốt nghiệp cao đẳng hoặc đại học;
4- Hai năm, đối với hạ sĩ quan
và binh sĩ thuộc một số dân tộc do Hội đồng bộ trưởng
quy định.
Điều 15
Khi cần thiết, Bộ trưởng Bộ quốc
phòng được quyền giữ hạ sĩ quan và binh sĩ phục vụ tại ngũ thêm một thời gian
không quá sáu tháng so với thời hạn quy định ở Điều 14 của Luật
này.
Điều 16
Việc tính thời điểm bắt đầu và kết
thúc thời hạn phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan và binh sĩ do Bộ trưởng Bộ quốc
phòng quy định.
Thời gian chịu kỷ luật ở đơn vị
của quân đội và thời gian đào ngũ không được tính vào thời hạn tại ngũ.
Chương
3:
VIỆC CHUẨN BỊ CHO THANH
NIÊN PHỤC VỤ TẠI NGŨ
Điều 17
Thanh niên nam giới,
trước khi đến tuổi nhập ngũ và trước khi nhập ngũ, phải được huấn luyên theo
chương trình quân sự phổ thông, bao gồm giáo dục chính trị, huấn luyện quân sự,
rèn luyện ý thức tổ chức và kỷ luật, và rèn luyện về thể lực.
Việc huấn luyện quân sự phổ thông
cho học sinh ở trường phổ thông trung học, trường dạy nghề, trường trung học
chuyên nghiệp, trường cao đẳng và trường đại học thuộc chương trình chính khoá.
Đối với thanh niên không học ở
các trường thì được huấn luyện quân sự phổ thông ở các lớp huấn luyện tổ chức tại
xã, phường, thị trấn, cơ quan, xí nghiệp và các đơn vị cơ sở khác.
Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn, hiệu trưởng các trường, thủ trưởng các
cơ quan, xí nghiệp và các đơn vị cơ sở khác có trách nhiệm tổ chức huấn luyện
quân sự phổ thông cho thanh niên thuộc cơ sở mình.
Nội dung huấn luyện quân sự phổ
thông do Bộ trưởng Bộ quốc phòng quy định.
Điều
18
Các Bộ, Uỷ ban Nhà nước, các cơ
quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng, Uỷ ban chỉ đạo giáo
dục quốc phòng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
và cấp tương đương có trường dạy nghề, trường trung học chuyên nghiệp, trường
cao đẳng, trường đại học có trách nhiệm đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn, kỹ
thuật cho quân đội, theo kế hoạch của Bộ quốc phòng đã được Hội
đồng bộ trưởng phê chuẩn.
Điều 19
Khu vực chuẩn bị cho thanh niên
phục vụ tại ngũ và gọi công dân là huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Tháng 1 hàng năm, hiệu trưởng
các trường dạy nghề, trường trung học chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại
học, thủ trưởng các cơ quan, xí nghiệp và các đơn vị cơ sở khác phải báo cáo
danh sách công dân nam giới đủ 17 tuổi trong năm đó cho
Ban chỉ huy quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi mình đóng.
Điều 20
Tháng 4 hàng năm, theo lệnh gọi của
chỉ huy trưởng quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, công dân nam giới đủ 17 tuổi trong năm đó phải đến cơ quan quân sự để
đăng ký nghĩa vụ quân sự.
Việc kiểm tra sức khoẻ cho những
người đăng ký nghĩa vụ quân sự do cơ quan y tế huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh phụ trách.
Người đã
đăng ký nghĩa vụ quân sự được gọi là người sẵn sàng nhập
ngũ.
Chương
4:
VIỆC NHẬP NGŨ VÀ XUẤT
NGŨ
Mục 1: VIỆC GỌI
NHẬP NGŨ
Điều 21
Hàng năm, việc
gọi công dân nhập ngũ được tiến hành từ một đến hai lần, vào tháng 2 - tháng 3
và tháng 8 - tháng 9.
Số lượng công
dân nhập ngũ trong năm do Hội đồng bộ trưởng quyết định.
Việc gọi công dân nhập ngũ được
tiến hành theo lệnh của Bộ trưởng Bộ quốc phòng.
Uỷ ban nhân
dân các cấp có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện việc gọi công dân nhập ngũ trong địa
phương mình.
Theo quyết định của Uỷ ban nhân
dân, chỉ huy trưởng quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh gọi từng
công dân nhập ngũ. Lệnh gọi nhập ngũ phải được đưa trước 15 ngày.
Đối với địa phương gặp thiên tai
nặng, thì Bộ trưởng Bộ quốc phòng được quyền điều chỉnh thời gian gọi công dân
nhập ngũ cho địa phương đó.
Điều 22
Người được gọi nhập ngũ phải có
mặt đúng thời gian và địa điểm ghi trong lệnh gọi nhập ngũ; nếu không thể đến
đúng thời hạn thì phải có giấy chứng nhận của Uỷ ban nhân dân.
Người không chấp hành lệnh gọi
nhập ngũ đã bị xử lý theo điểm 1, Điều 69 của Luật này vẫn nằm
trong diện được gọi nhập ngũ cho đến khi hết 35 tuổi.
Điều 23
Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn, thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp và các đơn vị cơ sở
khác có trách nhiệm:
1- Tổ chức tiễn đưa và tạo điều
kiện cho người được gọi nhập ngũ của cơ sở mình có mặt đúng thời gian và địa điểm
quy định;
2- Thực hiện nghiêm chỉnh các chế
độ, chính sách đối với gia đình quân nhân.
Mục
2: HỘI ĐỒNG NGHĨA VỤ QUÂN SỰ
Điều 24
Uỷ ban nhân dân các cấp thành lập
Hội đồng nghĩa vụ quân sự ở cấp mình để giúp Uỷ ban thực hiện công tác nghĩa vụ
quân sự ở địa phương.
Hội đồng nghĩa vụ quân sự các cấp
gồm có Chủ tịch là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Phó Chủ tịch là chỉ huy trưởng
quân sự, các uỷ viên là người phụ trách chính các ngành kế hoạch, lao động,
công an, y tế, văn hoá, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ, và Hội liên hiệp nông dân tập thể.
Hội đồng nghĩa vụ quân sự ở các
cấp làm việc theo nguyên tắc tập thể; Nghị quyết của Hội đồng phải được quá nửa
tổng số thành viên biểu quyết tán thành.
Điều 25
Hội đồng nghĩa vụ quân sự xã,
phường, thị trấn có nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân:
1- Tổ chức việc tuyên truyền,
giáo dục nhân dân nghiêm chỉnh thi hành nghĩa vụ quân sự;
2- Đôn đốc
công dân đăng ký nghĩa vụ quân sự;
3- Đề nghị
danh sách công dân được gọi nhập ngũ, hoãn gọi nhập ngũ, và miễn làm nhiệm vụ
quân sự;
4- Đôn đốc
công dân thực hiện lệnh gọi nhập ngũ;
5- Đôn đốc các
cơ quan và tổ chức hữu quan chấp hành chính sách hậu phương quân đội ở địa
phương.
Điều 26
Hội đồng nghĩa vụ quân sự huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân dân:
1- Tổ chức việc khám sức khoẻ
cho những người trong diện được gọi nhập ngũ;
2- Lập danh
sách công dân được gọi nhập ngũ, hoãn gọi nhập ngũ, và miễn làm nghĩa vụ quân sự;
3- Đôn đốc các
cơ quan và tổ chức hữu quan chấp hành chính sách hậu phương quân đội ở địa
phương;
4- Chỉ đạo hoạt động của Hội đồng
nghĩa vụ quân sự xã, phường, thị trấn.
Điều 27
Hội đồng nghĩa vụ quân sự tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương có nhiệm vụ giúp Uỷ ban nhân
dân:
1- Chỉ đạo hoạt động của Hội đồng
nghĩa vụ quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
2- Xem xét và giải quyết các khiếu
nại, tố cáo của công dân đối với quyết định của uỷ ban nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh về việc gọi, hoãn gọi công
dân nhập ngũ, và miễn làm nghĩa vụ quân sự.
Các khiếu nại, tố cáo phải được
giải quyết chậm nhất không quá một tháng kể từ ngày nhận; đối với việc cần điều
tra lâu hơn thì phải giải quyết chậm nhất không quá hai tháng.
Trong khi các khiếu nại, tố cáo
của công dân đang được xem xét thì quyết định của Uỷ ban
nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh vẫn được thi hành.
Điều 28
Việc khám sức khoẻ cho những người trong diện được gọi nhập ngũ do Hội đồng khám sức khoẻ
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh phục trách.
Kết quả khám sức khoẻ phải được
công bố.
Mục
3: VIỆC HOÃN GỌI NHẬP NGŨ, VIỆC MIỄN LÀM NGHĨA VỤ QUÂN SỰ
Điều 29
Được hoãn gọi nhập ngũ:
1- Người chưa đủ sức khoẻ phục vụ
tại ngũ theo kết luận của Hội đồng khám sức khoẻ.
Hàng năm, những người này phải
được kiểm tra lại sức khoẻ, để hoặc gọi nhập ngũ, hoặc chuyển sang ngạch dự bị,
hoặc miễn làm nghĩa vụ quân sự.
2- Người là lao động duy nhất phải
trực tiếp nuôi người khác trong gia đình không còn sức lao động hoặc chưa đến
tuổi lao động mà không có nơi nương tựa.
3- Người con trai còn lại duy nhất
của gia đình liệt sĩ.
4- Người đang nghiên cứu công
trình khoa học cấp Nhà nước được Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước, thủ trưởng
các cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng, hoặc người có
chức vụ tương đương chứng nhận.
5- Người đang học ở trường phổ
thông trung học, trường dạy nghề; người đang được đào tạo dài hạn ở trường
trung học chuyên nghiệp, trường cao đẳng hoặc trường đại học.
Hàng năm, những người trong trường
hợp nói ở các điểm 2, 3, 4, 5 phải được xem xét lại; nếu không còn lý do hoãn
thì được gọi nhập ngũ; nếu hết 27 tuổi mà vẫn còn được hoãn thì chuyển sang ngạch
dự bị.
Điều 30
Người tàn tật, người mắc bệnh
tâm thần hoặc bệnh mãn tính khác theo danh mục bệnh tật do Bộ trưởng Bộ Y tế và
Bộ trưởng Bộ quốc phòng quy định thì được miễn làm nghĩa vụ quân sự.
Điều 31
Việc hoãn gọi nhập ngũ và miễn
làm nghĩa vụ quân sự theo Điều 29 và Điều 30 của Luật này do
Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết
định.
Danh sách những người được hoãn gọi nhập ngũ và những người
được miễn làm nghĩa vụ quân sự phải được công bố.
Mục
4: VIỆC XUẤT NGŨ
Điều 32
Hạ sĩ quan và binh sĩ đã phục vụ
tại ngũ đủ thời hạn quy định ở Điều 14 của Luật này thì được
xuất ngũ.
Theo lệnh của Bộ trưởng Bộ quốc
phòng, người chỉ huy đơn vị từ cấp trung đoàn trở lên có trách nhiệm thực hiện
việc xuất ngũ cho hạ sĩ quan và binh sĩ thuộc quyền.
Phải thông báo thời gian xuất
ngũ của hạ sĩ quan và binh sĩ cho địa phương, đơn vị cơ sở, và bản thân quân
nhân biết một tháng trước khi hết hạn phục vụ tại ngũ.
Điều 33
Hạ sĩ quan và binh sĩ tại ngũ có
thể được xuất ngũ trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:
1- Được Hội đồng giám định y
khoa quân sự kết luận là không đủ sức khoẻ để tiếp tục phục vụ tại ngũ;
2- Có hoàn cảnh gia đình như quy
định ở điểm 2 và điểm 3, Điều 29 của Luật này.
Điều 34
Hạ sĩ quan và binh sĩ đã hết hạn
phục vụ tại ngũ có thể tình nguyện ở lại phục vụ trên hạn định thêm một thời
gian ít nhất là một năm.
Chế độ phục vụ tại ngũ trên hạn
định của hạ sĩ quan và binh sĩ do Bộ trưởng Bộ quốc phòng quy định.
Điều 35
Hạ sĩ quan và binh sĩ xuất ngũ
khi về đến nơi cư trú, trong thời hạn mười lăm ngày, phải đến Ban chỉ huy quân
sự xã, phường, thị trấn và Ban chỉ huy quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh để đăng ký vào ngạch dự bị.
Điều 36
Uỷ ban nhân dân
xã, phường, thị trấn, thủ trưởng các cơ quan, xí nghiệp và các đơn vị cơ sở
khác có trách nhiệm:
1- Tổ chức đón tiếp những quân
nhân xuất ngũ trở về;
2- Tạo điều kiện cho quân nhân
xuất ngũ nhanh chóng ổn định đời sống.
Chương
5:
VIỆC PHỤC VỤ CỦA HẠ SĨ
QUAN VÀ BINH SĨ DỰ BỊ
Điều 37
Hạ sĩ quan và binh sĩ dự bị chia
thành quân nhân dự bị hạng 1 và quân nhân dự bị hạng 2.
Quân nhân dự bị hạng 1 gồm hạ sĩ
quan và binh sĩ đã phục vụ tại ngũ đủ thời hạn hoặc trên hạn định; hạ sĩ quan
và binh sĩ xuất ngũ trước thời hạn, nhưng đã phục vụ tại ngũ trên 1 năm; hạ sĩ
quan và binh sĩ đã trải qua chiến đấu.
Quân nhân dự bị hạng 2 gồm hạ sĩ
quan và binh sĩ đã phục vụ tại ngũ dưới 1 năm; công dân nam giới chưa phục vụ tại
ngũ vì lý do nói ở Điều 29 của Luật này và đã được chuyển
sang ngạch dự bị; phụ nữ đã đăng ký nghĩa vụ quân sự theo Điều 4
của Luật này.
Quân nhân nam giới thuộc loại dự
bị hạng 2, nếu đã qua huấn luyện tập trung 12 tháng, thì được chuyển lên quân
nhân dự bị hạng 1.
Điều 38
Hạn tuổi phục vụ của hạ sĩ quan
và binh sĩ ở ngạch dự bị quy định như sau:
Nam giới,
đến hết 50 tuổi;
Phụ nữ, đến hết 40 tuổi.
Điều 39
Căn cứ vào lứa tuổi, quân nhân dự
bị nam giới ở mỗi hạng được chia thành 3 nhóm:
Nhóm A gồm những người đến hết
35 tuổi;
Nhóm B gồm những người từ 36 tuổi
đến hết 45 tuổi;
Nhóm C gồm những người từ 46 tuổi
đến hết 50 tuổi.
Điều 40
Việc huấn luyện cho quân nhân dự
bị quy định như sau:
1- Trong thời gian ở nhóm A,
quân nhân dự bị hạng 1 được huấn luyện nhiều nhất là bốn lần, mỗi lần từ 2
tháng đến 3 tháng; quân nhân dự bị hạng 2 được huấn luyện nhiều nhất là 5 lần,
mỗi lần từ 2 tháng đến 3 tháng;
2- Trong thời gian ở nhóm B,
quân nhân dự bị hạng 1 và hạng 2 được huấn luyện từ 1 đến 2 lần, mỗi lần từ 1
tháng đến 2 tháng;
3- Trong thời
gian ở nhóm C, quân nhân dự bị hạng 1 và hạng 2 được huấn luyện một lần, thời
gian là 1 tháng.
Điều 41
Giữa các lần huấn luyện, Bộ trưởng
Bộ quốc phòng được quyền gọi tập trung quân nhân dự bị để kiểm tra tình trạng sẵn
sàng chiến đấu, trong thời gian không quá 7 ngày.
Điều 42
Việc gọi quân nhân dự bị tập
trung để huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu theo thời hạn
nói ở Điều 40 và Điều 41 của Luật này do Bộ trưởng Bộ quốc
phòng quyết định.
Khi cần thiết, Bộ trưởng Bộ quốc
phòng được quyền giữ quân nhân dự bị ở lại lớp huấn luyện thêm một thời gian
không quá 2 tháng hoặc tăng số lần huấn luyện của quân nhân dự ở nhóm A và nhóm
B, nhưng tổng số thời gian của các lần huấn luyện không vượt quá thời gian đã
quy định ở Điều 40 và Điều 41 của Luật này.
Điều 43
Việc kiểm tra sức khoẻ cho quân
nhân dự bị do cơ quan y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh phụ trách.
Điều 44
Hạ sĩ quan và binh sĩ dự bị hết
hạn tuổi hoặc không còn đủ sức khoẻ phục vụ ở ngạch dự bị thì được giải ngạch
theo quyết định của Chỉ huy trưởng quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh.
Chương
6:
VIỆC PHỤC VỤ CỦA QUÂN
NHÂN CHUYÊN NGHIỆP
Điều 45
Quân nhân chuyên nghiệp là quân
nhân có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cần thiết cho các công tác chỉ huy, chiến
đấu, bảo đảm chiến đấu, xây dựng quân đội, và tình nguyện phục vụ lâu dài trong
quân đội.
Điều 46
Hạ sĩ quan và binh sĩ hết hạn phục
vụ tại ngũ hoặc đang ở ngạch dự bị, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật nếu tự
nguyện thì có thể được nhận làm quân nhân chuyên nghiệp.
Điều 47
Quân nhân
chuyên nghiệp có thể phục vụ tại ngũ từng thời hạn hoặc dài hạn cho đến 50 tuổi.
Điều lệ phục
vụ tại ngũ của quân nhân chuyên nghiệp do Hội đồng bộ trưởng quy định.
Điều 48
Quân nhân chuyên nghiệp xuất ngũ
thì chuyển sang phục vụ ở ngạch dự bị, theo các quy định đối với hạ sĩ quan và
binh sĩ dự bị.
Người có đủ tiêu chuẩn thì được
phong quân hàm sĩ quan và đăng ký vào ngạch dự bị của sĩ quan.
Chương
7:
NGHĨA VỤ, QUYỀN LỢI CỦA
QUÂN NHÂN CHUYÊN NGHIỆP, HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ TẠI NGŨ VÀ DỰ BỊ
Điều 49
Quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ
quan, binh sĩ tại ngũ và dự bị có nghĩa vụ:
1- Tuyệt đối trung thành với Tổ
quốc, nhân dân và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nêu cao tinh thần
cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao;
2- Tôn trọng quyền làm chủ tập
thể của nhân dân, kiên quyết bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tính mạng,
tài sản của nhân dân;
3- Gương mẫu chấp hành đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ của quân đội;
4- Ra sức học tập chính trị,
quân sự, văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ, rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật và
thể lực, không ngừng nâng cao bản lĩnh chiến đấu.
Điều 50
Quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ
quan và binh sĩ tại ngũ và dự bị được gọi tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra
tình trạng sẵn sàng chiến đấu nếu có thành tích trong chiến đấu, công tác, huấn
luyện, thì tuỳ theo công trạng mà được tặng thưởng huân chương, huy chương, danh
hiệu vinh dự Nhà nước hoặc các hình thức khen thưởng khác.
Điều 51
Trong thời gian tại ngũ, quân
nhân chuyên nghiệp hưởng chế độ lương, hạ sĩ quan và binh sĩ hưởng chế độ cung
cấp theo quy định của Hội đồng bộ trưởng.
Điều 52
Quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ
quan và binh sĩ dự bị, trong thời gian tập trung huấn luyện và kiểm tra tình trạng
sẵn sàng chiến đấu, được hưởng chế độ đãi ngộ do Hội đồng bộ
trưởng quy định.
Điều 53
Quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ
quan và binh sĩ tại ngũ:
1- Được bảo đảm đời sống vật chất
và tinh thần;
2- Được tính nhân khẩu ở gia
đình khi gia đình được phân phối nhà ở hoặc được điều chỉnh đất ở và đất canh
tác dành cho kinh tế phụ gia đình;
3- Được tính
thời gia phục vụ tại ngũ vào thời gian công tác;
4- Được ưu tiên mua vé khi đi lại
bằng các phương tiện giao thông công cộng;
5- Được hưởng ưu đãi về bưu phí
theo quy định của Hội đồng bộ trưởng.
Điều 54
Gia đình của quân nhân tại ngũ
được chính quyền và các tổ chức xã hội ở địa phương chăm sóc, giúp đỡ; được hưởng
chế độ ưu đãi do Hội đồng bộ trưởng quy định.
Điều 55
Hạ sĩ quan và binh sĩ khi xuất
ngũ được hưởng phụ cấp xuất ngũ, tiền tàu xe, phụ cấp đi đường và được cấp quân
trang theo quy định của Bộ trưởng Bộ quốc phòng.
Điều 56
1- Hạ sĩ quan và binh sĩ phục vụ
tại ngũ đủ thời hạn hoặc trên hạn định, khi xuất ngũ về địa phương, được chính
quyền các cấp giải quyết ưu tiên trong tuyển sinh, tuyển dụng, hoặc trong việc
sắp xếp việc làm.
2- Hạ sĩ quan
và binh sĩ, trước lúc nhập ngũ đã làm việc ở cơ sở nào, thì khi xuất ngũ được về
làm việc tại cơ sở đó.
Nếu cơ sở cũ đã giải thể thì cơ
quan cấp trên trực tiếp có trách nhiệm tiếp nhận.
3- Hạ sĩ quan và binh sĩ, trước
lúc nhập ngũ đã tốt nghiệp các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng
hoặc đại học, nhưng chưa được phân phối công tác, thì khi xuất ngũ được ưu tiên
phân phối công tác và được miễn chế độ tập sự.
4- Hạ sĩ quan và binh sĩ, trước
lúc nhập ngũ có giấy gọi vào học ở các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp,
cao đẳng hoặc đại học, thì khi xuất ngũ được vào học ở các trường đó.
Điều 57
Quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ
quan, binh sĩ tại ngũ và dự bị, nếu bị thương, bị bệnh hoặc chết trong khi làm
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hoặc thực hiện nhiệm vụ quân sự, thì bản thân và gia
đình được hưởng chế độ ưu đãi theo quy định của Hội đồng bộ
trưởng.
Chương
8:
VIỆC ĐĂNG KÝ NGHĨA VỤ
QUÂN SỰ
Điều 58
Việc đăng ký quân nhân dự bị và người sẵn sàng nhập ngũ được tiến hành tại nơi họ cư trú
theo hai cấp:
1- Đăng ký ở xã, phường, thị trấn
do Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn phụ trách;
2- Đăng ký ở huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh do Ban chỉ huy quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh phụ trách.
Điều
59
Quân nhân dự bị và người sẵn sàng nhập ngũ, khi chuyển chỗ ở đến địa phương khác,
phải đến Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn và Ban chỉ huy quân sự huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh để xoá tên trong sổ đăng ký; khi đến nơi ở mới,
trong thời hạn bảy ngày, phải đến Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn và
trong thời hạn mười ngày, phải đến Ban chỉ huy quân sự huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh để ghi tên vào sổ đăng ký.
Điều 60
Khi quân nhân dự bị và người sẵn sàng nhập ngũ có thay đổi về địa chỉ nơi làm việc
hoặc nơi học tập, về chức vụ công tác, về trình độ văn hoá, thì trong thời hạn
mười ngày, phải đến Ban chỉ huy quân sự xã, phường, thị trấn để đăng ký bổ
sung.
Điều 61
Thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp và
các tổ chức khác của cấp trên đóng ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
phải thống kê quân nhân dự bị và người sẵn sàng nhập ngũ
của cơ sở mình và gửi đến Ban chỉ huy quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh, theo quy định của Bộ trưởng Bộ quốc phòng.
Điều 62
Toà án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân, cơ quan Công an và các cơ quan hữu quan khác, trong phạm vi chức năng
của mình, có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quân sự cùng cấp trong việc thực
hiện các quy định về quản lý người sẵn sàng nhập ngũ và
quân nhân dự bị.
Chương
9:
VIỆC NHẬP NGŨ THEO LỆNH
TỔNG ĐỘNG VIÊN HOẶC LỆNH ĐỘNG VIÊN CỤC BỘ, VIỆC XUẤT
NGŨ THEO LỆNH PHỤC VIÊN
Điều 63
Khi có lệnh tổng động viên hoặc
lệnh động viên cục bộ, việc gọi nhập ngũ theo các lệnh đó, và những lần gọi tiếp
được tiến hành theo quyết định của Hội đồng bộ trưởng và
lệnh của Bộ trưởng Bộ quốc phòng.
Điều 64
Khi có lệnh tổng động viên hoặc
lệnh động viên cục bộ thì:
1- Việc xuất ngũ sẽ đình lại đối
với quân nhân hết thời hạn phục vụ tại ngũ;
2- Quân nhân dự bị phải có mặt
đúng thời gian và địa điểm ghi trong lệnh gọi nhập ngũ.
Điều
65
Việc miễn gọi nhập ngũ trong thời
chiến do Hội đồng bộ trưởng quy định.
Điều 66
Trong thời chiến, gia đình quân
nhân được hưởng chế độ ưu đãi do Hội đồng bộ trưởng quy
định.
Điều 67
Khi có lệnh phục viên quân đội
sau chiến tranh, việc cho quân nhân xuất ngũ được tiến hành theo quyết định của
Hội đồng bộ trưởng và lệnh của Bộ trưởng Bộ quốc phòng.
Điều 68
Quân nhân xuất ngũ nói ở Điều 67 được hưởng các quyền lợi như quy định ở Điều
55 và Điều 56 của Luật này.
Chương
10:
VIỆC XỬ LÝ CÁC VI PHẠM
Điều 69
1- Người nào đang ở lứa tuổi làm
nghĩa vụ quân sự mà không chấp hành đúng những quy định về đăng ký nghĩa vụ
quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện thì
tuỳ mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý bằng biện pháp hành chính, bị phạt cải tạo
không giam giữ từ ba tháng đến hai năm, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai
năm.
Phạm tội trong thời chiến hoặc
có tình tiết tăng nặng khác thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2- Người nào lợi dụng chức vụ,
quyền hạn, làm trái các quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ, gọi
tập trung huấn luyện, thì tuỳ mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý theo kỷ luật
hành chính, hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
3- Người nào có hành vi cản trở
việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, việc thi hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập
trung huấn luyện, thì tuỳ mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý bằng biện pháp hành
chính, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
Phạm những tội nói ở điểm 2 và điểm
3 trong thời chiến hoặc có tình tiết tăng nặng khác, thì bị phạt tù đến mười
năm.
Điều 70
Quân nhân đào ngũ thì bị xử lý
theo điều lệnh kỷ luật của quân đội, hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Phạm tội trong thời chiến hoặc
có tình tiết tăng nặng khác thì bị phạt tù đến mười lăm năm.
Điều 71
Người nào bao che người phạm tội
nói ở điểm 1, Điều 69, và ở Điều 70 của Luật này thì tuỳ
theo mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý theo kỷ luật hành chính, hoặc bị phạt tù
từ ba tháng đến ba năm.
Chương
11:
ĐIỀU KHOẢN CUỐI CÙNG
Điều 72
Luật này thay thế Luật nghĩa vụ
quân sự ngày 15 tháng 4 năm 1960, và các Luật sửa đổi và bổ sung Luật nghĩa vụ
quân sự ngày 26 tháng 10 năm 1962 và ngày 10 tháng 4 năm 1965.
Điều 73
Hội đồng bộ
trưởng quy định chi tiết thi hành Luật này.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VII, kỳ họp thứ 2, thông qua ngày 30 tháng
12 năm 1981