Từ khoá: Số Hiệu, Tiêu đề hoặc Nội dung ngắn gọn của Văn Bản...

Đăng nhập

Đang tải văn bản...

Luật Tư pháp người chưa thành niên số 59/2024/QH15

Số hiệu: 59/2024/QH15 Loại văn bản: Luật
Nơi ban hành: Quốc hội Người ký: Trần Thanh Mẫn
Ngày ban hành: 30/11/2024 Ngày hiệu lực: Đã biết
Ngày công báo: Đã biết Số công báo: Đã biết
Tình trạng: Đã biết

Quy định áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội

Ngày 30/11/2024, Quốc hội thông qua Luật Tư pháp người chưa thành niên 2024, trong đó có quy định hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội.

Quy định áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội

Theo Điều 12 Luật Tư pháp người chưa thành niên 2024 có quy định áp dụng hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội như sau:

- Hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ ý thức tôn trọng, tuân theo pháp luật và các chuẩn mực đạo đức, lối sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới, có tác dụng phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

- Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội nếu xét thấy việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa. Trường hợp phải áp dụng hình phạt thì ưu tiên áp dụng hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

- Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội.

- Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.

- Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người thành niên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.

- Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội nếu thuộc trường hợp sau đây thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm:

+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội;

+ Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng do vô ý.

Ngoài ra theo Điều 13 Luật Tư pháp người chưa thành niên 2024 người chưa thành niên phạm tội cần được bảo đảm giữ bí mật cá nhân, cụ thể:

- Bí mật cá nhân của người chưa thành niên phải được tôn trọng, bảo vệ trong suốt quá trình tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, xử lý chuyển hướng, thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng.

- Tòa án xét xử kín đối với vụ án hình sự có người chưa thành niên bị xâm hại tình dục hoặc trường hợp đặc biệt khác cần bảo vệ người chưa thành niên.

- Trường hợp người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng tham gia tố tụng thì phải bố trí phòng cách ly hoặc các biện pháp bảo vệ khác.

Xem chi tiết nội dung tại Luật Tư pháp người chưa thành niên 2024 có hiệu lực từ ngày 01/01/2026.

 

QUỐC HỘI
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Luật số: 59/2024/QH15

Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2024

LUẬT

TƯ PHÁP NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

Quốc hội ban hành Luật Tư pháp người chưa thành niên.

Phần thứ nhất

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Chương I

PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Luật này quy định về xử lý chuyển hướng, hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội; thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng; thi hành án phạt tù, tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân, gia đình trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên.

Điều 2. Áp dụng Luật Tư pháp người chưa thành niên và các luật có liên quan

Việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, giải quyết vụ án hình sự, xử lý chuyển hướng, thi hành án phạt tù, tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên được áp dụng theo quy định của Luật này và theo quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự, luật khác không trái với quy định của Luật này.

Điều 3. Giải thích từ ngữ

Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

1. Người chưa thành niên phạm tội là người phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự trong độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.

2. Người chưa thành niên là người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.

3. Người chưa thành niên là bị hại người dưới 18 tuổi trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.

4. Người chưa thành niên là người làm chứng người dưới 18 tuổi biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.

5. Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng gồm người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng và người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, học sinh trường giáo dưỡng.

6. Người đại diện của người chưa thành niên bao gồm:

a) Cha, mẹ;

b) Người giám hộ;

c) Người do Tòa án chỉ định.

7. Tư pháp người chưa thành niên là các quy định về chính sách, biện pháp xử lý đối với người chưa thành niên; thủ tục thân thiện trong xử lý chuyển hướng, tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phạt tù, tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

8. Biện pháp xử lý chuyển hướng là biện pháp giám sát, giáo dục, phòng ngừa áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, bao gồm các biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng quy định từ khoản 1 đến khoản 11 Điều 36 của Luật này và biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại khoản 12 Điều 36 của Luật này.

9. Thủ tục xử lý chuyển hướng là trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo theo quy định của Luật này.

10. Người làm công tác xã hội trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên (sau đây gọi chung là người làm công tác xã hội) bao gồm công chức, viên chức, người lao động làm công tác xã hội, người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã, công chức văn hóa - xã hội cấp xã và người làm công tác xã hội khác theo quy định của pháp luật.

11. Báo cáo điều tra xã hội là báo cáo do người làm công tác xã hội xây dựng để cung cấp thông tin về nhân thân, hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, tình hình học tập, tình trạng sức khỏe, mức độ trưởng thành của người chưa thành niên và thông tin khác có liên quan ảnh hưởng đến hành vi phạm tội của người chưa thành niên là bị can, bị cáo.

12. Kế hoạch xử lý chuyển hướng là kế hoạch do người làm công tác xã hội xây dựng để đề xuất việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, việc tổ chức hỗ trợ, giám sát, giáo dục người chưa thành niên chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng.

Điều 4. Kinh phí, chi phí, hỗ trợ hoạt động tư pháp người chưa thành niên

1. Kinh phí cho hoạt động tư pháp người chưa thành niên được bảo đảm từ ngân sách nhà nước và các nguồn kinh phí hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.

2. Ngân sách nhà nước bảo đảm các nội dung sau đây:

a) Cơ sở vật chất để thực hiện thủ tục tố tụng thân thiện đối với người chưa thành niên;

b) Tổ chức thi hành biện pháp giám sát điện tử;

c) Tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng;

d) Tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;

đ) Cơ sở vật chất của trường giáo dưỡng, trại giam riêng, phân trại, khu giam giữ dành riêng cho người chưa thành niên; chế độ ăn, mặc, ở, đồ dùng sinh hoạt, chăm sóc y tế, học văn hóa, giáo dục hướng nghiệp, học nghề, lao động, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ và vui chơi giải trí đối với học sinh trường giáo dưỡng và phạm nhân là người chưa thành niên;

e) Phần chi của Quỹ Bảo trợ trẻ em cho hoạt động tư pháp người chưa thành niên;

g) Đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho người làm công tác xã hội, người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

h) Chi phí cho người làm công tác xã hội tham gia tố tụng, người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, người được chỉ định giúp đỡ người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng; chi phí cho chuyên gia y tế, tâm lý, giáo dục, xã hội học, đại diện cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc, vụ án theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền;

i) Các nội dung khác cho hoạt động tư pháp người chưa thành niên được ngân sách nhà nước bảo đảm theo quy định của pháp luật có liên quan.

3. Trường giáo dưỡng được tiếp nhận sự giúp đỡ về vật chất của chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước, cá nhân, tổ chức nước ngoài để tổ chức dạy văn hóa, giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề, mua sắm đồ dùng học tập và sinh hoạt cho học sinh.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 5. Bảo đảm lợi ích tốt nhất

1. Khi giải quyết vụ việc, vụ án có người chưa thành niên phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của họ.

2. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

3. Việc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội phải căn cứ vào hành vi phạm tội, nhân thân, độ tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân, điều kiện gây ra tội phạm và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.

4. Bảo đảm an toàn cho người chưa thành niên trong quá trình tố tụng, thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, thi hành án phạt tù theo quy định của pháp luật.

5. Hỗ trợ kịp thời và nhanh nhất có thể đối với người chưa thành niên.

Điều 6. Bảo đảm thủ tục tố tụng thân thiện

Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phải bảo đảm đơn giản, thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành và khả năng nhận thức của người chưa thành niên.

Điều 7. Đối xử bình đẳng

1. Bảo đảm công bằng, không kỳ thị, không phân biệt đối xử đối với người chưa thành niên.

2. Quan tâm đến nhu cầu chính đáng của người chưa thành niên về giới tính, người chưa thành niên là người dân tộc thiểu số, đối tượng dễ bị tổn thương.

Điều 8. Quyền được thông tin đầy đủ, kịp thời

Người chưa thành niên có quyền được thông tin đầy đủ, kịp thời bằng ngôn từ đơn giản, thân thiện, dễ hiểu về những nội dung liên quan đến việc giải quyết vụ việc, vụ án.

Điều 9. Bảo đảm quyền có người đại diện

Người chưa thành niên được bảo đảm có người đại diện tham gia trong quá trình giải quyết vụ việc, vụ án.

Điều 10. Giải quyết nhanh chóng, kịp thời

Giải quyết vụ việc, vụ án có người chưa thành niên phải nhanh nhất có thể, hạn chế việc gia hạn và ưu tiên áp dụng thủ tục rút gọn.

Điều 11. Ưu tiên áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Biện pháp xử lý chuyển hướng được ưu tiên áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội trong tất cả các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.

2. Việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải phù hợp với lợi ích của người chưa thành niên phạm tội và cộng đồng.

Điều 12. Áp dụng hình phạt

1. Hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ ý thức tôn trọng, tuân theo pháp luật và các chuẩn mực đạo đức, lối sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới, có tác dụng phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

2. Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội nếu xét thấy việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa. Trường hợp phải áp dụng hình phạt thì ưu tiên áp dụng hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

3. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội.

4. Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người chưa thành niên phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.

5. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người thành niên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.

6. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.

7. Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội nếu thuộc trường hợp sau đây thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm:

a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội;

b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng do vô ý.

Điều 13. Bảo đảm giữ bí mật cá nhân

1. Bí mật cá nhân của người chưa thành niên phải được tôn trọng, bảo vệ trong suốt quá trình tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, xử lý chuyển hướng, thi hành án và tái hòa nhập cộng đồng.

2. Tòa án xét xử kín đối với vụ án hình sự có người chưa thành niên bị xâm hại tình dục hoặc trường hợp đặc biệt khác cần bảo vệ người chưa thành niên.

3. Trường hợp người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng tham gia tố tụng thì phải bố trí phòng cách ly hoặc các biện pháp bảo vệ khác.

Điều 14. Quyền bào chữa, quyền được trợ giúp pháp lý, phiên dịch

1. Người chưa thành niên là người bị buộc tội phải có người bào chữa.

2. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người chưa thành niên là người bị buộc tội thực hiện đầy đủ quyền bào chữa theo quy định của pháp luật.

3. Người chưa thành niên khi tham gia tố tụng hình sự được trợ giúp pháp lý và phiên dịch miễn phí.

Điều 15. Hạn chế tối đa việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế

1. Các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế chỉ được áp dụng đối với người chưa thành niên trong trường hợp thật cần thiết.

2. Chỉ áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác không hiệu quả.

Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên theo dõi, rà soát, kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên bị tạm giữ, tạm giam; nếu phát hiện không còn căn cứ hoặc không còn cần thiết tạm giữ, tạm giam thì phải kịp thời ra quyết định hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.

Điều 16. Chuyên môn hóa trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên

Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán giải quyết vụ việc, vụ án có người chưa thành niên phải là người đã được đào tạo, bồi dưỡng hoặc có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử vụ án liên quan đến người chưa thành niên hoặc có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục người chưa thành niên.

Điều 17. Bảo đảm và tôn trọng quyền tham gia, trình bày ý kiến

1. Người chưa thành niên có quyền tham gia, trình bày ý kiến về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong suốt quá trình tố tụng. Ý kiến trình bày của người chưa thành niên phải được tôn trọng, không bị coi là không đáng tin cậy chỉ vì lý do tuổi của họ. Việc người chưa thành niên không nhận tội không được coi là căn cứ để xử lý trách nhiệm nặng hơn với họ.

2. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lắng nghe ý kiến, nguyện vọng, quan tâm đến thái độ của người chưa thành niên phù hợp với lứa tuổi, giới tính, mức độ trưởng thành và sự phát triển của họ.

Điều 18. Bảo đảm hiệu lực của quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.

2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm phối hợp và thực hiện yêu cầu, đề nghị của cơ quan, người có thẩm quyền trong thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

Điều 19. Bảo đảm việc thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và thi hành án phạt tù phù hợp

1. Việc thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và thi hành án phạt tù phải bảo đảm người chưa thành niên được bảo vệ, giáo dục, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng.

2. Trường giáo dưỡng, trại giam phải bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất phù hợp với lứa tuổi, giới tính và sự phát triển của người chưa thành niên.

3. Người chưa thành niên chấp hành án phạt tù tại trại giam, phân trại hoặc khu giam giữ dành riêng cho người chưa thành niên là phạm nhân.

Điều 20. Bảo đảm việc tái hòa nhập cộng đồng

1. Bảo đảm các điều kiện thuận lợi cho người chưa thành niên chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, chấp hành xong án phạt tù tái hòa nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống, phòng ngừa phạm tội mới.

2. Bảo đảm sự tham gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia đình trong tái hòa nhập cộng đồng theo quy định của pháp luật.

3. Nghiêm cấm kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người chưa thành niên chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, chấp hành xong án phạt tù.

Chương II

QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC, CÁ NHÂN TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

Điều 21. Quyền và nghĩa vụ của người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội

1. Người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

a) Các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự;

b) Có người đại diện tham gia tố tụng;

c) Được sự hỗ trợ của chuyên gia y tế, tâm lý, giáo dục, xã hội học trong trường hợp cần thiết;

d) Được thông tin đầy đủ, kịp thời bằng ngôn từ đơn giản, thân thiện, dễ hiểu về những nội dung liên quan đến việc giải quyết vụ việc, vụ án;

đ) Được bảo đảm giữ bí mật cá nhân trong suốt quá trình giải quyết vụ việc, vụ án;

e) Được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật;

g) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật này;

h) Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này.

2. Ngoài các quyền và nghĩa vụ quy định tại khoản 1 Điều này, người chưa thành niên là bị can, bị cáo còn có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

a) Đề nghị áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

b) Được sự hỗ trợ của người làm công tác xã hội trong quá trình tố tụng;

c) Khiếu nại quyết định về việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

Điều 22. Quyền và nghĩa vụ của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng

1. Người chưa thành niên là bị hại có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

a) Các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự;

b) Có người đại diện tham gia tố tụng;

c) Được sự hỗ trợ của chuyên gia y tế, tâm lý, giáo dục, xã hội học trong trường hợp cần thiết;

d) Được thông tin đầy đủ, kịp thời bằng ngôn từ đơn giản, thân thiện, dễ hiểu về những nội dung liên quan đến việc giải quyết vụ việc, vụ án;

đ) Được bảo đảm giữ bí mật cá nhân trong suốt quá trình giải quyết vụ việc, vụ án;

e) Được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật;

g) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật này;

h) Được sự hỗ trợ của người làm công tác xã hội trong quá trình tố tụng;

i) Được bồi thường thiệt hại và hỗ trợ theo quy định của Luật này và các luật khác có liên quan;

k) Khiếu nại quyết định về việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

l) Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này.

2. Người chưa thành niên là người làm chứng có các quyền và nghĩa vụ quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 1 Điều này và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này.

Điều 23. Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng có các quyền sau đây:

a) Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật này;

b) Được lao động, học tập, hướng nghiệp, học nghề; được tham gia chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống;

c) Được trình bày nguyện vọng, kiến nghị của mình với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng; với Hiệu trưởng, cán bộ, giáo viên của trường giáo dưỡng;

d) Được bảo đảm giữ bí mật cá nhân trong quá trình chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng;

đ) Được cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong biện pháp xử lý chuyển hướng;

e) Được hướng dẫn thực hiện thủ tục khai báo tạm vắng, đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú khi chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng.

2. Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng có các nghĩa vụ sau đây:

a) Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

b) Tuân thủ pháp luật, chấp hành nội quy, quy chế của nơi cư trú, học tập, làm việc;

c) Chịu sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong thời gian chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

d) Báo cáo tình hình chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng khi được yêu cầu;

đ) Trình diện cơ quan có thẩm quyền khi được yêu cầu trong thời gian chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng.

3. Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Điều 24. Quyền và nghĩa vụ của người chưa thành niên là phạm nhân

1. Các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

2. Được bảo đảm giữ bí mật cá nhân trong quá trình chấp hành án phạt tù.

3. Được học văn hóa phù hợp với trình độ theo quy định của pháp luật về giáo dục.

4. Được tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao và vui chơi giải trí khác do trại giam tổ chức phù hợp với lứa tuổi, giới tính.

5. Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật này.

6. Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật này.

Điều 25. Xác định tuổi của người chưa thành niên là người bị buộc tội, bị hại

1. Việc xác định tuổi của người chưa thành niên là người bị buộc tội, bị hại do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật. Việc xác định tuổi căn cứ vào một trong các giấy tờ, tài liệu gồm: Giấy chứng sinh, Giấy khai sinh, Chứng minh nhân dân, Thẻ căn cước công dân, Thẻ căn cước, Giấy chứng nhận căn cước, Hộ chiếu hoặc thông tin trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác.

Trường hợp các giấy tờ, tài liệu hoặc thông tin trong các cơ sở dữ liệu nêu trên có mâu thuẫn, không rõ ràng hoặc không có giấy tờ, tài liệu, thông tin này thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp với gia đình, người đại diện, người thân thích, cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc tổ chức, cá nhân khác có liên quan nơi người đó học tập, lao động, sinh hoạt để xác minh, làm rõ mâu thuẫn hoặc tìm các giấy tờ, tài liệu khác có giá trị chứng minh về tuổi của họ.

2. Trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác thì ngày, tháng sinh được xác định như sau:

a) Trường hợp xác định được tháng nhưng không xác định được ngày thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh;

b) Trường hợp xác định được quý nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày, tháng sinh;

c) Trường hợp xác định được nửa của năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nửa năm đó làm ngày, tháng sinh;

d) Trường hợp xác định được năm nhưng không xác định được ngày, tháng thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh.

3. Trường hợp không xác định được năm sinh thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi.

Điều 26. Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên

1. Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên do Thủ tướng Chính phủ thành lập. Thành viên Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của cơ quan thường trực của Hội đồng.

2. Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên hoạt động theo cơ chế phối hợp liên ngành. Thành viên Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân công và làm việc theo chế độ kiêm nhiệm.

3. Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Chỉ đạo, đôn đốc các bộ, ngành để giải quyết các vấn đề về tư pháp người chưa thành niên;

b) Đề xuất phương hướng, giải pháp để thực hiện các vấn đề liên quan đến tư pháp người chưa thành niên;

c) Phối hợp với các cơ quan của Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong việc thực hiện hoạt động tư pháp người chưa thành niên;

d) Chỉ đạo, đôn đốc các bộ, ngành báo cáo Quốc hội về kết quả thực hiện nhiệm vụ liên quan đến tư pháp người chưa thành niên trong báo cáo công tác hằng năm;

đ) Chỉ đạo, đôn đốc hoạt động công tác xã hội về tư pháp người chưa thành niên; chỉ đạo tổ chức việc công bố danh sách người làm công tác xã hội trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho người làm công tác xã hội trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên;

e) Chỉ đạo công tác thống kê, thông tin, báo cáo về hoạt động tư pháp người chưa thành niên;

g) Thực hiện nhiệm vụ khác theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ và cơ quan có thẩm quyền.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 27. Cơ quan thường trực của Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên

1. Cơ quan thường trực của Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên là Bộ Công an.

2. Cơ quan thường trực có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Giúp Hội đồng quốc gia về tư pháp người chưa thành niên tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng;

b) Định kỳ hằng năm báo cáo Chính phủ về hoạt động của Hội đồng;

c) Nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 28. Trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng

1. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thực hiện đúng quy định của pháp luật về xử lý chuyển hướng, hình phạt, thủ tục tố tụng, trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên.

2. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cung cấp thông tin cần thiết về quá trình xử lý chuyển hướng, thủ tục tố tụng, về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ cho người tham gia tố tụng là người chưa thành niên, người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Điều 29. Người tiến hành tố tụng

1. Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán tiến hành hoạt động tư pháp người chưa thành niên phải đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:

a) Đã được đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng giải quyết các vụ án liên quan đến người chưa thành niên;

b) Có kinh nghiệm điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến người chưa thành niên;

c) Đã được đào tạo, bồi dưỡng về tâm lý học và khoa học giáo dục người chưa thành niên.

2. Hội thẩm tham gia xét xử sơ thẩm vụ án liên quan đến người chưa thành niên phải có ít nhất một người là giáo viên, cán bộ Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc người có kinh nghiệm công tác trong lĩnh vực tư pháp, quản lý, đào tạo, bảo vệ, chăm sóc hoặc giáo dục đối với người chưa thành niên hoặc người được đào tạo về tâm lý học và khoa học giáo dục người chưa thành niên.

Điều 30. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận

1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân thực hiện Luật này; tham gia giám sát, phản biện xã hội trong lĩnh vực tư pháp người chưa thành niên.

2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vận động các tổ chức thành viên của Mặt trận hỗ trợ, giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên.

Điều 31. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác

1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có trách nhiệm sau đây:

a) Phối hợp chặt chẽ, kịp thời với cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

b) Hỗ trợ, tạo điều kiện để người chưa thành niên thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ;

c) Phối hợp, trao đổi thông tin với cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;

d) Hỗ trợ người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng, đào tạo nghề, hỗ trợ việc làm cho người chưa thành niên khi đủ tuổi lao động;

đ) Thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

2. Người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên; đại diện cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan phải có mặt, tham gia đầy đủ các hoạt động tố tụng và các hoạt động khác theo quyết định hoặc yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền.

3. Trường giáo dưỡng, trại giam có trách nhiệm bảo đảm thực hiện đúng quy định của pháp luật về thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, thi hành án phạt tù, tái hòa nhập cộng đồng, trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên.

Trường giáo dưỡng, trại giam có trách nhiệm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, giáo viên về kỹ năng quản lý, giáo dục phù hợp với người chưa thành niên.

4. Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, Đoàn luật sư có trách nhiệm bồi dưỡng, hướng dẫn trợ giúp viên pháp lý, luật sư về kỹ năng bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên, kỹ năng trợ giúp pháp lý cho người chưa thành niên.

Điều 32. Người làm công tác xã hội

1. Người làm công tác xã hội trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên phải đáp ứng các điều kiện sau đây:

a) Có hiểu biết pháp luật về người chưa thành niên;

b) Đã được đào tạo hoặc bồi dưỡng về tâm lý học, khoa học giáo dục người chưa thành niên hoặc có kinh nghiệm, hiểu biết về tâm lý người chưa thành niên hoặc có kỹ năng giao tiếp đối với người chưa thành niên.

2. Người làm công tác xã hội khi tham gia hoạt động tư pháp người chưa thành niên có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Xây dựng báo cáo điều tra xã hội, kế hoạch xử lý chuyển hướng;

b) Tham gia hỗ trợ và can thiệp phù hợp đối với người chưa thành niên khi có yêu cầu;

c) Tham gia phiên họp, phiên tòa theo quy định của Luật này;

d) Tham gia công tác thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, tái hòa nhập cộng đồng cho người chưa thành niên theo quy định của pháp luật;

đ) Được thanh toán chi phí khi tham gia hoạt động tư pháp người chưa thành niên theo quy định của pháp luật;

e) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này.

3. Người làm công tác xã hội tham gia hoạt động tư pháp người chưa thành niên theo từng vụ việc, vụ án cụ thể.

4. Một người làm công tác xã hội có thể tham gia hỗ trợ cho nhiều người bị buộc tội hoặc nhiều bị hại nhưng không đồng thời hỗ trợ cho cả người bị buộc tội và bị hại trong cùng một vụ án.

5. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công bố danh sách người làm công tác xã hội trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên tại địa phương.

Điều 33. Trách nhiệm của gia đình

1. Cha, mẹ, người chăm sóc người chưa thành niên và các thành viên khác trong gia đình có trách nhiệm sau đây:

a) Chấp hành quy định của pháp luật và quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp người chưa thành niên;

b) Thường xuyên liên hệ với cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm để được hướng dẫn, trợ giúp trong quá trình thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và tái hòa nhập cộng đồng đối với người chưa thành niên;

c) Chấp hành quyết định, biện pháp, quy định của cơ quan, người có thẩm quyền để bảo đảm sự an toàn, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, bí mật cá nhân, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của người chưa thành niên.

2. Cha, mẹ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên có trách nhiệm tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc, vụ án; lựa chọn người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hoặc tự mình bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên trong quá trình tố tụng theo quy định của pháp luật.

3. Cha, mẹ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên phạm tội có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và thực hiện các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.

Phần thứ hai

XỬ LÝ CHUYỂN HƯỚNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

Chương III

CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ CHUYỂN HƯỚNG

Điều 34. Mục đích xử lý chuyển hướng

1. Xử lý kịp thời và hiệu quả đối với người chưa thành niên.

2. Giúp người chưa thành niên thay đổi nhận thức, nhận biết, sửa chữa sai lầm đã gây ra, tự rèn luyện khắc phục, ngăn ngừa nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội và giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã hội.

3. Đẩy mạnh việc hòa giải giữa người chưa thành niên và bị hại bị ảnh hưởng bởi hành vi phạm tội của người chưa thành niên.

4. Nâng cao trách nhiệm của gia đình và cộng đồng tham gia trực tiếp vào hoạt động xử lý chuyển hướng.

5. Hạn chế tác động tiêu cực của thủ tục tố tụng hình sự đối với người chưa thành niên.

6. Ngăn ngừa người chưa thành niên phạm tội mới, tạo điều kiện tái hòa nhập cộng đồng.

Điều 35. Nguyên tắc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; khả năng giáo dục, phục hồi của người chưa thành niên phạm tội và sự an toàn của bị hại, cộng đồng.

2. Việc lựa chọn biện pháp xử lý chuyển hướng áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội phải phù hợp với hoàn cảnh, độ tuổi, đặc điểm tâm sinh lý của họ.

3. Người chưa thành niên phạm tội có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng. Biện pháp xử lý chuyển hướng quy định tại các khoản 6, 7, 8, 9, 10 và 11 Điều 36 của Luật này phải áp dụng đồng thời với một hoặc nhiều biện pháp xử lý chuyển hướng quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 36 của Luật này.

Trường hợp người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng nhiều biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng khác nhau nhưng cùng phải thực hiện nghĩa vụ quy định tại các điểm b, c, d và đ khoản 2 Điều 23 của Luật này thì thời gian thực hiện nghĩa vụ không vượt quá mức thời hạn cao nhất quy định đối với biện pháp được áp dụng.

4. Không áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đồng thời với các biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng.

5. Không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng nếu tại thời điểm xem xét người phạm tội đã đủ 18 tuổi.

Điều 36. Biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Khiển trách.

2. Xin lỗi bị hại.

3. Bồi thường thiệt hại.

4. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

5. Quản thúc tại gia đình.

6. Hạn chế khung giờ đi lại.

7. Cấm tiếp xúc với người có nguy cơ dẫn đến người chưa thành niên phạm tội mới.

8. Cấm đến địa điểm có nguy cơ dẫn đến người chưa thành niên phạm tội mới.

9. Tham gia chương trình học tập, dạy nghề.

10. Tham gia điều trị hoặc tư vấn tâm lý.

11. Thực hiện công việc phục vụ cộng đồng.

12. Giáo dục tại trường giáo dưỡng.

Điều 37. Trường hợp áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

Người chưa thành niên phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự thì có thể được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng:

1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 38 của Luật này;

2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý, phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 38 của Luật này;

3. Người chưa thành niên là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.

Điều 38. Trường hợp không được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 37 của Luật này:

a) Phạm tội rất nghiêm trọng về một trong các tội phạm sau đây: Tội giết người, Tội hiếp dâm, Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, Tội sản xuất trái phép chất ma túy;

b) Phạm tội rất nghiêm trọng 02 lần trở lên hoặc phạm nhiều tội rất nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự;

c) Phạm tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự.

2. Người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 37 của Luật này:

a) Phạm tội nghiêm trọng về một trong các tội phạm sau đây: Tội hiếp dâm, Tội sản xuất trái phép chất ma túy, Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, Tội mua bán trái phép chất ma túy, Tội vận chuyển trái phép chất ma túy, Tội chiếm đoạt chất ma túy;

b) Tái phạm, tái phạm nguy hiểm;

c) Phạm tội nghiêm trọng do cố ý 02 lần trở lên hoặc phạm nhiều tội nghiêm trọng do cố ý theo quy định của Bộ luật Hình sự;

d) Phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự.

3. Người chưa thành niên đã được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng mà phạm tội mới.

Điều 39. Điều kiện áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

Người chưa thành niên phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 37 của Luật này có thể được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng khi có đủ các điều kiện sau đây:

1. Có chứng cứ xác định người chưa thành niên đã thực hiện hành vi phạm tội;

2. Người chưa thành niên thừa nhận mình đã thực hiện hành vi phạm tội;

3. Người chưa thành niên đồng ý bằng văn bản về việc xử lý chuyển hướng.

Điều 40. Khiển trách

1. Khiển trách là việc phê bình nghiêm khắc đối với người chưa thành niên phạm tội, trong đó giải thích về thiệt hại mà người chưa thành niên đã gây ra và hậu quả nếu tiếp tục vi phạm. Việc khiển trách được thi hành ngay tại phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, tại phiên tòa hoặc được thi hành tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên phạm tội cư trú.

2. Khiển trách có thể được áp dụng đối với một trong các trường hợp sau đây:

a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự;

b) Người chưa thành niên là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.

3. Người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng biện pháp khiển trách phải thực hiện nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này từ 03 tháng đến 01 năm.

Điều 41. Xin lỗi bị hại

1. Xin lỗi bị hại là việc người chưa thành niên phạm tội nhận lỗi với bị hại và mong muốn được tha thứ về hành vi phạm tội mà họ đã gây ra. Việc xin lỗi bị hại được thi hành ngay tại phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng hoặc tại phiên tòa.

2. Xin lỗi bị hại có thể được áp dụng đối với một trong các trường hợp sau đây:

a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp phạm một trong các tội quy định tại điểm a khoản 2 Điều 51 của Luật này;

b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp phạm một trong các tội quy định tại điểm b khoản 2 Điều 51 của Luật này;

c) Người chưa thành niên là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.

3. Xin lỗi bị hại được áp dụng khi có sự đồng thuận của bị hại hoặc người đại diện của họ.

4. Người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng biện pháp xin lỗi bị hại phải thực hiện nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này từ 03 tháng đến 01 năm.

Điều 42. Bồi thường thiệt hại

1. Bồi thường thiệt hại là việc người chưa thành niên phạm tội hoặc cha, mẹ của họ khắc phục hậu quả của hành vi phạm tội mà người chưa thành niên gây ra bằng cách đền bù tổn hại về vật chất, tinh thần do xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của bị hại.

2. Bồi thường thiệt hại có thể được áp dụng đối với một trong các trường hợp sau đây:

a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp phạm một trong các tội quy định tại điểm a khoản 2 Điều 51 của Luật này;

b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp phạm một trong các tội quy định tại điểm b khoản 2 Điều 51 của Luật này;

c) Người chưa thành niên là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.

3. Bồi thường thiệt hại được áp dụng khi có sự đồng thuận của bị hại hoặc người đại diện của họ. Cơ quan có thẩm quyền ấn định thời gian thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại nhưng không quá 01 năm.

4. Người chưa thành niên phạm tội bị áp dụng biện pháp bồi thường thiệt hại phải thực hiện nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này từ 03 tháng đến 01 năm.

Điều 43. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn

1. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn là việc buộc người chưa thành niên phạm tội phải chịu sự quản lý, giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú về việc tuân thủ pháp luật, thực hiện nghĩa vụ công dân, chấp hành nội quy, quy chế của nơi cư trú, nơi học tập, nơi làm việc.

2. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn có thể được áp dụng đối với một trong các trường hợp sau đây:

a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 37 và phạm một trong các tội quy định tại điểm a khoản 2 Điều 51 của Luật này;

b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 37 và phạm một trong các tội quy định tại điểm b khoản 2 Điều 51 của Luật này.

3. Thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và thực hiện nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này là từ 06 tháng đến 02 năm.

Điều 44. Quản thúc tại gia đình

1. Quản thúc tại gia đình là việc buộc người chưa thành niên phạm tội ở nhà dưới sự giám sát trực tiếp của gia đình và chỉ được rời khỏi nhà trong trường hợp cần thiết với sự cho phép của người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

2. Quản thúc tại gia đình có thể được áp dụng đối với một trong các trường hợp sau đây:

a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 37 và phạm một trong các tội quy định tại điểm a khoản 2 Điều 51 của Luật này;

b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý; phạm tội nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 37 và phạm một trong các tội quy định tại điểm b khoản 2 Điều 51 của Luật này.

3. Quản thúc tại gia đình được áp dụng khi có đề nghị và cam kết của cha, mẹ, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột hoặc chị ruột là người thành niên ở cùng nhà với người chưa thành niên phạm tội. Người đề nghị phải bảo đảm có nơi cư trú rõ ràng, có điều kiện cơ sở vật chất, có khả năng chăm sóc, giáo dục và trực tiếp giám sát người chưa thành niên phạm tội.

4. Thời hạn áp dụng biện pháp quản thúc tại gia đình và thực hiện nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này là từ 03 tháng đến 01 năm.

Điều 45. Hạn chế khung giờ đi lại

1. Hạn chế khung giờ đi lại là việc giới hạn người chưa thành niên phạm tội ra khỏi nhà vào khung giờ nhất định trong khoảng thời gian từ 18 giờ ngày hôm trước đến 06 giờ sáng ngày hôm sau, trừ trường hợp cần thiết được người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng cho phép.

2. Thời hạn áp dụng biện pháp hạn chế khung giờ đi lại là từ 03 tháng đến 06 tháng.

Điều 46. Cấm tiếp xúc với người có nguy cơ dẫn đến người chưa thành niên phạm tội mới

1. Cấm tiếp xúc với người có nguy cơ dẫn đến người chưa thành niên phạm tội mới là việc cấm người chưa thành niên phạm tội giao tiếp, liên lạc, tiếp cận với bị hại, đồng phạm, người có ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi của người chưa thành niên có nguy cơ thúc đẩy người chưa thành niên phạm tội mới.

2. Thời hạn áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc với người có nguy cơ dẫn đến người chưa thành niên phạm tội mới là từ 06 tháng đến 01 năm.

Điều 47. Cấm đến địa điểm có nguy cơ dẫn đến người chưa thành niên phạm tội mới

1. Cấm đến địa điểm có nguy cơ dẫn đến người chưa thành niên phạm tội mới là việc cấm người chưa thành niên phạm tội đến địa điểm đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc địa điểm có môi trường tương tự như nơi đã thực hiện hành vi phạm tội có nguy cơ thúc đẩy người chưa thành niên phạm tội mới.

2. Thời hạn áp dụng biện pháp cấm đến địa điểm có nguy cơ dẫn đến người chưa thành niên phạm tội mới là từ 06 tháng đến 01 năm.

Điều 48. Tham gia chương trình học tập, dạy nghề

1. Tham gia chương trình học tập, dạy nghề là việc người chưa thành niên phạm tội phải học tập về pháp luật, đạo đức, nghĩa vụ công dân, kỹ năng ứng xử, kỹ năng sống hoặc học nghề.

2. Cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp được cơ quan tiến hành tố tụng lựa chọn có trách nhiệm đào tạo, giáo dục người chưa thành niên và phối hợp với người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng thi hành biện pháp này.

3. Thời hạn áp dụng biện pháp tham gia chương trình học tập, dạy nghề là không quá 01 năm.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 49. Tham gia điều trị hoặc tư vấn tâm lý

1. Điều trị hoặc tư vấn tâm lý là việc trị liệu, can thiệp y tế nhằm khắc phục những trở ngại về tinh thần, cảm xúc, tâm trạng, tình trạng sức khỏe là nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của người chưa thành niên.

2. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và tổ chức khác có chức năng điều trị hoặc tư vấn tâm lý được cơ quan tiến hành tố tụng lựa chọn có trách nhiệm thực hiện các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn để trị liệu, can thiệp cho người chưa thành niên và phối hợp với người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng thi hành biện pháp này.

3. Thời hạn áp dụng biện pháp tham gia điều trị hoặc tư vấn tâm lý là không quá 01 năm.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 50. Thực hiện công việc phục vụ cộng đồng

1. Thực hiện công việc phục vụ cộng đồng là thực hiện công việc trực tiếp phục vụ cho lợi ích của cộng đồng nơi người chưa thành niên phạm tội cư trú, bao gồm:

a) Tham gia trồng, chăm sóc cây xanh ở khu vực công cộng; sửa chữa, làm sạch đường làng, ngõ xóm, đường phố, ngõ phố, nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng hoặc công trình công cộng khác;

b) Tham gia công việc khác nhằm cải thiện môi trường sống và cảnh quan của cộng đồng;

c) Tham gia hỗ trợ giúp đỡ người cao tuổi, người khuyết tật, người có hoàn cảnh đặc biệt hoặc các hoạt động tình nguyện khác nhằm tăng cường ý thức, trách nhiệm, sự gắn kết, chia sẻ với cộng đồng.

2. Tổng thời gian thực hiện biện pháp thực hiện công việc phục vụ cộng đồng là từ 20 giờ đến 80 giờ. Việc thực hiện công việc phục vụ cộng đồng không được quá 04 giờ trong 01 ngày, không được quá 05 ngày trong 01 tuần, không được thực hiện vào thời gian từ 20 giờ ngày hôm trước đến 06 giờ sáng ngày hôm sau.

3. Việc tổ chức thi hành biện pháp thực hiện công việc phục vụ cộng đồng phải bảo đảm an toàn, tránh bị kỳ thị và ảnh hưởng đến việc học tập của người chưa thành niên.

4. Thời hạn áp dụng biện pháp thực hiện công việc phục vụ cộng đồng là không quá 03 tháng.

Điều 51. Giáo dục tại trường giáo dưỡng

1. Giáo dục tại trường giáo dưỡng là việc buộc người chưa thành niên phạm tội học văn hóa, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục trong một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ theo quy định của pháp luật.

2. Giáo dục tại trường giáo dưỡng có thể được áp dụng đối với một trong các trường hợp sau đây:

a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng về một trong các tội phạm sau đây: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Tội mua bán người, Tội mua bán người dưới 16 tuổi, Tội cướp tài sản, Tội cướp giật tài sản, Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, Tội vận chuyển trái phép chất ma túy, Tội mua bán trái phép chất ma túy, Tội chiếm đoạt chất ma túy, trừ trường hợp người chưa thành niên là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án;

b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng về một trong các tội phạm sau đây: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, Tội cướp giật tài sản, trừ trường hợp người chưa thành niên là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án;

c) Các trường hợp khác cần phải áp dụng, do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người chưa thành niên phạm tội;

d) Trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật này.

3. Thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng là từ 06 tháng đến 02 năm.

Chương IV

THỦ TỤC XEM XÉT, QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ CHUYỂN HƯỚNG

Mục 1. QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 52. Thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, trừ trường hợp vụ án có yêu cầu giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc phải giải quyết vấn đề tịch thu tài sản.

2. Thẩm phán, Hội đồng xét xử có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý chuyển hướng quy định tại Điều 36 của Luật này.

Điều 53. Yêu cầu người làm công tác xã hội tham gia tố tụng

1. Ngay sau khi khởi tố bị can là người chưa thành niên, Cơ quan điều tra phải có văn bản yêu cầu người làm công tác xã hội trong danh sách quy định tại khoản 5 Điều 32 của Luật này tham gia tố tụng. Trường hợp cần thiết có thể yêu cầu trực tiếp, qua điện thoại hoặc phương tiện điện tử khác nhưng ngay sau đó phải gửi yêu cầu bằng văn bản.

2. Việc lựa chọn người làm công tác xã hội theo thứ tự ưu tiên sau đây:

a) Công chức, viên chức, người lao động làm công tác xã hội cư trú cùng địa bàn đơn vị hành chính cấp xã với người chưa thành niên;

b) Công chức, viên chức, người lao động làm công tác xã hội cư trú cùng địa bàn đơn vị hành chính cấp huyện với người chưa thành niên;

c) Người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã hoặc công chức văn hóa - xã hội cấp xã nơi người chưa thành niên cư trú;

d) Người làm công tác xã hội khác theo quy định của pháp luật.

3. Trong thời hạn 01 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của Cơ quan điều tra, người làm công tác xã hội phải trả lời bằng văn bản về việc tham gia tố tụng. Trường hợp cần thiết có thể thông báo trực tiếp, qua điện thoại hoặc phương tiện điện tử khác nhưng ngay sau đó phải gửi văn bản.

4. Trong thời hạn 01 ngày kể từ ngày người làm công tác xã hội xác nhận tham gia tố tụng, Cơ quan điều tra phải có văn bản thông báo về việc tham gia tố tụng và gửi cho họ. Thông báo này phải có nội dung yêu cầu người làm công tác xã hội xây dựng báo cáo điều tra xã hội về người chưa thành niên là bị can.

Văn bản thông báo về việc tham gia tố tụng của người làm công tác xã hội có giá trị trong suốt quá trình tố tụng.

5. Người làm công tác xã hội là người tham gia tố tụng kể từ khi có văn bản thông báo về việc tham gia tố tụng.

Điều 54. Xây dựng báo cáo điều tra xã hội

1. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được thông báo về việc tham gia tố tụng, người làm công tác xã hội phải hoàn thành báo cáo điều tra xã hội về người chưa thành niên là bị can và gửi cho Cơ quan điều tra.

2. Báo cáo điều tra xã hội phải có các nội dung chính sau đây:

a) Họ và tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, số định danh cá nhân, nơi cư trú của người chưa thành niên;

b) Họ và tên, nơi cư trú của người đại diện của người chưa thành niên;

c) Họ và tên, nơi làm việc (nếu có) của người làm công tác xã hội;

d) Hoàn cảnh gia đình, môi trường sống của người chưa thành niên;

đ) Mức độ trưởng thành của người chưa thành niên;

e) Tình trạng sức khỏe của người chưa thành niên;

g) Tình hình học tập, trình độ văn hóa, nghề nghiệp của người chưa thành niên;

h) Các yếu tố có thể là nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của người chưa thành niên;

i) Địa điểm có nguy cơ dẫn đến người chưa thành niên phạm tội mới, người có ảnh hưởng tiêu cực đến hành vi của người chưa thành niên (nếu có);

k) Đề xuất áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng (nếu có).

3. Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cung cấp thông tin về người chưa thành niên là bị can khi người làm công tác xã hội đề nghị.

4. Theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người làm công tác xã hội xây dựng báo cáo điều tra xã hội bổ sung trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.

Điều 55. Xem xét việc áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng

1. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận được báo cáo điều tra xã hội; trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, Tòa án nhận được hồ sơ vụ án và bản cáo trạng thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát hoặc Thẩm phán phải căn cứ vào quy định tại các điều 35, 37, 38 và 39 của Luật này để ra thông báo áp dụng hoặc không áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng.

2. Thông báo áp dụng hoặc không áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng phải có các nội dung chính sau đây:

a) Số, ngày, tháng, năm ra thông báo;

b) Tên cơ quan ra thông báo;

c) Họ và tên của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát hoặc Thẩm phán ra thông báo;

d) Họ và tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, số định danh cá nhân, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa của người chưa thành niên là bị can;

đ) Họ và tên, nơi làm việc (nếu có) của người bào chữa;

e) Lý do, căn cứ ra thông báo;

g) Áp dụng hoặc không áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng;

h) Nơi nhận thông báo.

3. Thông báo áp dụng hoặc không áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng được gửi cho người chưa thành niên là bị can, người đại diện của họ, người bào chữa, người làm công tác xã hội và Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra thông báo.

4. Ngay sau khi ra thông báo áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án giải quyết như sau:

a) Nếu xét thấy người chưa thành niên thuộc trường hợp được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng thì có văn bản yêu cầu người làm công tác xã hội xây dựng kế hoạch xử lý chuyển hướng, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản này.

Văn bản yêu cầu phải có các thông tin về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của người chưa thành niên và các thông tin khác cần thiết cho việc xây dựng kế hoạch xử lý chuyển hướng;

b) Nếu xét thấy người chưa thành niên thuộc trường hợp được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng mà hồ sơ vụ án đã có kế hoạch xử lý chuyển hướng, thì Viện kiểm sát, Tòa án xem xét mở phiên họp theo quy định tại Điều 59 của Luật này khi thấy không cần thiết phải bổ sung hoặc xây dựng kế hoạch xử lý chuyển hướng mới;

c) Nếu xét thấy người chưa thành niên thuộc trường hợp được áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có văn bản, kèm theo hồ sơ vụ án đề nghị Tòa án xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

Trường hợp tự xét thấy người chưa thành niên thuộc trường hợp áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng thì Tòa án xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

5. Trong quá trình áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng, nếu vụ án có yêu cầu về bồi thường thiệt hại hoặc phải giải quyết vấn đề tịch thu tài sản thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có văn bản, kèm theo hồ sơ vụ án đề nghị Tòa án xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc tịch thu tài sản.

6. Trường hợp Cơ quan điều tra đề nghị Tòa án xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng theo quy định tại điểm c khoản 4 và khoản 5 Điều này thì Cơ quan điều tra phải thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.

7. Việc áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng không làm chấm dứt các hoạt động tố tụng cần thiết để giải quyết vụ án.

Trường hợp vụ án hình sự đang áp dụng thủ tục rút gọn mà có người chưa thành niên thuộc trường hợp được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và giải quyết vụ án theo quy định của Luật này và Bộ luật Tố tụng hình sự.

8. Khi ra thông báo không áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật này.

9. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết tại các khoản 4, 5 và 7 Điều này.

Điều 56. Quyết định về việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Quyết định về việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải có các nội dung chính sau đây:

a) Số, ngày, tháng, năm ra quyết định;

b) Tên cơ quan ra quyết định;

c) Họ và tên của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử ra quyết định;

d) Họ và tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, số định danh cá nhân, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa của người chưa thành niên;

đ) Họ và tên, nơi làm việc (nếu có) của người bào chữa;

e) Tội danh, điều, khoản, điểm của Bộ luật Hình sự được áp dụng;

g) Lý do, căn cứ ra quyết định;

h) Quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

Trường hợp áp dụng thì nêu tên biện pháp xử lý chuyển hướng, thời hạn áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, thời hạn thực hiện nghĩa vụ, đình chỉ điều tra vụ án đối với bị can hoặc đình chỉ vụ án đối với bị can được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có), việc xử lý vật chứng và các vấn đề khác có liên quan;

i) Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành quyết định;

k) Hiệu lực của quyết định;

l) Nơi nhận quyết định.

2. Quyết định về việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng có hiệu lực thi hành kể từ ngày công bố.

Quyết định này có thể bị khiếu nại, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 151 của Luật này; có thể bị kiến nghị, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này và khoản 6 Điều 151 của Luật này.

3. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày công bố quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thực hiện như sau:

a) Giao quyết định cho người chưa thành niên là bị can, người đại diện của họ; gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị hại; gửi cho Cơ quan điều tra cùng cấp trong trường hợp Viện kiểm sát ra quyết định;

b) Gửi quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng và bản sao Báo cáo điều tra xã hội cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên cư trú;

c) Gửi quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng bồi thường thiệt hại cho cơ quan thi hành án dân sự.

4. Trường hợp quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Cơ quan điều tra không có căn cứ, trái pháp luật thì trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, Viện kiểm sát giải quyết như sau và nêu rõ lý do:

a) Ra quyết định hủy quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và yêu cầu Cơ quan điều tra tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của Luật này và Bộ luật Tố tụng hình sự;

b) Ra quyết định hủy quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng hoặc quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và yêu cầu Cơ quan điều tra mở lại phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản này.

Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được quyết định quy định tại điểm này, Cơ quan điều tra phải mở lại phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

c) Trường hợp hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra đề nghị truy tố đã chuyển cho Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng theo quy định của Luật này.

5. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày công bố quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, Tòa án thực hiện như sau:

a) Giao quyết định cho người chưa thành niên là bị can, người đại diện của họ; gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị hại; gửi cho cơ quan đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng (nếu có);

b) Gửi quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và bản sao báo cáo điều tra xã hội cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chưa thành niên cư trú;

c) Trả hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã đề nghị trong trường hợp Tòa án không chấp nhận đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Luật này.

Điều 57. Giải quyết trường hợp người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng phạm tội khác

Trường hợp người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác thì không bị truy cứu về hành vi phạm tội đã bị áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

Mục 2. THỦ TỤC XEM XÉT, QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ CHUYỂN HƯỚNG TẠI CỘNG ĐỒNG

Điều 58. Xây dựng kế hoạch xử lý chuyển hướng

1. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, người làm công tác xã hội phải xây dựng kế hoạch xử lý chuyển hướng và gửi đến cơ quan đã yêu cầu.

2. Kế hoạch xử lý chuyển hướng phải có các nội dung chính sau đây:

a) Biện pháp xử lý chuyển hướng đề xuất áp dụng;

b) Thời gian, địa điểm thực hiện;

c) Quyền, nghĩa vụ của người chưa thành niên theo quy định tại Điều 23 của Luật này;

d) Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

3. Trường hợp cần thiết, người làm công tác xã hội đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án cung cấp thông tin hoặc tổ chức cuộc họp để xây dựng kế hoạch xử lý chuyển hướng. Cuộc họp do người làm công tác xã hội chủ trì, có sự tham gia của người đại diện của người chưa thành niên là bị can và có thể có sự tham gia của người chưa thành niên là bị can, bị hại hoặc người đại diện của bị hại.

Trường hợp đề xuất áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tham gia chương trình học tập, dạy nghề, tham gia điều trị hoặc tư vấn tâm lý đối với người chưa thành niên thì người làm công tác xã hội phải phối hợp, thống nhất với cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc tổ chức, cá nhân khác có liên quan để xác định cụ thể nội dung, chương trình học tập, học nghề, điều trị, tư vấn tâm lý phù hợp với người chưa thành niên.

4. Theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người làm công tác xã hội xây dựng kế hoạch xử lý chuyển hướng bổ sung trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.

Điều 59. Quyết định mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng

1. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được kế hoạch xử lý chuyển hướng hoặc kể từ ngày ra thông báo áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng nếu thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều 55 của Luật này, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát hoặc Thẩm phán ra quyết định mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng.

2. Quyết định mở phiên họp phải có các nội dung chính sau đây:

a) Ngày, tháng, năm ra quyết định, tên cơ quan ra quyết định;

b) Ngày, tháng, năm, địa điểm mở phiên họp trực tiếp hoặc trực tuyến;

c) Họ và tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, số định danh cá nhân, nơi cư trú của người chưa thành niên là bị can;

d) Họ và tên, nơi cư trú của người đại diện của người chưa thành niên là bị can;

đ) Họ và tên của Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Thẩm phán chủ trì phiên họp; Thư ký phiên họp;

e) Họ và tên của Kiểm sát viên tham gia phiên họp trong trường hợp Cơ quan điều tra, Tòa án mở phiên họp;

g) Họ và tên, nơi làm việc (nếu có) của người bào chữa;

h) Họ và tên, nơi làm việc (nếu có) của người làm công tác xã hội;

i) Họ và tên người phiên dịch (nếu có);

k) Họ và tên những người khác được yêu cầu tham gia phiên họp (nếu có).

3. Thành phần tham gia phiên họp gồm:

a) Người tiến hành phiên họp: Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát; Thẩm phán; Thư ký phiên họp;

b) Người tham gia phiên họp: Kiểm sát viên tham gia phiên họp trong trường hợp Cơ quan điều tra, Tòa án mở phiên họp; Điều tra viên trong trường hợp Viện kiểm sát mở phiên họp;

c) Người khác tham gia phiên họp: người chưa thành niên là bị can, người đại diện, người bào chữa của họ; người làm công tác xã hội; bị hại (nếu có);

d) Trường hợp cần thiết, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án yêu cầu người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật, chuyên gia y tế, tâm lý, giáo dục, xã hội học, đại diện cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp nơi người chưa thành niên là bị can học tập, đại diện cơ quan, tổ chức nơi người chưa thành niên là bị can làm việc, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, các tổ chức thành viên của Mặt trận nơi người chưa thành niên cư trú và những người khác tham gia phiên họp.

4. Quyết định mở phiên họp phải được gửi cho những người quy định tại điểm c khoản 3 Điều này, Viện kiểm sát cùng cấp, Cơ quan điều tra trong trường hợp Viện kiểm sát mở phiên họp ngay sau khi ra quyết định. Phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng được tổ chức trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp.

Điều 60. Phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng

1. Trước khi khai mạc phiên họp, Thư ký phiên họp kiểm tra sự có mặt của những người được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án yêu cầu tham gia phiên họp; nếu có người vắng mặt thì phải làm rõ lý do và báo cáo người chủ trì phiên họp để xem xét tiếp tục tiến hành phiên họp hoặc hoãn phiên họp.

2. Thủ tục phiên họp được tiến hành như sau:

a) Người chủ trì phiên họp khai mạc phiên họp;

b) Người làm công tác xã hội trình bày kế hoạch xử lý chuyển hướng;

c) Người chưa thành niên là bị can, người đại diện của họ trình bày ý kiến;

d) Người bào chữa trình bày ý kiến;

đ) Những người khác tham gia phiên họp trình bày ý kiến để làm rõ các vấn đề có liên quan;

e) Người chủ trì phiên họp điều hành việc hỏi để làm rõ các vấn đề có liên quan;

g) Kiểm sát viên phát biểu ý kiến;

h) Người chủ trì phiên họp quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và công bố nội dung quyết định ngay tại phiên họp.

Nếu xét thấy người chưa thành niên thuộc trường hợp áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc phát sinh yêu cầu giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc phải giải quyết vấn đề tịch thu tài sản thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có văn bản, kèm theo hồ sơ vụ án đề nghị Tòa án xem xét, quyết định.

Nếu xét thấy người chưa thành niên thuộc trường hợp áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng thì Thẩm phán ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

3. Phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng phải được tổ chức thân thiện, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên. Việc hỏi người chưa thành niên phải phù hợp với lứa tuổi, giới tính, khả năng nhận thức và mức độ trưởng thành của họ. Câu hỏi cần ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc. Người đại diện của người chưa thành niên có thể hỗ trợ họ tại phiên họp.

4. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án xem xét hoãn phiên họp khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Người phiên dịch vắng mặt mà không có người khác thay thế ngay được;

b) Người chưa thành niên là bị can, người đại diện của họ vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng.

5. Thời hạn hoãn phiên họp là không quá 05 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn. Quyết định hoãn phiên họp phải được thông báo ngay cho những người có mặt tại phiên họp; gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người vắng mặt tại phiên họp trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định.

Điều 61. Biên bản phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng

1. Biên bản phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm mở phiên họp; thành phần tham gia phiên họp; nội dung, diễn biến phiên họp; quyết định của người chủ trì phiên họp.

2. Sau khi kết thúc phiên họp, người chủ trì phiên họp phải kiểm tra biên bản, cùng với Thư ký phiên họp ký vào biên bản.

Điều 62. Thủ tục Tòa án xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng theo đề nghị của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát

1. Ngay sau khi nhận được văn bản đề nghị, kèm theo hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát theo quy định tại khoản 5 Điều 55 và điểm h khoản 2 Điều 60 của Luật này, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm phán giải quyết. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày được phân công, Thẩm phán giải quyết như sau:

a) Trường hợp hồ sơ vụ án đã có kế hoạch xử lý chuyển hướng thì ra quyết định mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, trừ trường hợp phải yêu cầu bổ sung tài liệu;

b) Trường hợp hồ sơ vụ án chưa có kế hoạch xử lý chuyển hướng thì yêu cầu người làm công tác xã hội xây dựng kế hoạch xử lý chuyển hướng theo quy định tại Điều 58 của Luật này. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được kế hoạch xử lý chuyển hướng, Thẩm phán ra quyết định mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng.

2. Trường hợp bị can đang bị tạm giam thì Chánh án, Phó Chánh án xem xét, quyết định việc tiếp tục tạm giam hoặc hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của Luật này và Bộ luật Tố tụng hình sự.

Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn là cho đến khi Tòa án công bố quyết định về việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

3. Quyết định mở phiên họp, thành phần phiên họp, thời gian mở phiên họp, hoãn phiên họp, biên bản phiên họp và việc yêu cầu bổ sung tài liệu được thực hiện theo quy định tương ứng tại các khoản 2, 3 và 4 Điều 64, Điều 65, khoản 4, khoản 5 Điều 66 và Điều 67 của Luật này.

4. Trước khi khai mạc phiên họp, Thư ký phiên họp phải kiểm tra sự có mặt của những người được Tòa án yêu cầu tham dự phiên họp; nếu có người vắng mặt thì phải làm rõ lý do và báo cáo Thẩm phán để xem xét tiếp tục tiến hành phiên họp hoặc hoãn phiên họp. Thủ tục phiên họp được tiến hành như sau:

a) Thẩm phán khai mạc phiên họp;

b) Đại diện cơ quan đề nghị trình bày nội dung đề nghị;

c) Người làm công tác xã hội trình bày kế hoạch xử lý chuyển hướng;

d) Người chưa thành niên là bị can, người đại diện, người bào chữa của họ trình bày ý kiến;

đ) Những người khác tham gia phiên họp trình bày ý kiến để làm rõ các vấn đề có liên quan;

e) Thẩm phán hỏi đại diện cơ quan đề nghị, người chưa thành niên là bị can, người đại diện của họ và những người khác tham gia phiên họp để làm rõ các vấn đề có liên quan;

g) Người chưa thành niên là bị can, người đại diện, người bào chữa của họ tranh luận các vấn đề có liên quan. Việc tranh luận được tiến hành theo sự điều hành của Thẩm phán. Người tham gia tranh luận có quyền đối đáp lại ý kiến của người khác. Thẩm phán không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho họ tranh luận, trình bày hết ý kiến; có quyền yêu cầu dừng những ý kiến không liên quan và ý kiến lặp lại;

h) Kiểm sát viên phát biểu ý kiến;

i) Thẩm phán quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng hoặc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng nếu xét thấy người chưa thành niên thuộc trường hợp áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc tịch thu tài sản và công bố nội dung quyết định ngay tại phiên họp.

Việc quyết định tạm giam đối với người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng được thực hiện theo quy định tại khoản 6 Điều 66 của Luật này.

5. Phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng phải được tổ chức thân thiện theo quy định tại khoản 3 Điều 60 của Luật này.

6. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày công bố quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, Tòa án thực hiện như sau:

a) Giao quyết định cho người chưa thành niên là bị can, người đại diện của họ; gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị hại, cơ quan đề nghị;

b) Gửi quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng và bản sao báo cáo điều tra xã hội cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên cư trú;

c) Gửi quyết định cho cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp với Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

d) Gửi quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và bản sao báo cáo điều tra xã hội cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chưa thành niên cư trú;

đ) Trả hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã đề nghị trong trường hợp không chấp nhận đề nghị áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng để tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật này.

Mục 3. THỦ TỤC XEM XÉT, QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TẠI TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG

Điều 63. Xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

1. Tòa án xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng trong các trường hợp sau đây:

a) Theo đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát quy định tại điểm c khoản 4 Điều 55 và điểm h khoản 2 Điều 60 của Luật này;

b) Tòa án tự mình xét thấy người chưa thành niên thuộc trường hợp được áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng theo quy định của Luật này.

2. Ngay sau khi nhận được văn bản đề nghị, kèm theo hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm phán giải quyết.

3. Trường hợp bị can đang bị tạm giam thì Chánh án, Phó Chánh án xem xét, quyết định việc tiếp tục tạm giam hoặc hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của Luật này và Bộ luật Tố tụng hình sự.

Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn là cho đến khi Tòa án công bố quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

Điều 64. Quyết định mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

1. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày được phân công theo quy định tại khoản 2 Điều 63 của Luật này hoặc trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 63 của Luật này thì Thẩm phán phải ra quyết định mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, trừ trường hợp quy định tại Điều 65 của Luật này.

2. Quyết định mở phiên họp phải có các nội dung chính sau đây:

a) Ngày, tháng, năm ra quyết định, tên Tòa án ra quyết định;

b) Ngày, tháng, năm, địa điểm mở phiên họp trực tiếp hoặc trực tuyến;

c) Họ và tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, số định danh cá nhân, nơi cư trú của người chưa thành niên là bị can;

d) Họ và tên, nơi cư trú của người đại diện của người chưa thành niên là bị can;

đ) Tên cơ quan đề nghị;

e) Họ và tên Thẩm phán, Thư ký phiên họp;

g) Họ và tên Kiểm sát viên tham gia phiên họp;

h) Họ và tên, nơi làm việc (nếu có) của người bào chữa;

i) Họ và tên, nơi làm việc (nếu có) của người làm công tác xã hội;

k) Họ và tên người phiên dịch (nếu có);

l) Họ và tên những người khác được yêu cầu tham gia phiên họp (nếu có).

3. Thành phần phiên họp gồm:

a) Người tiến hành phiên họp: Thẩm phán, Thư ký phiên họp;

b) Người tham gia phiên họp: đại diện cơ quan đề nghị, Kiểm sát viên tham gia phiên họp;

c) Người khác tham gia phiên họp: người chưa thành niên là bị can, người đại diện, người bào chữa của họ; người làm công tác xã hội; bị hại (nếu có);

d) Trường hợp cần thiết, Tòa án yêu cầu người giám định, người phiên dịch, người dịch thuật, chuyên gia y tế, tâm lý, giáo dục, xã hội học, đại diện cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp nơi người chưa thành niên học tập, đại diện cơ quan, tổ chức nơi người chưa thành niên làm việc, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, các tổ chức thành viên của Mặt trận nơi người chưa thành niên cư trú và những người khác tham gia phiên họp.

4. Quyết định mở phiên họp phải được gửi cho những người quy định tại điểm c khoản 3 Điều này, Cơ quan đề nghị và Viện kiểm sát cùng cấp ngay sau khi ra quyết định. Phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng được tổ chức trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp.

Điều 65. Yêu cầu bổ sung tài liệu

1. Thẩm phán yêu cầu Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát bổ sung tài liệu trong trường hợp hồ sơ vụ án có tài liệu chưa rõ hoặc có mâu thuẫn cần bổ sung, làm rõ.

2. Văn bản yêu cầu phải nêu rõ tài liệu cần bổ sung và lý do của việc yêu cầu bổ sung.

3. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án, cơ quan được yêu cầu phải gửi tài liệu bổ sung cho Tòa án. Trường hợp không bổ sung được tài liệu thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

4. Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được tài liệu bổ sung hoặc kể từ ngày hết thời hạn quy định tại khoản 3 Điều này mà cơ quan được yêu cầu không bổ sung được tài liệu, Thẩm phán ra quyết định mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

Điều 66. Phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

1. Trước khi khai mạc phiên họp, Thư ký phiên họp phải kiểm tra sự có mặt của những người được Tòa án yêu cầu tham dự phiên họp; nếu có người vắng mặt thì phải làm rõ lý do và báo cáo Thẩm phán để xem xét tiếp tục tiến hành phiên họp hoặc hoãn phiên họp.

2. Thủ tục phiên họp được tiến hành như sau:

a) Thẩm phán khai mạc phiên họp;

b) Đại diện cơ quan đề nghị trình bày nội dung đề nghị;

c) Người chưa thành niên là bị can, người đại diện, người bào chữa của họ trình bày ý kiến;

d) Người làm công tác xã hội tham gia phiên họp trình bày báo cáo điều tra xã hội;

đ) Những người khác tham gia phiên họp trình bày ý kiến để làm rõ các vấn đề có liên quan;

e) Thẩm phán hỏi đại diện cơ quan đề nghị, người chưa thành niên là bị can, người đại diện của họ và những người khác tham gia phiên họp để làm rõ các vấn đề có liên quan;

g) Người chưa thành niên là bị can, người đại diện, người bào chữa của họ tranh luận các vấn đề có liên quan với đại diện cơ quan đề nghị. Việc tranh luận được tiến hành theo sự điều hành của Thẩm phán. Người tham gia tranh luận có quyền đối đáp lại ý kiến của người khác. Thẩm phán không được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho họ tranh luận, trình bày hết ý kiến; có quyền yêu cầu dừng những ý kiến không liên quan và ý kiến lặp lại;

h) Kiểm sát viên phát biểu ý kiến;

i) Thẩm phán quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và công bố nội dung quyết định ngay tại phiên họp.

3. Phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng phải được tổ chức thân thiện theo quy định tại khoản 3 Điều 60 của Luật này.

4. Tòa án xem xét hoãn phiên họp khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đại diện cơ quan đề nghị vắng mặt;

b) Người phiên dịch vắng mặt mà không có người khác thay thế ngay được;

c) Người chưa thành niên là bị can, người đại diện của họ vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng.

5. Thời hạn hoãn phiên họp là không quá 05 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn. Quyết định hoãn phiên họp phải được thông báo ngay cho những người có mặt tại phiên họp; gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người vắng mặt tại phiên họp trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định.

6. Thẩm phán quyết định tạm giam người chưa thành niên cho đến khi cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện bàn giao họ vào trường giáo dưỡng nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Người chưa thành niên đang bị tạm giam nhưng xét thấy cần tiếp tục tạm giam để bảo đảm thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;

b) Người chưa thành niên không bị tạm giam nhưng có căn cứ cho thấy họ có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội.

Điều 67. Biên bản phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

1. Biên bản phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm mở phiên họp; thành phần tham gia phiên họp; nội dung, diễn biến phiên họp; quyết định của Thẩm phán.

2. Sau khi kết thúc phiên họp, Thẩm phán phải kiểm tra biên bản, cùng với Thư ký phiên họp ký vào biên bản.

Điều 68. Giải quyết trường hợp Tòa án không áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

1. Trường hợp Tòa án không chấp nhận đề nghị của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát về áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng thì trả hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát để tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật này.

2. Trường hợp Tòa án tự mở phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng mà người chưa thành niên là bị can không được áp dụng biện pháp này thì Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật này.

Mục 4. KHIẾU NẠI, KIẾN NGHỊ QUYẾT ĐỊNH VỀ VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ CHUYỂN HƯỚNG

Điều 69. Người có quyền khiếu nại, kiến nghị quyết định về việc áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Khi có căn cứ cho rằng quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng trái pháp luật thì thẩm quyền kiến nghị được thực hiện như sau:

a) Cơ quan điều tra tham gia phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng có quyền kiến nghị quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Viện kiểm sát, Tòa án;

b) Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Tòa án, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 151 của Luật này.

2. Bị can là người chưa thành niên, bị hại, người đại diện của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Điều 70. Thời hạn khiếu nại, kiến nghị

Thời hạn khiếu nại, kiến nghị là 05 ngày kể từ ngày công bố hoặc nhận được quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

Trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà người có quyền khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hạn thì thời gian có lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan đó không tính vào thời hạn khiếu nại.

Điều 71. Thẩm quyền và thời hạn giải quyết khiếu nại, kiến nghị

1. Khiếu nại đối với quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra do Thủ trưởng Cơ quan điều tra xem xét, giải quyết trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại.

Khiếu nại đối với quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Thủ trưởng Cơ quan điều tra do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp xem xét, giải quyết trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại.

2. Khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát do Viện trưởng Viện kiểm sát xem xét, giải quyết trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị.

Khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Viện trưởng Viện kiểm sát do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị.

Khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, giải quyết trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị.

3. Khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Thẩm phán do Chánh án Tòa án xem xét, giải quyết trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị.

Khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Thẩm phán giữ chức vụ Chánh án do Chánh án Tòa án trên một cấp xem xét, giải quyết trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị.

Điều 72. Giải quyết khiếu nại, kiến nghị

1. Trong thời hạn quy định tại Điều 71 của Luật này, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, kiến nghị phải ra một trong các quyết định sau đây:

a) Chấp nhận khiếu nại, kiến nghị và hủy quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng để tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật này;

b) Chấp nhận khiếu nại, kiến nghị và hủy quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng hoặc quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền mở lại phiên họp xem xét quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị thì cơ quan, người có thẩm quyền phải mở lại phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

c) Không chấp nhận khiếu nại, kiến nghị và giữ nguyên quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng hoặc quyết định không áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

2. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết định, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, kiến nghị phải gửi quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị cho người đã khiếu nại, kiến nghị, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng; người chưa thành niên và người đại diện của họ, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng cư trú trong trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này.

3. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị có hiệu lực pháp luật và là quyết định cuối cùng.

4. Trường hợp hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra đề nghị truy tố đã chuyển cho Viện kiểm sát thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại quy định tại khoản 1 Điều 71 của Luật này ra quyết định đình chỉ việc giải quyết khiếu nại.

Trường hợp hồ sơ vụ án và bản cáo trạng đã chuyển cho Tòa án thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, kiến nghị quy định tại khoản 2 Điều 71 của Luật này ra quyết định đình chỉ việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị.

Chương V

THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ CHUYỂN HƯỚNG

Mục 1. THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ CHUYỂN HƯỚNG TẠI CỘNG ĐỒNG

Điều 73. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm trong việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng cư trú có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

b) Quyết định danh sách người giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại địa phương; phân công người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

c) Chỉ đạo tổ chức các chương trình dạy nghề, tìm việc làm, các chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống, các dịch vụ y tế, xã hội, hoạt động cộng đồng trên địa bàn để tạo điều kiện cho người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng tham gia;

d) Hỗ trợ cho người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng được hưởng đầy đủ quyền ưu tiên và các chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với người chưa thành niên theo quy định;

đ) Phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, gia đình và cơ quan, tổ chức nơi người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng học tập, làm việc giám sát, giáo dục người đó;

e) Chỉ đạo lập dự toán kinh phí cho việc thực hiện các biện pháp xử lý chuyển hướng, trình cấp có thẩm quyền quyết định;

g) Báo cáo cơ quan tiến hành tố tụng đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng về kết quả chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng;

h) Tổ chức tập huấn cho người giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng hoặc cử họ tham gia các chương trình tập huấn;

i) Nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

2. Công an xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Công an cấp xã) làm đầu mối, tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại khoản 1 Điều này và có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Lập và quản lý hồ sơ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

b) Đề xuất Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định danh sách người giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại địa phương theo thứ tự ưu tiên sau đây: người làm công tác xã hội; cộng tác viên công tác xã hội cấp xã; đại diện Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc người có uy tín trong cộng đồng dân cư có đạo đức tốt, có điều kiện, khả năng và kinh nghiệm trong việc giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên;

c) Đề xuất Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định phân công người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

d) Phối hợp với người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, gia đình và các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng;

đ) Hướng dẫn, giúp đỡ người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng thực hiện các thủ tục đăng ký thường trú, tạm trú, lưu trú, khai báo tạm vắng, cấp mới, cấp đổi hoặc cấp lại thẻ căn cước; theo dõi việc vắng mặt tại nơi cư trú, chuyển nơi cư trú của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng;

e) Tiếp nhận người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng từ nơi khác chuyển đến lưu trú hoặc tạm trú trong thời gian vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú và nhận xét, đánh giá việc chấp hành pháp luật trong thời gian người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng lưu trú, tạm trú tại địa phương;

g) Định kỳ hoặc khi có yêu cầu, tổng hợp số liệu, đánh giá tình hình, kết quả thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng trong phạm vi thẩm quyền, báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan có thẩm quyền;

h) Nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Phối hợp với cơ quan, người có thẩm quyền, gia đình trong việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

b) Triển khai biện pháp xử lý chuyển hướng đã được áp dụng hoặc cung cấp các dịch vụ cần thiết để hỗ trợ người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng;

c) Giúp đỡ và tạo điều kiện cho người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng thực hiện và hoàn thành nghĩa vụ;

d) Đánh giá tình hình chấp hành, hiệu quả của các biện pháp xử lý chuyển hướng mà mình triển khai đối với người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng và đề xuất giải pháp (nếu có) gửi người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

4. Việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng bồi thường thiệt hại của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát được quy định như sau:

a) Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện thi hành quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cùng cấp;

b) Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh thi hành quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Cơ quan điều tra Bộ Công an, Cơ quan điều tra Bộ Quốc phòng hoặc Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

c) Thủ tục thi hành quyết định quy định tại khoản này được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

5. Cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng có trách nhiệm theo dõi việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

6. Chính phủ quy định chi tiết các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này.

Điều 74. Tính thời hạn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Thời hạn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 và 11 Điều 36 của Luật này được tính từ ngày người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng có mặt tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã để nghe thông báo về việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

2. Thời hạn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng quy định tại khoản 9 và khoản 10 Điều 36 của Luật này được tính từ ngày cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp hoặc cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc tổ chức có chức năng điều trị hoặc tư vấn tâm lý tiếp nhận họ.

Điều 75. Lựa chọn, thay thế người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Ngay sau khi nhận được quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chuyển quyết định này cho Công an cấp xã để thực hiện nhiệm vụ theo thẩm quyền.

2. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, Công an cấp xã, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, năng lực, khối lượng công việc của các cá nhân thuộc danh sách quy định tại điểm b khoản 1 Điều 73 của Luật này, đề xuất người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng theo thứ tự ưu tiên sau đây:

a) Người làm công tác xã hội;

b) Cộng tác viên công tác xã hội cấp xã;

c) Đại diện Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc người có uy tín trong cộng đồng dân cư có đạo đức tốt, có điều kiện, khả năng và kinh nghiệm trong việc giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên.

3. Ngay sau khi nhận được đề xuất của Công an cấp xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định phân công người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng. Một người có thể được phân công trực tiếp giám sát nhiều người nhưng không quá 03 người trong cùng một thời điểm.

Quyết định này phải được gửi ngay cho Công an cấp xã, người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng và người đại diện của họ.

4. Trong quá trình giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, nếu người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng không có điều kiện để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ hoặc không hoàn thành nhiệm vụ được phân công thì Công an cấp xã phải kịp thời đề xuất người khác thay thế, báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, quyết định.

5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 76. Thông báo về việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ ngày phân công người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã triệu tập người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng; mời người đại diện của người đó, người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, Công an cấp xã và đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để thông báo về việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

2. Việc thông báo gồm các nội dung sau đây:

a) Quyền và nghĩa vụ của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng;

b) Người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và trách nhiệm của họ;

c) Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và gia đình trong việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

3. Thông báo về việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải được lập thành biên bản và lưu vào hồ sơ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

Điều 77. Cam kết của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng

1. Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng phải làm bản cam kết về việc chấp hành các nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này và gửi cho người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

2. Cam kết của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng phải có ý kiến của cha, mẹ hoặc người giám hộ của họ.

Điều 78. Trách nhiệm của gia đình trong việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Động viên, khuyến khích người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng chấp hành pháp luật, thực hiện nghĩa vụ.

2. Có biện pháp cụ thể quản lý, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng trong sinh hoạt, học tập, làm việc; khuyến khích, tạo điều kiện cho họ tham gia các phong trào, hoạt động đoàn thể, hoạt động cộng đồng, các chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống (nếu có) tại nơi cư trú.

3. Phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã, người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, các tổ chức, đoàn thể ở địa phương để quản lý, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng.

4. Thông báo kết quả thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng cho người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và Ủy ban nhân dân cấp xã khi có yêu cầu.

5. Phối hợp với cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, tổ chức nơi người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng đang học tập, học nghề, làm việc để quản lý, động viên, giúp đỡ họ.

6. Cha, mẹ hoặc người giám hộ của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng thực hiện bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

7. Phải có mặt khi người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm nghĩa vụ của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 82 của Luật này.

Điều 79. Trách nhiệm và quyền của người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng có trách nhiệm sau đây:

a) Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

b) Yêu cầu người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng viết cam kết theo quy định tại Điều 77 của Luật này;

c) Hướng dẫn người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ;

d) Liên hệ với các cơ quan, tổ chức liên quan để tạo điều kiện cho người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng tham gia các chương trình học văn hóa, học nghề, lao động phù hợp, ổn định cuộc sống;

đ) Liên hệ, giới thiệu người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng tham gia các lớp kỹ năng sống, các hoạt động văn hóa, xã hội, thể thao sẵn có tại địa phương;

e) Phối hợp với cơ quan, tổ chức và gia đình trong việc giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

g) Phối hợp với Công an cấp xã và người có liên quan trong việc tham mưu cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

h) Theo dõi, giám sát, đôn đốc việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

i) Định kỳ hằng tháng nhận xét, đánh giá tình hình, kết quả thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

k) Báo cáo kịp thời cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã về những biểu hiện, hành vi vi phạm pháp luật của người chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng để có biện pháp ngăn ngừa, quản lý, giáo dục phù hợp;

l) Báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã về việc người chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng vi phạm nghĩa vụ và phối hợp với Công an cấp xã lập biên bản vi phạm;

m) Báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã xem xét, lập hồ sơ đề nghị gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ, thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng, chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng; nếu xét thấy biện pháp xử lý chuyển hướng không phù hợp hoặc việc thực hiện gặp khó khăn thì đề xuất hướng giải quyết hoặc điều chỉnh kế hoạch, báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã quyết định;

n) Báo cáo kết quả việc thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã;

o) Trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.

2. Người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng có quyền tham gia các lớp bồi dưỡng kỹ năng, kiến thức, kinh nghiệm giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 80. Xây dựng kế hoạch thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định phân công, người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng xây dựng dự thảo kế hoạch thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng để Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phê duyệt.

2. Kế hoạch thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải có các nội dung chính sau đây:

a) Biện pháp xử lý chuyển hướng được áp dụng;

b) Dịch vụ hỗ trợ cần thực hiện để khắc phục các yếu tố nguy cơ, nguyên nhân và điều kiện vi phạm pháp luật của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng;

c) Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng; cơ sở cung cấp dịch vụ hỗ trợ cần thiết; cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm phối hợp;

d) Thời điểm bắt đầu, thời điểm kết thúc chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, dịch vụ hỗ trợ;

đ) Các hoạt động khác để thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được dự thảo kế hoạch thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phê duyệt kế hoạch.

Kế hoạch phải được gửi cho người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, người đại diện của họ, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan và gửi Công an cấp xã để lưu vào hồ sơ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 81. Giải quyết trường hợp người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú

1. Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng có thể vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính đáng, phải có đơn xin phép và được sự đồng ý của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã; phải thực hiện khai báo tạm vắng theo quy định của pháp luật về cư trú. Trường hợp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã không đồng ý thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Thời gian vắng mặt tại nơi cư trú mỗi lần không quá 10 ngày và tổng số thời gian vắng mặt tại nơi cư trú không được vượt quá một phần ba thời hạn thực hiện nghĩa vụ, trừ trường hợp bị bệnh phải điều trị tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo chỉ định của bác sỹ và phải có xác nhận điều trị của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đó.

2. Trường hợp người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng vì lý do chính đáng mà phải thay đổi nơi cư trú thì phải làm đơn và được sự đồng ý của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã được giao thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, Ủy ban nhân dân cấp xã phối hợp với các đơn vị có liên quan, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi chuyển đến kiểm tra, xác minh và quyết định việc thay đổi nơi cư trú của người đó. Trường hợp chấp nhận cho thay đổi nơi cư trú thì Ủy ban nhân dân cấp xã được giao thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải có văn bản thông báo cho người có đơn đề nghị và văn bản chuyển hồ sơ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi chuyển đến để tiếp tục tổ chức thi hành theo quy định của Luật này; trường hợp không chấp nhận thì thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng đến nơi cư trú mới phải trình báo ngay với Công an cấp xã nơi mình đến cư trú.

3. Văn bản chuyển hồ sơ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng quy định tại khoản 2 Điều này phải đồng thời gửi cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

Điều 82. Giải quyết trường hợp người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng vi phạm nghĩa vụ

1. Trường hợp người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng vi phạm nghĩa vụ quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này thì người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phối hợp với Công an cấp xã lập biên bản vi phạm.

Việc lập biên bản phải có sự tham gia của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng và người đại diện của họ. Biên bản phải gửi ngay cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để đề nghị gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ hoặc thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng.

2. Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng mà cố ý vi phạm nghĩa vụ 01 lần trong thời gian thực hiện nghĩa vụ thì có thể bị gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ, trừ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại quy định tại khoản 3 Điều 42 của Luật này.

3. Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng mà cố ý vi phạm nghĩa vụ 01 lần trong thời gian gia hạn thực hiện nghĩa vụ hoặc cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên trong thời gian thực hiện nghĩa vụ thì có thể bị thay đổi từ biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 83. Gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ

Việc gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ được thực hiện 01 lần như sau:

1. Thời hạn gia hạn đối với người chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm vi phạm không quá một phần hai của thời hạn thực hiện nghĩa vụ đã áp dụng;

2. Thời hạn gia hạn đối với người từ đủ 18 tuổi tại thời điểm vi phạm bằng thời hạn thực hiện nghĩa vụ đã áp dụng.

Điều 84. Thủ tục gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ

1. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được biên bản vi phạm nghĩa vụ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phải lập hồ sơ đề nghị gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ và gửi cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

2. Hồ sơ đề nghị gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ bao gồm:

a) Văn bản đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã;

b) Báo cáo của người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

c) Biên bản vi phạm nghĩa vụ;

d) Tài liệu khác có liên quan.

3. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải xem xét, quyết định gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ; đối với vụ việc phức tạp, thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 05 ngày làm việc. Trường hợp không gia hạn thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

4. Quyết định gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định. Quyết định này không bị khiếu nại, kiến nghị và phải gửi ngay cho người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, người đại diện của họ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đã đề nghị.

Điều 85. Thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Các trường hợp thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng gồm:

a) Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng có thể được thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng khác tại cộng đồng nếu xét thấy biện pháp đang áp dụng không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh khách quan;

b) Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật này.

2. Việc thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại điểm a khoản 1 Điều này được thực hiện 01 lần.

Điều 86. Thủ tục thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp xử lý chuyển hướng khác tại cộng đồng

1. Ngay sau khi có căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 85 của Luật này thì người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã lập hồ sơ đề nghị thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp xử lý chuyển hướng khác tại cộng đồng và gửi cho cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

2. Hồ sơ đề nghị thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng bao gồm:

a) Văn bản đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã;

b) Báo cáo của người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

c) Tài liệu khác có liên quan.

3. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát hoặc Thẩm phán Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải xem xét, quyết định thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng. Trường hợp không thay đổi thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

4. Khi quyết định thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng, cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng xem xét, quyết định thời hạn thực hiện biện pháp xử lý chuyển hướng, thời hạn thực hiện nghĩa vụ phù hợp.

5. Quyết định thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định và thay thế quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng trước đó. Quyết định này không bị khiếu nại, kiến nghị và phải gửi ngay cho người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, người đại diện của họ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đã đề nghị.

Điều 87. Thủ tục thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

1. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được biên bản vi phạm nghĩa vụ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã phải lập hồ sơ đề nghị xem xét, thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và gửi Tòa án nhân dân cấp huyện nơi người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng cư trú.

2. Hồ sơ đề nghị thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng bao gồm:

a) Văn bản đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã;

b) Báo cáo của người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

c) Biên bản về việc vi phạm nghĩa vụ;

d) Bản sao hồ sơ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

đ) Tài liệu khác có liên quan.

3. Ngay sau khi nhận được hồ sơ đề nghị, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm phán giải quyết. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, Thẩm phán xem xét, giải quyết như sau:

a) Trường hợp hồ sơ đề nghị đã đầy đủ thì ra quyết định mở phiên họp;

b) Trường hợp hồ sơ đề nghị chưa rõ ràng, đầy đủ thì yêu cầu người đề nghị bổ sung tài liệu. Người đề nghị bổ sung tài liệu trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu. Trường hợp không bổ sung được tài liệu thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được tài liệu bổ sung hoặc kể từ ngày hết thời hạn quy định tại khoản này mà người đề nghị không bổ sung được tài liệu, Thẩm phán ra quyết định mở phiên họp xem xét, thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

4. Quyết định mở phiên họp phải có các nội dung chính sau đây: ngày, tháng, năm ra quyết định; tên Tòa án ra quyết định; họ và tên, chức vụ, tên cơ quan của người đề nghị; họ và tên Thẩm phán, Thư ký phiên họp; ngày, tháng, năm, địa điểm mở phiên họp trực tiếp hoặc trực tuyến; họ và tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, số định danh cá nhân, nơi cư trú của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng; tên cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng; biện pháp xử lý chuyển hướng đã được áp dụng.

Quyết định này phải gửi cho những người quy định tại điểm c khoản 5 Điều này, người đề nghị và Viện kiểm sát cùng cấp ngay sau khi ra quyết định.

5. Thành phần phiên họp gồm:

a) Người tiến hành phiên họp: Thẩm phán, Thư ký phiên họp;

b) Người tham gia phiên họp: người đề nghị hoặc người được ủy quyền, Kiểm sát viên tham gia phiên họp;

c) Người khác tham gia phiên họp: người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng; người đại diện của họ; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ (nếu có); người trực tiếp giám sát thi hành biện pháp xử lý chuyển hướng;

d) Trường hợp cần thiết, Tòa án yêu cầu người phiên dịch, người dịch thuật, chuyên gia y tế, tâm lý, giáo dục, xã hội học, đại diện cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đại diện cơ quan, tổ chức, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã, các tổ chức thành viên của Mặt trận nơi người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng học tập, làm việc, cư trú và những người khác tham gia phiên họp.

6. Phiên họp xem xét, thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng được tổ chức trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp.

7. Thủ tục phiên họp được tiến hành như sau:

a) Trước khi khai mạc phiên họp, Thư ký phiên họp phải kiểm tra sự có mặt của những người được Tòa án yêu cầu tham dự phiên họp; nếu có người vắng mặt thì phải làm rõ lý do và báo cáo Thẩm phán để xem xét tiếp tục tiến hành phiên họp hoặc hoãn phiên họp;

b) Thẩm phán khai mạc phiên họp;

c) Người đề nghị hoặc người được ủy quyền trình bày đề nghị thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;

d) Những người khác tham gia phiên họp trình bày ý kiến để làm rõ những vấn đề có liên quan;

đ) Thẩm phán hỏi người đề nghị hoặc người được ủy quyền và những người khác tham gia phiên họp để làm rõ những vấn đề có liên quan;

e) Kiểm sát viên phát biểu ý kiến;

g) Thẩm phán quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận đề nghị thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và công bố nội dung quyết định tại phiên họp.

8. Mọi diễn biến tại phiên họp được ghi vào biên bản và lưu hồ sơ. Biên bản phiên họp phải có chữ ký của Thẩm phán và Thư ký phiên họp.

9. Tòa án xem xét hoãn phiên họp khi người đề nghị hoặc người được ủy quyền vắng mặt. Thời hạn hoãn phiên họp là không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định hoãn. Quyết định hoãn phiên họp phải được thông báo ngay cho những người có mặt tại phiên họp; gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người vắng mặt tại phiên họp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định.

10. Quyết định về việc thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng phải có các nội dung chính sau đây:

a) Số, ngày, tháng, năm ra quyết định;

b) Tên Tòa án ra quyết định;

c) Họ và tên của Thẩm phán ra quyết định;

d) Họ và tên, ngày, tháng, năm sinh, giới tính, số định danh cá nhân, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa của người chưa thành niên;

đ) Lý do, căn cứ ra quyết định;

e) Quyết định thay đổi hoặc không thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng. Trường hợp quyết định thay đổi thì phải có nội dung đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng đã được áp dụng;

g) Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành quyết định;

h) Hiệu lực của quyết định;

i) Nơi nhận quyết định.

11. Quyết định về việc thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng có hiệu lực thi hành kể từ ngày công bố.

12. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày công bố, Tòa án phải giao quyết định cho người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, người đại diện của họ và gửi cho người đề nghị, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng; gửi cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng cư trú đối với trường hợp ra quyết định thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

13. Trường hợp không chấp nhận đề nghị thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng thì người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng tiếp tục thi hành biện pháp xử lý chuyển hướng đã được áp dụng.

Điều 88. Khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định về việc thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

1. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định thay đổi, quyết định không thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng thì người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, người đại diện của họ có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị quyết định này.

2. Khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định thay đổi, quyết định không thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng của Thẩm phán do Chánh án Tòa án xem xét, giải quyết trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị.

Khiếu nại, kiến nghị đối với quyết định thay đổi, quyết định không thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng của Thẩm phán giữ chức vụ Chánh án do Chánh án Tòa án trên một cấp xem xét, giải quyết trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị.

3. Trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, Chánh án Tòa án có thẩm quyền phải ra một trong các quyết định sau đây:

a) Chấp nhận khiếu nại, kiến nghị và hủy quyết định thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng để tiếp tục thi hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng;

b) Chấp nhận khiếu nại, kiến nghị và hủy quyết định không thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và ra quyết định thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;

c) Không chấp nhận khiếu nại, kiến nghị và giữ nguyên quyết định thay đổi, quyết định không thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

4. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, kiến nghị phải gửi quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị cho người đã khiếu nại, kiến nghị; người đã đề nghị thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng; cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chưa thành niên cư trú đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 Điều này.

5. Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị có hiệu lực pháp luật và là quyết định cuối cùng.

Điều 89. Trường hợp chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 36 của Luật này, đã chấp hành được ít nhất một phần hai thời hạn áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng và có nhiều tiến bộ thì có thể được chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng này.

2. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 90. Thủ tục chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng thuộc trường hợp quy định tại Điều 89 của Luật này thì người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã lập hồ sơ đề nghị chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng và gửi cho cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

2. Hồ sơ đề nghị chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng bao gồm:

a) Đơn đề nghị của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng;

b) Văn bản đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã;

c) Báo cáo của người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng;

d) Tài liệu khác có liên quan.

3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng, cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải xem xét, quyết định chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng. Trường hợp không chấp nhận thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

4. Quyết định chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định và không bị khiếu nại, kiến nghị.

5. Quyết định chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng phải gửi ngay cho người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, người đại diện của họ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đã đề nghị.

Điều 91. Chứng nhận chấp hành xong biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng

1. Trong thời hạn 05 ngày làm việc trước khi hết thời hạn thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng hoặc ngay sau khi nhận được quyết định chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng, người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng xây dựng báo cáo tổng hợp kết quả thi hành xong biện pháp xử lý chuyển hướng gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã.

2. Vào ngày cuối cùng của thời hạn chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp giấy chứng nhận chấp hành xong biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng cho người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng.

3. Giấy chứng nhận chấp hành xong biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng được gửi cho người đại diện của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

Cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng lưu giấy chứng nhận chấp hành xong biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng trong hồ sơ vụ án theo quy định của pháp luật về lưu trữ.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 92. Đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng

1. Các trường hợp đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng gồm:

a) Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác mà bị bắt tạm giam hoặc phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù;

b) Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng chết;

c) Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng bị mắc bệnh tâm thần, bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi;

d) Người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng bị thay đổi sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

2. Việc đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng không làm chấm dứt nghĩa vụ bồi thường thiệt hại (nếu có).

3. Khi người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a, b và c khoản 1 Điều này, người trực tiếp giám sát thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để thông báo cho cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

4. Ngay sau khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng ra quyết định đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng.

5. Quyết định đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng phải gửi ngay cho người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, người đại diện của người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi họ cư trú.

Mục 2. THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP GIÁO DỤC TẠI TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG

Điều 93. Điều kiện cơ sở vật chất của trường giáo dưỡng

1. Trường giáo dưỡng phải bảo đảm có các khu vực nhà ở, bệnh xá, học văn hóa, học nghề, vui chơi, sinh hoạt chung, luyện tập thể dục, thể thao, thư viện, các cơ sở vật chất cần thiết khác và được bố trí, thiết kế phù hợp với người chưa thành niên.

2. Phòng ở phải bảo đảm thoáng mát về mùa hè, kín gió về mùa đông, hợp vệ sinh môi trường. Diện tích chỗ nằm tối thiểu cho mỗi học sinh trường giáo dưỡng là 2,5 m2.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 94. Thủ tục thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

1. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người chưa thành niên cư trú phải báo cáo cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an để ra quyết định đưa người chưa thành niên vào trường giáo dưỡng.

2. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an ra quyết định đưa người chưa thành niên vào trường giáo dưỡng và gửi cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện.

3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định của cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải lập hồ sơ và bàn giao người chưa thành niên vào trường giáo dưỡng. Hồ sơ bao gồm:

a) Bản sao quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;

b) Quyết định đưa người chưa thành niên vào trường giáo dưỡng;

c) Sơ yếu lý lịch có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã;

d) Danh bản;

đ) Bản sao báo cáo điều tra xã hội (nếu có);

e) Tài liệu khác có liên quan (nếu có).

4. Khi tiếp nhận học sinh, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải kiểm tra hồ sơ và lập biên bản giao nhận, tổ chức khám sức khỏe cho học sinh. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận học sinh, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải thông báo việc đã tiếp nhận học sinh cho người đại diện của người đó.

5. Sau khi tiếp nhận học sinh, trường giáo dưỡng phải lập hồ sơ học sinh. Hồ sơ bao gồm:

a) Các tài liệu quy định tại khoản 3 Điều này;

b) Biên bản giao nhận học sinh;

c) Tài liệu phản ánh kết quả chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;

d) Tài liệu khác có liên quan trong quá trình học sinh chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

Điều 95. Hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

1. Người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng có thể được hoãn chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Bị bệnh nặng, đang cấp cứu hoặc vì lý do sức khỏe khác mà không thể đi lại được và được bệnh viện xác nhận;

b) Có lý do chính đáng khác được Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người đó cư trú xác nhận.

2. Đối với trường hợp hoãn chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng cư trú lập hồ sơ đề nghị Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng xem xét, quyết định. Hồ sơ bao gồm:

a) Đơn đề nghị của người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc người đại diện của họ;

b) Kết luận của bệnh viện về tình trạng bệnh của người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này hoặc xác nhận của Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này;

c) Giấy bảo lãnh của người đại diện của người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

3. Trường hợp học sinh trường giáo dưỡng bị bệnh nặng thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng lập hồ sơ và có văn bản đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có trường giáo dưỡng xem xét, quyết định tạm đình chỉ.

Hồ sơ đề nghị tạm đình chỉ thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều này.

4. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, Chánh án Tòa án có thẩm quyền phải xem xét, quyết định.

5. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định về việc hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, Tòa án đã ra quyết định phải gửi quyết định đó cho cơ quan, tổ chức, cá nhân sau đây:

a) Người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người đại diện của họ;

b) Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng cư trú;

c) Viện kiểm sát cùng cấp;

d) Trường giáo dưỡng, Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng trong trường hợp tạm đình chỉ.

6. Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng cư trú có trách nhiệm quản lý họ trong thời gian được hoãn hoặc tạm đình chỉ.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng cư trú phải yêu cầu người đó cam kết bằng văn bản về việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và trình diện khi có yêu cầu, trừ trường hợp người đó bị bệnh nặng, đang cấp cứu hoặc vì lý do sức khỏe khác mà không thể đi lại được.

Trường hợp người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng bỏ trốn thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người đó cư trú ra quyết định truy tìm và tổ chức truy tìm, đưa người đó vào trường giáo dưỡng và thông báo cho Tòa án đã ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ để ra quyết định hủy quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ.

7. Trường hợp người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng vì lý do bị bệnh nặng, nếu xét thấy có dấu hiệu phục hồi sức khỏe mà vẫn lấy lý do về sức khỏe để trốn tránh việc chấp hành hoặc người đó có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần, bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người đó cư trú có trách nhiệm trưng cầu giám định y khoa hoặc trưng cầu giám định pháp y tâm thần. Chi phí giám định do cơ quan trưng cầu giám định chi trả.

8. Khi không còn lý do hoãn hoặc tạm đình chỉ, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng cư trú phải thông báo cho Tòa án đã ra quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ để ra quyết định hủy quyết định hoãn hoặc tạm đình chỉ và đưa người đó vào trường giáo dưỡng.

9. Trường hợp người được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng chết thì gia đình người đó phải thông báo ngay cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú. Ngay sau khi nhận được thông báo, Ủy ban nhân dân cấp xã phải báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện.

Điều 96. Đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

1. Các trường hợp đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng gồm:

a) Người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, học sinh trường giáo dưỡng bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác mà bị bắt tạm giam hoặc phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù;

b) Người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, học sinh trường giáo dưỡng chết;

c) Người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, học sinh trường giáo dưỡng bị mắc bệnh tâm thần, bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi;

d) Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, quyết định thay đổi biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng sang biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng bị hủy.

2. Việc đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng không làm chấm dứt nghĩa vụ bồi thường thiệt hại (nếu có).

3. Khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng cư trú, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng thông báo cho Tòa án có thẩm quyền quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 95 của Luật này để ra quyết định đình chỉ thi hành.

4. Ngay sau khi nhận được thông báo, Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

5. Quyết định đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng phải gửi ngay cho người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, học sinh trường giáo dưỡng quy định tại điểm a và điểm d khoản 1 Điều này, người đại diện của họ, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, trường giáo dưỡng, Viện kiểm sát cùng cấp và Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

Điều 97. Giải quyết trường hợp người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, học sinh trường giáo dưỡng bỏ trốn

1. Trường hợp người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, học sinh trường giáo dưỡng bỏ trốn thì giải quyết như sau:

a) Trường hợp người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng bỏ trốn thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người đó cư trú phải ra quyết định truy tìm và tổ chức truy tìm;

b) Trường hợp học sinh trường giáo dưỡng bỏ trốn thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải ra quyết định truy tìm và tổ chức truy tìm.

2. Ủy ban nhân dân và cơ quan công an các cấp có trách nhiệm phối hợp trong việc truy tìm, bắt giữ người bỏ trốn.

3. Khi phát hiện người bỏ trốn đang bị truy tìm thì giải quyết như sau:

a) Người phát hiện có trách nhiệm báo cho cơ quan công an hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất hoặc bắt giữ và đưa đến các cơ quan này để đưa đến cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi gần nhất. Khi tiếp nhận, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải lập biên bản tiếp nhận, ghi lời khai và quản lý người bỏ trốn, đồng thời thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy tìm biết và cử người đến nhận. Trường hợp phải lưu giữ người bỏ trốn, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện ra quyết định lưu giữ trong buồng lưu giữ của Công an cấp huyện. Thời hạn lưu giữ là không quá 03 ngày kể từ ngày lưu giữ và được tính vào thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

Việc lấy lời khai phải bảo đảm nhanh chóng, kịp thời, có thể có sự tham gia của người đại diện của họ hoặc người làm công tác xã hội;

b) Ngay sau khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy tìm phải cử người đến nhận người bỏ trốn, đưa ngay họ vào trường giáo dưỡng và báo cáo với cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an;

c) Việc giao, nhận người bỏ trốn phải lập biên bản.

4. Thời gian học sinh bỏ trốn không được tính vào thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng. Người bỏ trốn phải chấp hành phần thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng còn lại.

5. Chính phủ quy định chi tiết khoản 4 Điều này.

Điều 98. Chế độ quản lý học sinh

1. Học sinh phải chịu sự giám sát, quản lý của cán bộ, giáo viên trường giáo dưỡng và chấp hành nghiêm chỉnh nội quy của nhà trường. Cán bộ, giáo viên trường giáo dưỡng phải là người am hiểu tâm sinh lý hoặc có kinh nghiệm giải quyết các vấn đề liên quan đến người chưa thành niên.

2. Căn cứ vào độ tuổi, giới tính, sức khỏe, trình độ học vấn, tính chất và mức độ vi phạm, trường giáo dưỡng bố trí học sinh thành các đội, lớp, tổ, nhóm và phân công giáo viên trực tiếp phụ trách.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 99. Thực hiện lệnh trích xuất học sinh

1. Khi có văn bản yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc trích xuất học sinh thì cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an ra lệnh trích xuất.

2. Trường hợp cần trích xuất học sinh phục vụ yêu cầu giáo dục hoặc khám bệnh, chữa bệnh thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng ra lệnh trích xuất.

3. Lệnh trích xuất học sinh phải có các nội dung chính sau đây:

a) Cơ quan, họ và tên, chức vụ, cấp bậc của người ra lệnh;

b) Họ và tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của học sinh;

c) Mục đích và thời hạn trích xuất;

d) Cơ quan, tổ chức, người nhận học sinh được trích xuất (nếu có);

đ) Ngày, tháng, năm ra lệnh; chữ ký của người ra lệnh và đóng dấu.

4. Cơ quan có thẩm quyền chịu trách nhiệm đưa và trả học sinh được trích xuất đến trường giáo dưỡng đúng thời gian đã ghi trong lệnh trích xuất; khi giao, nhận phải lập biên bản. Chi phí cho việc đi lại, ăn, ở của học sinh được trích xuất do ngân sách nhà nước bảo đảm, trừ trường hợp học sinh được đưa về gia đình chữa bệnh theo quy định của pháp luật.

5. Thời gian trích xuất được tính vào thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

6. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 100. Chế độ học văn hóa, giáo dục hướng nghiệp, học nghề và lao động của học sinh

1. Học sinh ở trường giáo dưỡng được học văn hóa, giáo dục hướng nghiệp, học nghề theo quy định của Chính phủ.

Trường giáo dưỡng có trách nhiệm bố trí giáo viên và tổ chức dạy học văn hóa cho học sinh. Trường hợp không thể bố trí giáo viên dạy học văn hóa theo quy định thì trường giáo dưỡng phối hợp với cơ sở giáo dục khác để tổ chức, liên kết lớp học trực tuyến cho học sinh. Việc mở lớp học trực tuyến phải bảo đảm an toàn, tránh kỳ thị, ảnh hưởng tới tất cả các học sinh.

2. Trường giáo dưỡng phối hợp với cơ sở giáo dục nghề nghiệp đào tạo nghề cho học sinh.

3. Ngoài giờ học tập, học sinh từ đủ 15 tuổi phải tham gia lao động theo kế hoạch do trường giáo dưỡng tổ chức. Trường giáo dưỡng có trách nhiệm sắp xếp công việc phù hợp với lứa tuổi và sức khỏe của học sinh để bảo đảm sự phát triển bình thường về thể chất; không bố trí những công việc nặng nhọc, nguy hiểm, độc hại; bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động.

Thời gian lao động của học sinh không được nhiều hơn thời gian học tập. Thời gian học tập và lao động không quá 07 giờ trong 01 ngày và không quá 35 giờ trong 01 tuần.

Kết quả lao động của học sinh được sử dụng phục vụ sinh hoạt, học tập và bổ sung vào chế độ ăn, quỹ hòa nhập cộng đồng, quỹ khen thưởng của học sinh.

4. Học sinh được nghỉ ngày thứ bảy, chủ nhật, ngày lễ, tết theo quy định của pháp luật.

5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 101. Chế độ sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, vui chơi giải trí của học sinh

1. Ngoài giờ học văn hóa, học nghề, lao động, học sinh được tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, đọc sách báo, xem truyền hình và các hoạt động vui chơi giải trí khác do trường giáo dưỡng tổ chức.

2. Ngoài thời gian tham gia các hoạt động giáo dục, học tập, lao động, sinh hoạt chung, học sinh theo tôn giáo được sử dụng kinh sách xuất bản dưới hình thức sách in, phát hành hợp pháp và được bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

3. Khuyến khích học sinh phát huy năng lực, sở trường về âm nhạc, hội họa, văn học, nghệ thuật, thể dục, thể thao.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 102. Kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh và tổ chức thi

1. Trường giáo dưỡng có trách nhiệm tổ chức kiểm tra, đánh giá, xếp loại học sinh và tổ chức thi học kỳ, kết thúc năm học, chuyển cấp, thi tuyển chọn học sinh giỏi hoặc hình thức thi khác.

2. Sổ điểm, học bạ, hồ sơ và các biểu mẫu liên quan đến việc học tập của học sinh phải theo mẫu thống nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

3. Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo nơi có trường giáo dưỡng cấp chứng chỉ học văn hóa cho học sinh; cơ sở giáo dục nghề nghiệp cấp chứng chỉ học nghề cho học sinh.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 103. Chế độ ăn, mặc của học sinh

1. Học sinh được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng về gạo, rau xanh, thịt, cá, trứng, đường, nước mắm, dầu ăn, bột ngọt, muối, chất đốt và một số nhu yếu phẩm cần thiết khác.

Ngày lễ, tết theo quy định của pháp luật, học sinh được ăn thêm nhưng mức ăn không quá 05 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường.

Học sinh được bảo đảm ăn, uống hợp vệ sinh. Chế độ ăn đối với học sinh ốm đau, bệnh tật, thương tích do y sỹ hoặc bác sỹ chỉ định.

2. Hằng năm, học sinh được cấp quần áo và các đồ dùng sinh hoạt khác; học sinh nữ được cấp thêm đồ dùng cần thiết cho vệ sinh cá nhân. Học sinh tham gia lao động và học nghề được cấp thêm quần áo, đồ bảo hộ lao động, học nghề.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 104. Chế độ ở và đồ dùng sinh hoạt của học sinh

1. Căn cứ vào giới tính, độ tuổi, đặc điểm nhân thân, tính chất, mức độ phạm tội của học sinh, trường giáo dưỡng sắp xếp chỗ ở, sinh hoạt phù hợp trong các phòng tập thể.

2. Học sinh được bố trí giường nằm có chiếu trải, màn, gối, chăn đắp và được phép sử dụng đồ dùng sinh hoạt cá nhân của mình, trừ những đồ vật bị cấm sử dụng trong trường giáo dưỡng. Đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt của học sinh được trường cho mượn hoặc cấp.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 105. Chế độ chăm sóc y tế đối với học sinh

1. Học sinh được khám sức khỏe định kỳ; trường hợp học sinh bị ốm đau, bệnh tật, thương tích được điều trị tại bệnh xá của trường giáo dưỡng; trường hợp ốm đau, bệnh tật, thương tích nặng vượt quá khả năng điều trị của trường thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng quyết định đưa học sinh đến điều trị tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước. Chi phí khám bệnh, chữa bệnh do trường giáo dưỡng chi trả.

Trường hợp có cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đủ khả năng điều trị mà tự nguyện khám bệnh, chữa bệnh miễn phí cho học sinh thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng quyết định.

2. Chi phí khám bệnh, chữa bệnh quy định tại khoản 1 Điều này do ngân sách nhà nước cấp. Kinh phí tổ chức cai nghiện ma túy, điều trị HIV/AIDS cho học sinh theo quy định của pháp luật. Trường hợp học sinh được nghỉ học để đưa về gia đình chữa bệnh thì gia đình học sinh phải chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 106. Thủ tục giải quyết trường hợp học sinh chết

1. Trường hợp học sinh chết, Hiệu trưởng phải báo ngay cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện nơi có trường giáo dưỡng để xác định nguyên nhân chết; đồng thời phải báo ngay cho thân nhân của người chết biết.

2. Sau khi Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cho phép mai táng, trường giáo dưỡng có trách nhiệm tổ chức mai táng, báo cáo cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an và thông báo cho Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng. Kinh phí cho việc mai táng do ngân sách nhà nước cấp. Trường hợp thân nhân của người chết có đơn đề nghị nhận tử thi, tro cốt hoặc hài cốt để mai táng và tự chịu chi phí thì trường giáo dưỡng giao cho thân nhân của người chết thực hiện. Việc tổ chức mai táng phải bảo đảm an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 107. Chế độ gặp thân nhân, liên lạc, nhận quà của học sinh trường giáo dưỡng

1. Học sinh được gặp thân nhân tại nơi tiếp đón của trường giáo dưỡng và phải chấp hành đúng quy định về thăm gặp.

2. Học sinh được liên lạc bằng điện thoại hoặc kết nối hình ảnh, âm thanh bằng phương tiện điện tử với thân nhân ở trong nước, có sự giám sát của giáo viên trường giáo dưỡng và tự chịu chi phí.

3. Học sinh được gửi và nhận thư, nhận quà là tiền, đồ vật, trừ rượu, bia, thuốc lá, các chất kích thích khác, đồ vật và các loại văn hóa phẩm thuộc danh mục cấm. Trường giáo dưỡng có trách nhiệm kiểm tra thư, quà trước khi học sinh gửi hoặc nhận. Học sinh có tiền hoặc giấy tờ có giá thì phải gửi trường giáo dưỡng để quản lý và sử dụng theo quy định của trường giáo dưỡng.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 108. Giải quyết trường hợp học sinh có việc tang

1. Khi có việc tang của gia đình gồm: cha, mẹ, con đẻ, người trực tiếp nuôi dưỡng và có đơn xin bảo lãnh của thân nhân được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi học sinh cư trú xác nhận thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng có thể xem xét cho học sinh về gia đình không quá 05 ngày, không kể thời gian đi đường. Thời gian về gia đình được tính vào thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

2. Khi giải quyết cho học sinh về gia đình, đại diện thân nhân đến nhận học sinh và viết cam kết quản lý học sinh trong thời gian được về nhà và chịu trách nhiệm đưa học sinh trở lại trường giáo dưỡng đúng thời gian quy định.

3. Hết thời gian được về gia đình, học sinh phải tự giác trở lại trường giáo dưỡng để tiếp tục chấp hành, nếu không tự giác thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng tổ chức đưa học sinh đó trở lại trường; nếu học sinh bỏ trốn thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng ra quyết định truy tìm.

Điều 109. Xếp loại thi đua cho học sinh

1. Việc xếp loại thi đua cho học sinh được đánh giá theo 04 mức: tốt, khá, trung bình, kém.

2. Trường giáo dưỡng phải xếp loại thi đua cho học sinh theo tháng, quý, năm.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 110. Chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

1. Học sinh đã chấp hành được một phần hai thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và xếp loại thi đua từ loại khá trở lên có thể được chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Tích cực học tập, có nhiều tiến bộ;

b) Đã lập công.

2. Hiệu trưởng trường giáo dưỡng lập hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có trường giáo dưỡng xem xét, quyết định chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng. Hồ sơ đề nghị phải có các tài liệu sau đây:

a) Đơn đề nghị của học sinh trường giáo dưỡng;

b) Văn bản đề nghị của trường giáo dưỡng;

c) Bản sao quyết định về việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;

d) Kết quả xếp loại thi đua;

đ) Bản nhận xét về việc tích cực học tập, có nhiều tiến bộ hoặc văn bản, tài liệu thể hiện việc học sinh lập công có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền;

e) Tài liệu khác có liên quan.

3. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị của Hiệu trưởng trường giáo dưỡng, Chánh án Tòa án xem xét, quyết định chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng đối với học sinh. Trường hợp không chấp nhận đề nghị thì trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

4. Quyết định chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định và không bị khiếu nại, kiến nghị. Quyết định này phải gửi ngay cho học sinh, người đại diện của họ, trường giáo dưỡng, Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an.

5. Ngay sau khi nhận được quyết định, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải công bố và làm thủ tục cho học sinh ra trường.

Điều 111. Khen thưởng, xử lý vi phạm đối với học sinh

1. Học sinh chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, nội quy của trường giáo dưỡng, có kết quả học tập đạt từ loại khá trở lên hoặc lập công thì được Hiệu trưởng trường giáo dưỡng quyết định khen thưởng bằng một hoặc một số hình thức sau đây:

a) Biểu dương, tặng giấy khen, tặng quà;

b) Đi tham quan do trường giáo dưỡng tổ chức;

c) Được sum họp gia đình tại trường trong thời gian 01 ngày;

d) Tăng số lần được liên lạc bằng điện thoại hoặc kết nối hình ảnh, âm thanh bằng phương tiện điện tử với thân nhân ở trong nước.

2. Học sinh vi phạm kỷ luật học tập, lao động hoặc có hành vi khác vi phạm nội quy của trường giáo dưỡng, thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà Hiệu trưởng trường giáo dưỡng quyết định xử lý bằng một trong các hình thức sau đây:

a) Nhắc nhở;

b) Phê bình;

c) Tạm dừng một số hoạt động giải trí trong thời gian không quá 03 ngày.

3. Quyết định khen thưởng hoặc xử lý vi phạm được lưu vào hồ sơ học sinh.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 112. Thủ tục cho học sinh ra trường

1. Hai tháng trước khi học sinh hết thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc ngay sau khi nhận được quyết định chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải thông báo bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó về cư trú và gia đình họ biết ngày ra trường.

Trường hợp học sinh dưới 18 tuổi chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng mà không rõ cha, mẹ và người giám hộ thì trường giáo dưỡng có trách nhiệm liên hệ với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có trường để đề nghị giúp đỡ, sắp xếp chỗ ăn, ở và tạo việc làm, học tập; trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã không thể bố trí được chỗ ăn, ở đối với học sinh thì trường giáo dưỡng lập hồ sơ đưa vào cơ sở bảo trợ xã hội tại địa phương nơi có trường giáo dưỡng.

2. Vào ngày cuối cùng của thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải tổ chức khám sức khỏe và cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng cho học sinh ra trường và gửi giấy chứng nhận này cho cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an, Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó về cư trú.

3. Học sinh khi ra trường được nhận lại tiền, giấy tờ có giá, tài sản và đồ vật gửi trường quản lý, các chứng chỉ học văn hóa, học nghề được cấp trong thời gian chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; được cấp tiền tàu xe, tiền ăn trong thời gian đi đường trở về nơi cư trú; được cấp 01 bộ quần áo. Trường hợp hết thời hạn chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng mà học sinh vẫn chưa tiến bộ thì Hiệu trưởng phải có bản nhận xét riêng và kiến nghị các biện pháp giáo dục tiếp theo gửi Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người đó về cư trú.

4. Đối với học sinh dưới 16 tuổi hoặc bị ốm đau, bệnh tật đến ngày được ra trường mà không có thân nhân đến đón thì trường giáo dưỡng phải cử người đưa về giao cho gia đình hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó về cư trú.

5. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ra trường, học sinh đã chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng phải trình báo Ủy ban nhân dân cấp xã nơi về cư trú, trừ trường hợp học sinh được đưa vào cơ sở bảo trợ xã hội.

6. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 113. Kiểm sát thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

1. Khi kiểm sát thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

a) Yêu cầu cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng cư trú, trường giáo dưỡng tự kiểm tra việc thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát; yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành;

b) Trực tiếp kiểm sát việc thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, trường giáo dưỡng; kiểm sát hồ sơ thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;

c) Đề nghị cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, trường giáo dưỡng lập hồ sơ đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định hoãn, tạm đình chỉ, chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đề nghị cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, trường giáo dưỡng thông báo cho Tòa án có thẩm quyền để đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;

d) Kiến nghị Tòa án khi phát hiện có vi phạm liên quan đến việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong quá trình thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;

đ) Kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, trường giáo dưỡng trong thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng khi phát hiện có vi phạm; yêu cầu đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật;

e) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với việc thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng theo quy định tại khoản 2 Điều này;

g) Khởi tố hoặc yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng theo quy định của pháp luật;

h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

2. Viện kiểm sát trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Tòa án, cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án hình sự.

Khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp hoặc cấp dưới thực hiện nhiệm vụ sau đây: ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo; kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và của cấp dưới; thông báo kết quả giải quyết cho Viện kiểm sát; cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Viện kiểm sát.

3. Trách nhiệm thực hiện yêu cầu, đề nghị, kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát về thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng được quy định như sau:

a) Đối với yêu cầu quy định tại điểm a khoản 1 Điều này, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, trường giáo dưỡng phải thực hiện trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, trừ trường hợp yêu cầu lập hồ sơ theo quy định tại khoản 3 Điều 94 của Luật này và yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án thì phải thực hiện ngay;

b) Đối với đề nghị, kiến nghị, yêu cầu quy định tại các điểm c, d và đ khoản 1 Điều này, Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, trường giáo dưỡng phải trả lời bằng văn bản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị, kiến nghị, yêu cầu;

c) Đối với kháng nghị quy định tại điểm đ khoản 1 Điều này, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, trường giáo dưỡng có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kháng nghị; nếu không nhất trí với kháng nghị đó thì các cơ quan này có quyền khiếu nại lên Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp; Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải giải quyết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải được thi hành.

Điều 114. Khiếu nại, tố cáo trong thi hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng

1. Việc khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

2. Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định chi tiết Điều này.

Phần thứ ba

HÌNH PHẠT VÀ THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

Chương VI

HÌNH PHẠT

Mục 1. CÁC HÌNH PHẠT

Điều 115. Các hình phạt áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội

Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm:

1. Cảnh cáo;

2. Phạt tiền;

3. Cải tạo không giam giữ;

4. Tù có thời hạn.

Điều 116. Cảnh cáo

Cảnh cáo được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội nghiêm trọng do vô ý, phạm tội ít nghiêm trọng và có tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.

Điều 117. Phạt tiền

1. Phạt tiền được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng.

2. Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định.

3. Mức tiền phạt đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội không quá một phần ba mức tiền phạt mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định.

Điều 118. Cải tạo không giam giữ

1. Cải tạo không giam giữ được áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng.

2. Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội thì không khấu trừ thu nhập của họ.

3. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định.

Điều 119. Tù có thời hạn

Mức phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định như sau:

1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật của Bộ luật Hình sự được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 15 năm tù, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần năm mức phạt tù mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này;

2. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật của Bộ luật Hình sự được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định khi phạm một trong các tội sau đây:

a) Tội giết người;

b) Tội hiếp dâm;

c) Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi;

d) Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;

đ) Tội sản xuất trái phép chất ma túy;

3. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật của Bộ luật Hình sự được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 09 năm tù, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá hai phần năm mức phạt tù mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này;

4. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật của Bộ luật Hình sự được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật của Bộ luật Hình sự quy định khi phạm một trong các tội sau đây:

a) Tội giết người;

b) Tội hiếp dâm;

c) Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi;

d) Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;

đ) Tội sản xuất trái phép chất ma túy.

Mục 2. QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT, TỔNG HỢP HÌNH PHẠT, MIỄN GIẢM HÌNH PHẠT, XÓA ÁN TÍCH

Điều 120. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt

1. Tòa án quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên trong trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt theo các điều của Bộ luật Hình sự về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.

2. Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá một phần ba mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật của Bộ luật Hình sự được áp dụng.

Mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chuẩn bị phạm tội không quá một phần hai mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật của Bộ luật Hình sự được áp dụng.

3. Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần ba mức hình phạt quy định tại các điều 117, 118 và 119 của Luật này.

Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần hai mức hình phạt quy định tại các điều 117, 118 và 119 của Luật này.

Điều 121. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

1. Khi xét xử cùng một lần người chưa thành niên phạm nhiều tội thì Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt chung theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 03 năm.

Nếu hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội.

2. Đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 16 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 16 tuổi, việc tổng hợp hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi theo quy định tại khoản 1 Điều này.

3. Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, việc tổng hợp hình phạt chung áp dụng như đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội.

Điều 122. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

Việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước hoặc sau khi có bản án này thì được thực hiện theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp thì việc tổng hợp được thực hiện theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 121 của Luật này.

Điều 123. Giảm mức hình phạt đã tuyên

1. Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn thì được Tòa án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến 04 năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên.

2. Người chưa thành niên phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

3. Người chưa thành niên phạm tội bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại.

Điều 124. Án treo

Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người chưa thành niên phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 03 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

Điều 125. Hoãn chấp hành hình phạt tù

Người chưa thành niên bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù trong các trường hợp sau đây:

1. Các trường hợp có thể được hoãn chấp hành hình phạt tù theo quy định của Bộ luật Hình sự;

2. Trường hợp người chưa thành niên bị xử phạt tù đã đăng ký và đủ điều kiện tham gia hoặc đang tham gia kỳ thi tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông, thi tốt nghiệp trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, được cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp nơi người đó học tập xác nhận thì có thể được hoãn cho đến khi thực hiện xong kỳ thi.

Điều 126. Tha tù trước thời hạn có điều kiện

1. Người chưa thành niên đang chấp hành án phạt tù có thể được tha tù trước thời hạn khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt;

b) Đã chấp hành được một phần ba thời hạn phạt tù;

c) Có nơi cư trú rõ ràng.

2. Thời điểm xét tha tù trước thời hạn có điều kiện được thực hiện ngay khi có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này.

Cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền phải lập hồ sơ đề nghị tha tù trước thời hạn có điều kiện và chịu trách nhiệm về tính chính xác và tính hợp pháp của hồ sơ đề nghị.

3. Theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người bị kết án. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách. Thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù.

4. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trở lên trong thời gian thử thách thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đó và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành.

Nếu người đó thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian thử thách, Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án trước theo quy định tại Điều 122 của Luật này.

5. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đã chấp hành được ít nhất một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.

Điều 127. Xóa án tích

1. Người chưa thành niên bị kết án được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi;

b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý.

2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đương nhiên được xóa án tích nếu từ khi chấp hành xong hình phạt hoặc hết thời gian thử thách án treo hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:

a) 03 tháng trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;

b) 06 tháng trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;

c) 01 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;

d) 02 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm.

Chương VII

THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN LÀ NGƯỜI BỊ TỐ GIÁC, NGƯỜI BỊ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ, NGƯỜI BỊ GIỮ TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP, NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI

Mục 1. QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 128. Những vấn đề cần xác định khi tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên là người bị buộc tội

1. Tuổi, mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên.

2. Điều kiện sinh sống và giáo dục.

3. Có hay không có người thành niên xúi giục.

4. Nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội.

Điều 129. Thời hạn điều tra, thời hạn quyết định việc truy tố, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm

1. Thời hạn điều tra, thời hạn quyết định việc truy tố, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm đối với vụ án có người chưa thành niên là người bị buộc tội không quá một phần hai thời hạn tương ứng được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp vụ án có tính chất đặc biệt phức tạp hoặc trong giai đoạn truy tố, xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát, Tòa án ra thông báo áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng thì được áp dụng quy định tương ứng về thời hạn điều tra, thời hạn quyết định việc truy tố, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết Điều này.

Điều 130. Bào chữa

1. Người chưa thành niên là người bị buộc tội có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.

2. Người đại diện của người chưa thành niên là người bị buộc tội có quyền lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người chưa thành niên là người bị buộc tội.

3. Trường hợp người chưa thành niên là người bị buộc tội không đồng ý người bào chữa do người đại diện lựa chọn thì phải lựa chọn theo ý kiến của người chưa thành niên là người bị buộc tội.

4. Trường hợp người chưa thành niên là người bị buộc tội không nhờ người bào chữa hoặc người đại diện của họ không lựa chọn người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trường hợp người chưa thành niên từ chối người bào chữa theo chỉ định thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn chỉ định người bào chữa cho họ.

Điều 131. Thông báo về hoạt động tố tụng

1. Trước khi tiến hành hoạt động tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo trước trong thời gian hợp lý cho người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội biết về thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia theo quy định của Luật này và Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Việc thông báo phải bằng văn bản, trong đó phải ghi rõ họ tên, địa chỉ, điện thoại của người ra thông báo và người được thông báo. Trường hợp cần bảo đảm sự có mặt kịp thời của người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể thông báo trực tiếp, qua điện thoại hoặc phương tiện điện tử khác nhưng ngay sau đó phải gửi thông báo bằng văn bản.

3. Người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội khi nhận được thông báo phải thông tin kịp thời về việc có mặt và tham gia tố tụng của họ cho cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng biết.

4. Việc thông báo các hoạt động tố tụng khác được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 132. Việc tham gia tố tụng của người đại diện

1. Người đại diện của người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

2. Những trường hợp sau đây không được làm người đại diện của người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội:

a) Việc tham gia tố tụng của người này gây ảnh hưởng xấu đến tâm lý của người chưa thành niên, ảnh hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án;

b) Hành vi của người này là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hành vi phạm tội của người chưa thành niên.

3. Người đại diện của người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội được tham gia việc lấy lời khai, hỏi cung, đối chất, khám xét người, xem xét dấu vết trên thân thể của người chưa thành niên, tham gia việc người chưa thành niên nhận dạng, nhận biết giọng nói và những hoạt động tố tụng khác theo quy định của Luật này và Bộ luật Tố tụng hình sự; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo; đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu liên quan đến việc buộc tội người chưa thành niên trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra.

4. Người đại diện của người chưa thành niên là bị cáo khi tham gia phiên tòa có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; phát biểu ý kiến, tranh luận; khiếu nại các hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các quyết định của Tòa án.

5. Ngay sau khi thụ lý vụ việc, vụ án, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo bằng văn bản cho người đại diện của người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội để tham gia tố tụng; trường hợp cần thiết có thể báo tin trực tiếp, qua điện thoại hoặc phương tiện điện tử khác nhưng ngay sau đó phải gửi thông báo bằng văn bản.

6. Người đại diện phải có mặt đúng thời gian, địa điểm nêu trong thông báo.

Điều 133. Việc tham gia tố tụng của tổ chức

1. Đại diện cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức khác nơi người chưa thành niên học tập, lao động và sinh hoạt có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này khi tham gia phiên tòa có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; phát biểu ý kiến, tranh luận.

Điều 134. Giữ bí mật thông tin của người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội

1. Các thông tin có liên quan đến hành vi phạm tội của người chưa thành niên không được công khai, trừ trường hợp người đó bị truy nã theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

2. Các tài liệu, chứng cứ, thông tin có liên quan đến nhân thân, hành vi phạm tội của người chưa thành niên chỉ được sử dụng cho việc giải quyết vụ việc, vụ án, nghiêm cấm sử dụng vào mục đích khác.

3. Trong trường hợp đặc biệt cần bảo vệ người chưa thành niên, Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên công khai phần quyết định của bản án.

Mục 2. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN, BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ

Điều 135. Các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế

1. Các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên bao gồm:

a) Giữ người trong trường hợp khẩn cấp;

b) Bắt người theo các trường hợp quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự;

c) Tạm giữ;

d) Tạm giam;

đ) Giám sát điện tử;

e) Giám sát bởi người đại diện;

g) Bảo lĩnh;

h) Đặt tiền để bảo đảm;

i) Cấm đi khỏi nơi cư trú;

k) Tạm hoãn xuất cảnh.

2. Các biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với người chưa thành niên bao gồm:

a) Áp giải, dẫn giải;

b) Kê biên tài sản;

c) Phong tỏa tài khoản.

3. Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, người ra lệnh giữ người, lệnh hoặc quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo ngay bằng văn bản cho gia đình của họ, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết; trường hợp cần thiết có thể báo tin trực tiếp, qua điện thoại hoặc phương tiện điện tử khác nhưng ngay sau đó phải gửi thông báo bằng văn bản.

Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận người bị giữ, bị bắt là người chưa thành niên, Cơ quan điều tra nhận người bị giữ, bị bắt phải thông báo cho gia đình người bị giữ, bị bắt, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết; trường hợp người bị giữ, bị bắt là công dân nước ngoài thì phải thông báo cho cơ quan ngoại giao của Việt Nam để thông báo cho cơ quan đại diện ngoại giao của nước có công dân bị giữ, bị bắt.

Nếu việc thông báo cản trở truy bắt đối tượng khác hoặc cản trở điều tra thì sau khi cản trở đó không còn, người ra lệnh giữ người, lệnh hoặc quyết định bắt người, Cơ quan điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt phải thông báo ngay.

Điều 136. Áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp

1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn cấp về tội phạm mà họ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự nếu thuộc trường hợp áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn cấp về tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng nếu thuộc trường hợp áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 137. Áp dụng biện pháp tạm giữ

1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị tạm giữ về tội phạm mà họ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự nếu thuộc trường hợp áp dụng biện pháp tạm giữ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giữ về tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng nếu thuộc trường hợp áp dụng biện pháp tạm giữ quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự.

Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị tạm giữ về tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

3. Thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú, đầu thú. Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ một lần nhưng không quá 03 ngày.

Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận hồ sơ đề nghị gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.

Điều 138. Áp dụng biện pháp tạm giam

1. Tạm giam có thể áp dụng đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;

b) Không có nơi cư trú rõ ràng;

c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;

d) Tiếp tục phạm tội hoặc có căn cứ xác định người này tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để tiếp tục phạm tội;

đ) Có hành vi tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

2. Tạm giam có thể áp dụng đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội rất nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;

b) Không có nơi cư trú rõ ràng;

c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã;

d) Tiếp tục phạm tội;

đ) Có hành vi tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

3. Tạm giam có thể áp dụng đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi về tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định của Bộ luật Hình sự khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm;

b) Không có nơi cư trú rõ ràng;

c) Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có căn cứ xác định người này sẽ bỏ trốn;

d) Tiếp tục phạm tội hoặc có căn cứ xác định người này tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để tiếp tục phạm tội;

đ) Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

4. Có thể áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi về tội nghiêm trọng do vô ý, tội ít nghiêm trọng nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

5. Thời hạn tạm giam đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo không quá một phần hai thời hạn tạm giam tương ứng quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 8 Điều 151 của Luật này. Khi không còn căn cứ để tạm giam thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kịp thời hủy bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.

6. Trường hợp người chưa thành niên là bị can, bị cáo đang bị tạm giam mà có thông báo áp dụng thủ tục xử lý chuyển hướng thì cơ quan tiến hành tố tụng xem xét tiếp tục tạm giam hoặc hủy bỏ, thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác.

7. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết khoản 5 Điều này.

Điều 139. Áp dụng biện pháp giám sát điện tử

1. Giám sát điện tử là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của người chưa thành niên là bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được giám sát điện tử.

2. Bị can, bị cáo được giám sát điện tử phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

a) Không đi khỏi phạm vi giám sát, trừ trường hợp quy định tại khoản 5 Điều này;

b) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;

c) Không bỏ trốn hoặc không tiếp tục phạm tội;

d) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này;

đ) Không tháo, phá hủy thiết bị giám sát điện tử hoặc gây rối loạn hoạt động của thiết bị giám sát điện tử.

3. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định giám sát điện tử đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo và phải ghi rõ phạm vi giám sát. Quyết định của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.

4. Thời hạn giám sát điện tử không quá thời hạn điều tra, thời hạn quyết định việc truy tố, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo quy định của Luật này. Thời hạn giám sát điện tử đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.

5. Người ra quyết định áp dụng biện pháp giám sát điện tử phải gửi ngay quyết định này cho người chưa thành niên là bị can, bị cáo, người đại diện của họ; thông báo ngay việc áp dụng biện pháp này cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên là bị can, bị cáo cư trú và giao người chưa thành niên là bị can, bị cáo cho Ủy ban nhân dân cấp xã đó để thi hành.

Trường hợp người chưa thành niên là bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời đi khỏi phạm vi giám sát thì phải có sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú và phải có giấy phép của người đã ra quyết định áp dụng biện pháp giám sát điện tử. Giấy phép này phải gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.

6. Bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản 2 Điều này thì bị tạm giam. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bị can, bị cáo cư trú phải báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp giám sát điện tử biết về việc vi phạm để xử lý theo thẩm quyền.

7. Việc hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp giám sát điện tử được thực hiện theo quy định về hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn của Luật này và Bộ luật Tố tụng hình sự.

8. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 140. Áp dụng biện pháp giám sát bởi người đại diện

1. Giám sát bởi người đại diện có thể áp dụng đối với người chưa thành niên là bị can, bị cáo nhằm bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.

2. Bị can, bị cáo bị giám sát bởi người đại diện phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;

b) Không bỏ trốn hoặc không tiếp tục phạm tội;

c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án; không tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

3. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định giám sát bởi người đại diện và giao người chưa thành niên là bị can, bị cáo cho người đại diện của họ để thực hiện việc giám sát.

Người đại diện được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ giám sát chặt chẽ người chưa thành niên, theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục người đó.

Trường hợp người đại diện không có điều kiện để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ hoặc không hoàn thành nhiệm vụ được giao thì người có thẩm quyền quy định tại khoản này quyết định thay đổi người đại diện.

4. Thời hạn giám sát bởi người đại diện không quá thời hạn điều tra, thời hạn quyết định việc truy tố, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo quy định của Luật này. Thời hạn giám sát bởi người đại diện đối với người chưa thành niên bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.

5. Người ra quyết định áp dụng biện pháp giám sát bởi người đại diện phải gửi ngay quyết định này cho người chưa thành niên là bị can, bị cáo, người đại diện của họ; thông báo ngay việc áp dụng biện pháp này cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên là bị can, bị cáo cư trú để quản lý, theo dõi họ.

Trường hợp bị can, bị cáo vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú và phải có giấy cho phép của người đã ra quyết định áp dụng biện pháp giám sát bởi người đại diện. Giấy phép này phải gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.

6. Bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản 2 Điều này có thể bị tạm giam. Người đại diện được giao nhiệm vụ giám sát phải kịp thời thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã về việc vi phạm và phối hợp với cơ quan có thẩm quyền để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên là bị can, bị cáo cư trú phải báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định áp dụng biện pháp giám sát bởi người đại diện biết để xử lý theo thẩm quyền.

7. Việc hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp giám sát bởi người đại diện được thực hiện theo quy định về hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn của Luật này và Bộ luật Tố tụng hình sự.

Điều 141. Áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải

1. Áp giải có thể áp dụng đối với người chưa thành niên thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Người chưa thành niên là bị can, bị cáo đã có giấy triệu tập đến lần thứ hai nhưng cố ý vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan;

b) Người chưa thành niên là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị can, bị cáo đang bị tạm giam từ nơi bị giam, giữ đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố, xét xử vụ án.

2. Dẫn giải chỉ có thể áp dụng đối với người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.

3. Khi áp giải, dẫn giải người chưa thành niên thì không còng tay hoặc áp dụng các biện pháp mang tính cưỡng chế khác, trừ trường hợp người chưa thành niên có biểu hiện trốn, hành vi chống đối, gây rối trật tự công cộng.

Mục 3. THỦ TỤC KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA, TRUY TỐ

Điều 142. Tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố

1. Mọi hoạt động tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra vụ án có người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội phải được tiến hành trong môi trường thuận lợi cho việc bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, bí mật cá nhân, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ.

2. Các thủ tục tố tụng thân thiện phải được áp dụng đối với người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội ngay từ giai đoạn khởi tố.

3. Khi tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có thái độ thân thiện, sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu, phù hợp với lứa tuổi, giới tính, khả năng nhận thức và mức độ trưởng thành của họ.

4. Trường hợp cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thụ lý vụ án có người chưa thành niên là người bị buộc tội thì phải đề nghị Viện kiểm sát có thẩm quyền ra quyết định chuyển toàn bộ vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

5. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết khoản 4 Điều này.

Điều 143. Tách vụ án hình sự có người chưa thành niên

1. Trong vụ án hình sự có bị can là người chưa thành niên và người thành niên thì Cơ quan điều tra tách vụ án hình sự để giải quyết vụ án độc lập đối với bị can là người chưa thành niên.

2. Tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án có người chưa thành niên và vụ án có người thành niên theo quy định tại khoản 1 Điều này được sử dụng trong quá trình giải quyết các vụ án này.

3. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định chi tiết Điều này.

Điều 144. Lấy lời khai, hỏi cung

1. Trường hợp lấy lời khai, hỏi cung người chưa thành niên tại nơi tiến hành điều tra, truy tố thì phải sắp xếp, bố trí phòng lấy lời khai, hỏi cung bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi của họ.

2. Khi tiến hành lấy lời khai, hỏi cung, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét áp dụng các biện pháp phù hợp nhằm giảm đến mức thấp nhất thời gian, số lượng lần lấy lời khai, hỏi cung và phải tạm dừng ngay việc lấy lời khai, hỏi cung khi người chưa thành niên có biểu hiện mệt mỏi, ảnh hưởng đến khả năng khai báo chính xác, đầy đủ.

3. Việc lấy lời khai, hỏi cung người chưa thành niên phải có mặt người đại diện hoặc người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, trừ trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp cần thiết khi lấy lời khai, hỏi cung, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể mời người làm công tác xã hội, chuyên gia y tế, tâm lý, giáo dục, xã hội học tham gia.

4. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, người làm công tác xã hội có thể hỏi người chưa thành niên nếu được Điều tra viên, Kiểm sát viên đồng ý. Điều tra viên, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu không được hỏi và phải dừng ngay việc hỏi trong trường hợp câu hỏi của những người này có tính chất gợi ý, định hướng liên quan đến vụ việc, vụ án.

5. Việc lấy lời khai, hỏi cung người chưa thành niên không quá 02 lần trong 01 ngày và mỗi lần không quá 02 giờ, trừ trường hợp sau đây:

a) Phạm tội có tổ chức;

b) Để truy bắt người phạm tội khác đang bỏ trốn;

c) Ngăn chặn người khác phạm tội;

d) Để truy tìm công cụ, phương tiện phạm tội hoặc vật chứng khác của vụ án;

đ) Vụ việc, vụ án có nhiều tình tiết phức tạp.

6. Không lấy lời khai, hỏi cung người chưa thành niên vào ban đêm, trừ trường hợp sau đây:

a) Người chưa thành niên bị giữ trong trường hợp khẩn cấp;

b) Để truy bắt người phạm tội khác đang bỏ trốn;

c) Ngăn chặn người khác phạm tội.

7. Biên bản lấy lời khai, hỏi cung người chưa thành niên chỉ có giá trị pháp lý khi có chữ ký hoặc điểm chỉ của người đại diện hoặc người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Điều 145. Nhận dạng, nhận biết giọng nói

1. Khi cần thiết, Điều tra viên có thể cho người chưa thành niên là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can nhận dạng, nhận biết giọng nói.

Trường hợp cho người chưa thành niên nhận dạng hình ảnh tử thi có hình dạng gây sợ hãi thì phải chuẩn bị kỹ tâm lý cho họ hoặc sử dụng các thiết bị điện tử, hình ảnh mô phỏng phù hợp để nhận dạng.

2. Trong quá trình tiến hành nhận dạng, nhận biết giọng nói, Điều tra viên tạo không khí thoải mái, động viên người chưa thành niên đưa ra nhận diện chính xác nhất có thể. Sau khi người được yêu cầu nhận dạng, nhận biết giọng nói đã xác nhận được một người, một vật, một ảnh hoặc tiếng nói trong số những người, vật, ảnh hoặc giọng nói được đưa ra, Điều tra viên có thể không cần yêu cầu người chưa thành niên giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà xác nhận được người, vật, ảnh, giọng nói đó.

3. Không tiến hành nhận dạng, nhận biết giọng nói vào ban đêm, trừ trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản 6 Điều 144 của Luật này.

4. Việc cho người chưa thành niên nhận dạng, nhận biết giọng nói phải có mặt người đại diện hoặc người bào chữa của họ.

Điều 146. Đối chất

1. Việc đối chất với người chưa thành niên chỉ được thực hiện trong trường hợp nếu không đối chất thì không thể giải quyết được vụ án.

2. Việc đối chất đối với người chưa thành niên chỉ được tiến hành 01 lần trong một ngày và không quá 02 giờ. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tạm dừng ngay việc đối chất khi người chưa thành niên có biểu hiện mệt mỏi, căng thẳng.

3. Khi tiến hành việc đối chất, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể bố trí cho người tham gia đối chất ngồi ở phòng cách ly và sử dụng thiết bị điện tử, màn che hoặc các biện pháp bảo vệ khác để không làm ảnh hưởng đến tâm lý của người chưa thành niên.

4. Việc cho người chưa thành niên đối chất phải có mặt người đại diện hoặc người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Điều 147. Khám xét người, xem xét dấu vết trên thân thể

1. Việc khám xét người, xem xét dấu vết trên thân thể của người chưa thành niên phải có sự tham gia của người đại diện của họ.

2. Bảo đảm thời gian khám xét người, xem xét dấu vết trên thân thể người chưa thành niên được tiến hành nhanh nhất.

Mục 4. THỦ TỤC XÉT XỬ

Điều 148. Thẩm quyền xét xử vụ án hình sự

Tòa gia đình và người chưa thành niên có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự có người chưa thành niên là người bị buộc tội. Đối với Tòa án chưa tổ chức Tòa gia đình và người chưa thành niên thì việc xét xử vụ án hình sự có người chưa thành niên là người bị buộc tội do Thẩm phán quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này thực hiện.

Điều 149. Phòng xử án thân thiện

1. Tòa án xét xử bị cáo là người chưa thành niên tại phòng xử án thân thiện.

2. Vị trí của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, người tham dự phiên tòa trong phòng xử án được bố trí trên cùng một mặt phẳng.

Người chưa thành niên là bị cáo tham gia tố tụng tại phiên tòa được ngồi cạnh người bào chữa, người đại diện của họ.

3. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết Điều này.

Điều 150. Sự có mặt của người làm công tác xã hội

Người làm công tác xã hội tham gia phiên tòa khi được Tòa án triệu tập. Nếu người làm công tác xã hội vắng mặt thì tùy từng trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.

Điều 151. Thủ tục xét xử thân thiện

1. Phiên tòa phải được tổ chức xét xử thân thiện, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên. Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa mặc trang phục hành chính của Tòa án; Kiểm sát viên mặc trang phục phù hợp, không mặc trang phục Kiểm sát nhân dân.

2. Khi xét xử không còng tay hoặc áp dụng các biện pháp mang tính cưỡng chế khác, trừ trường hợp người chưa thành niên có biểu hiện chống đối, gây mất trật tự tại phiên tòa hoặc hành động tiêu cực khác.

3. Người đại diện của người chưa thành niên có thể hỗ trợ người chưa thành niên tại phiên tòa.

4. Chủ tọa phiên tòa đề nghị người làm công tác xã hội có mặt tại phiên tòa trình bày báo cáo điều tra xã hội và báo cáo điều tra xã hội bổ sung (nếu có), đề nghị áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng (nếu có) và những vấn đề khác có liên quan.

5. Việc xét hỏi, tranh luận đối với người chưa thành niên tại phiên tòa được tiến hành phù hợp với lứa tuổi, giới tính, khả năng nhận thức và mức độ trưởng thành của họ. Câu hỏi cần ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc.

6. Khi xét xử, nếu xét thấy người chưa thành niên có đủ điều kiện áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng thì Hội đồng xét xử xem xét, ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng đối với bị cáo. Quyết định này phải có các nội dung quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật này, trừ nội dung đình chỉ vụ án đối với bị cáo. Quyết định này có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp xét thấy cần xây dựng hoặc bổ sung kế hoạch xử lý chuyển hướng thì Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa và đề nghị người làm công tác xã hội xây dựng hoặc bổ sung kế hoạch xử lý chuyển hướng. Thời hạn tạm ngừng phiên tòa không quá 10 ngày kể từ ngày quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa, Hội đồng xét xử tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

7. Sau khi tuyên án hoặc công bố quyết định, Hội đồng xét xử quyết định tạm giam người chưa thành niên nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Người chưa thành niên đang bị tạm giam nhưng xét thấy cần tiếp tục tạm giam để bảo đảm thi hành bản án, quyết định;

b) Người chưa thành niên không bị tạm giam nhưng có căn cứ cho thấy họ có thể bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội.

8. Thời hạn tạm giam đối với người chưa thành niên được thực hiện như sau:

a) Không quá 45 ngày kể từ ngày tuyên án;

b) Không quá 25 ngày kể từ ngày công bố quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.

Điều 152. Tuyên án

Khi tuyên án, Hội đồng xét xử đọc phần quyết định trong bản án. Sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án, quyền kháng cáo và những nội dung khác theo quy định của pháp luật.

Chương VIII

THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN LÀ BỊ HẠI, NGƯỜI LÀM CHỨNG

Điều 153. Bảo vệ, hỗ trợ người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng

1. Việc tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng phải được tiến hành trong môi trường thuận lợi cho việc bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, bí mật cá nhân, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ. Hạn chế đến mức thấp nhất số lần tiếp xúc giữa người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị buộc tội.

2. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp phù hợp nhằm giảm thiểu sự lo lắng, căng thẳng của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng khi tham gia tố tụng.

3. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp với người làm công tác xã hội, cơ quan bảo vệ trẻ em và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan nhằm hỗ trợ, chăm sóc, bảo vệ người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng trong quá trình tố tụng.

4. Ưu tiên giải quyết các vụ việc, vụ án có người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng trong thời gian sớm nhất.

5. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp phù hợp, cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng và người thân thích của họ khi bị xâm hại hoặc bị đe dọa xâm hại.

6. Người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng không bị dẫn giải.

7. Người chưa thành niên là bị hại có hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ từ nguồn kinh phí của Quỹ Bảo trợ trẻ em.

Điều 154. Việc tham gia tố tụng của người đại diện và người hỗ trợ khác

1. Người chưa thành niên là bị hại có quyền có người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, người chưa thành niên là người làm chứng có quyền có người đại diện cùng tham gia các hoạt động tố tụng. Trường hợp sự tham gia của người đại diện không bảo đảm lợi ích của người chưa thành niên thì phải chỉ định người đại diện khác cho họ theo quy định của pháp luật.

2. Ngay sau khi thụ lý vụ việc, vụ án, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo bằng văn bản cho người đại diện của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng để tham gia tố tụng; trường hợp cần thiết có thể thông báo trực tiếp, qua điện thoại hoặc phương tiện điện tử khác nhưng ngay sau đó phải gửi thông báo bằng văn bản. Người đại diện phải có mặt đúng thời gian, địa điểm nêu trong thông báo.

3. Trước khi tiến hành hoạt động tố tụng, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo cho người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên là bị hại, người đại diện của người làm chứng theo quy định của Luật này và Bộ luật Tố tụng hình sự.

4. Theo đề nghị của người chưa thành niên là bị hại, người đại diện của họ hoặc khi xét thấy cần thiết, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đề nghị người làm công tác xã hội tham gia tố tụng để hướng dẫn, hỗ trợ cho người chưa thành niên và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác của người làm công tác xã hội theo quy định của pháp luật.

5. Trường hợp cần thiết, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể yêu cầu chuyên gia y tế, tâm lý, giáo dục, xã hội học hỗ trợ người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng khi tham gia tố tụng.

Điều 155. Giữ bí mật thông tin của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng

1. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp phù hợp nhằm giữ bí mật cá nhân của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng.

2. Nghiêm cấm tiết lộ thông tin về họ và tên, nơi cư trú, học tập, làm việc, hình ảnh, thông tin nhận dạng khác của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng.

Khi tuyên án, Thẩm phán không được nêu họ và tên, nơi cư trú, học tập, làm việc của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng.

3. Tòa án xét xử kín đối với vụ án hình sự có người chưa thành niên bị xâm hại tình dục hoặc trường hợp đặc biệt khác cần bảo vệ người chưa thành niên.

4. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kịp thời đề nghị các cơ quan báo chí, thông tấn không đăng tải, gỡ các thông tin, hình ảnh liên quan đến vụ việc, vụ án ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng.

5. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp nghiệp vụ hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp kỹ thuật để bảo vệ thông tin cá nhân, danh dự, nhân phẩm của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng bị phát tán trên không gian mạng.

6. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan xử lý theo thẩm quyền đối với người cố tình phát tán, truyền đưa thông tin cá nhân của người chưa thành niên là bị hại trong các vụ việc, vụ án xâm hại người chưa thành niên, ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của họ.

Điều 156. Lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra

1. Việc lấy lời khai người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng có thể thực hiện tại nơi tiến hành điều tra, truy tố, nơi cư trú hoặc nơi học tập, nơi làm việc, nơi sinh hoạt của người đó hoặc cơ sở chăm sóc người chưa thành niên. Ưu tiên địa điểm lấy lời khai tại nơi cư trú của họ. Trường hợp lấy lời khai của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng tại nơi tiến hành điều tra, truy tố thì phải sắp xếp, bố trí phòng lấy lời khai bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi của họ.

Trường hợp cần thiết, việc lấy lời khai của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng có thể được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.

2. Khi tiến hành lấy lời khai người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có thái độ thân thiện, sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu, phù hợp với lứa tuổi, giới tính, khả năng nhận thức, mức độ trưởng thành, đặc điểm riêng về hoàn cảnh gia đình, tình trạng tâm lý, sức khỏe và những đặc điểm khác của người chưa thành niên.

3. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải hạn chế tối đa số lần lấy lời khai của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng và chỉ lấy lời khai khi thực sự cần thiết để phục vụ hoạt động tố tụng.

4. Không hỏi người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng nhiều lần về cùng một nội dung. Việc lấy lời khai không quá 02 lần trong 01 ngày và mỗi lần không quá 02 giờ, trừ trường hợp vụ việc, vụ án có nhiều tình tiết phức tạp. Việc lấy lời khai phải tạm dừng ngay khi người chưa thành niên có biểu hiện mệt mỏi, ảnh hưởng đến khả năng khai báo chính xác, đầy đủ.

5. Khi tiến hành lấy lời khai, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể sử dụng sơ đồ, mô hình, thiết bị điện tử hoặc công cụ khác để hỗ trợ việc lấy lời khai người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng.

6. Không tiến hành đối chất giữa người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng với người bị buộc tội, trừ trường hợp nếu không đối chất thì không thể giải quyết được vụ án.

Khi tiến hành đối chất, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bố trí cho người tham gia đối chất ngồi ở phòng cách ly và sử dụng thiết bị điện tử, màn che hoặc các biện pháp bảo vệ khác để không làm ảnh hưởng đến tâm lý của người chưa thành niên.

Việc đối chất đối với người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng chỉ được tiến hành 01 lần trong một ngày và không quá 02 giờ. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tạm dừng ngay việc đối chất khi bị hại, người làm chứng có biểu hiện mệt mỏi, căng thẳng.

7. Người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng có quyền từ chối tham gia vào hoạt động thực nghiệm điều tra, nếu hoạt động đó có thể làm tổn thương tâm lý, tinh thần của họ.

8. Việc lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra phải có mặt của người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

9. Khi lấy lời khai, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên mặc trang phục phù hợp, không mặc trang phục Công an nhân dân, Kiểm sát nhân dân.

Điều 157. Xem xét dấu vết trên thân thể, trưng cầu giám định

1. Việc xem xét dấu vết trên thân thể của người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng phải có sự tham gia của người đại diện của họ.

Trường hợp cần thiết có thể mời bác sỹ tham gia việc xem xét dấu vết trên thân thể của người chưa thành niên là bị hại. Việc khám bộ phận sinh dục của người chưa thành niên là bị hại phải do bác sỹ thực hiện.

2. Bảo đảm thời gian xem xét dấu vết trên thân thể người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng được tiến hành nhanh nhất.

3. Chỉ được trưng cầu giám định hoặc lấy mẫu trên cơ thể đối với người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng nếu có căn cứ cho rằng việc đó là cần thiết để giải quyết vụ việc, vụ án. Khi tiến hành việc giám định và lấy mẫu trên cơ thể phải tôn trọng quyền riêng tư của người chưa thành niên.

4. Đối với những vụ việc, vụ án phạm tội quả tang hoặc diễn ra vừa kết thúc thì bị phát hiện hoặc có căn cứ, tài liệu xác định có hành vi xâm hại người chưa thành niên hoặc thuộc các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, cơ quan đang thụ lý vụ việc, vụ án phải tiến hành trưng cầu giám định trong thời hạn 24 giờ kể từ khi có căn cứ. Trường hợp cần phải đưa bị hại đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh để sơ cứu, cấp cứu, cơ quan đang thụ lý vụ việc, vụ án phải phối hợp với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh để thu mẫu giám định.

Điều 158. Hạn chế tiếp xúc với bị cáo

1. Hội đồng xét xử phải hạn chế việc tiếp xúc giữa người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng với bị cáo khi họ trình bày lời khai tại phiên tòa.

2. Trong quá trình xét xử vụ án, Hội đồng xét xử phải cách ly người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng với bị cáo trong trường hợp sau đây:

a) Vụ án có người chưa thành niên là bị hại bị xâm hại tình dục, bị bạo hành hoặc bị mua bán;

b) Vụ án có bị hại là người dưới 10 tuổi;

c) Vụ án khác có yêu cầu của người chưa thành niên hoặc người đại diện của họ và Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly để bảo đảm lợi ích tốt nhất của người chưa thành niên.

Điều 159. Thủ tục xét xử

1. Hạn chế việc triệu tập người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng tham gia phiên tòa nếu không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sử dụng lời khai của họ trong hồ sơ vụ án hoặc áp dụng các biện pháp thay thế khác để xét xử vụ án.

Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có thể quyết định xét xử trực tuyến theo quy định của pháp luật để người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng tham gia phiên tòa tại điểm cầu thành phần.

2. Trường hợp người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng tham gia phiên tòa thì bố trí cho họ ngồi ở phòng cách ly và sử dụng các thiết bị điện tử; trường hợp không bố trí được phòng cách ly thì để họ ngồi ở phòng xử án nhưng phải bố trí khu vực ngăn cách với bị cáo.

3. Khi xét xử phải bảo đảm các yêu cầu sau đây:

a) Khi xét hỏi, câu hỏi cần ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, dùng ngôn ngữ phù hợp với lứa tuổi, giới tính, khả năng nhận thức và mức độ trưởng thành của người chưa thành niên, không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc. Việc xét hỏi cần chú ý đặc điểm riêng về hoàn cảnh gia đình, tình trạng tâm lý, sức khỏe và những đặc điểm khác của họ;

b) Trường hợp cần thiết, có thể sử dụng sơ đồ, mô hình cơ thể, thiết bị điện tử hoặc công cụ khác để hỗ trợ người chưa thành niên trả lời câu hỏi. Không được yêu cầu người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng chỉ vào bộ phận trên cơ thể của họ;

c) Không hỏi những câu mang tính công kích, đe dọa, làm xấu hổ hoặc xúc phạm người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng.

4. Người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng được tạo điều kiện để làm quen, tiếp xúc với quy trình và thủ tục xét xử.

5. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết Điều này.

Điều 160. Bồi thường cho người chưa thành niên là bị hại

1. Việc xác định thiệt hại và bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự.

2. Việc bồi thường cho người chưa thành niên là bị hại phải thực hiện nhanh chóng, kịp thời.

3. Trường hợp người chưa thành niên là bị hại bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe cần phải cứu chữa kịp thời nhưng người bồi thường chưa thể thực hiện bồi thường ngay thì có thể sử dụng kinh phí từ Quỹ Bảo Trợ trẻ em cho họ. Người có nghĩa vụ bồi thường phải thực hiện hoàn trả Quỹ theo quy định.

4. Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 Điều này.

Điều 161. Hỗ trợ chăm sóc phục hồi cho người chưa thành niên là bị hại

1. Bị hại là người dưới 16 tuổi có quyền được hỗ trợ và can thiệp theo quy định của Luật Trẻ em.

2. Bị hại là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền được bố trí nơi tạm trú an toàn, được tư vấn tâm lý, điều trị y tế, trợ giúp pháp lý, đào tạo kỹ năng, chăm sóc thay thế và hoạt động hỗ trợ khác theo quy định của pháp luật.

Phần thứ tư

THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ, TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG

Chương IX

THI HÀNH ÁN PHẠT TÙ

Điều 162. Điều kiện cơ sở vật chất của trại giam riêng, phân trại hoặc khu giam giữ dành riêng cho người chưa thành niên là phạm nhân trong trại giam

1. Trại giam riêng, phân trại hoặc khu giam giữ dành riêng cho người chưa thành niên là phạm nhân trong trại giam phải được bố trí, thiết kế phù hợp với lứa tuổi, giới tính và bảo đảm có các khu vực, công trình sau đây:

a) Khu giam giữ theo tính chất của tội phạm, mức hình phạt, giới tính;

b) Buồng giam;

c) Công trình phục vụ việc học tập, sinh hoạt, chăm sóc y tế;

d) Khu thể thao, vui chơi;

đ) Khu lao động, dạy nghề;

e) Khu thăm gặp;

g) Các công trình khác theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

2. Buồng giam phải bảo đảm thoáng mát về mùa hè, kín gió về mùa đông, hợp vệ sinh môi trường. Diện tích chỗ nằm tối thiểu cho mỗi người chưa thành niên là phạm nhân là 2,5 m2.

3. Trại giam riêng, phân trại hoặc khu giam giữ dành riêng cho người chưa thành niên là phạm nhân trong trại giam phải lắp đặt thiết bị để người chưa thành niên có thể tham gia các hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, nghe đài, đọc sách, báo, xem truyền hình và các hình thức vui chơi giải trí khác phù hợp.

4. Việc bố trí giam riêng người chưa thành niên là phạm nhân được thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

5. Căn cứ vào độ tuổi, giới tính, sức khỏe, trình độ văn hóa, tính chất của tội phạm, mức hình phạt, trại giam bố trí người chưa thành niên là phạm nhân thành các đội, tổ để học tập, lao động, sinh hoạt và phân công cán bộ trại giam có cùng giới tính trực tiếp phụ trách.

6. Căn cứ vào điều kiện thực tế, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định tổ chức trại giam riêng, phân trại hoặc khu giam giữ dành riêng cho người chưa thành niên là phạm nhân.

7. Chính phủ quy định chi tiết các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này.

Điều 163. Chế độ chăm sóc y tế

1. Người chưa thành niên là phạm nhân được chăm sóc y tế, bao gồm:

a) Tư vấn tâm lý và sức khỏe tâm thần;

b) Chăm sóc sức khỏe sinh sản;

c) Các chế độ chăm sóc y tế khác theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

2. Người chưa thành niên là phạm nhân khi đến trại giam được khám sức khỏe và được khám tổng quát sức khỏe định kỳ 01 lần trong 01 năm.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 164. Chế độ học văn hóa, giáo dục hướng nghiệp, học nghề, lao động

1. Trại giam có trách nhiệm giáo dục người chưa thành niên là phạm nhân về văn hóa, pháp luật, giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề phù hợp với độ tuổi, trình độ văn hóa, giới tính, sức khỏe của họ. Người chưa thành niên là phạm nhân được học văn hóa, giáo dục hướng nghiệp, học nghề theo quy định của Chính phủ.

2. Trường hợp không thể bố trí giáo viên dạy học văn hóa theo quy định thì trại giam phải phối hợp với cơ sở giáo dục để tổ chức, liên kết lớp học trực tuyến cho người chưa thành niên là phạm nhân. Việc mở lớp học trực tuyến phải bảo đảm an toàn, tránh kỳ thị, ảnh hưởng tới người chưa thành niên là phạm nhân và học sinh khác.

3. Người chưa thành niên là phạm nhân được lao động phù hợp với độ tuổi, sức khỏe; không phải làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại; bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động.

4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 165. Chế độ ăn, mặc, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ và vui chơi giải trí

1. Người chưa thành niên là phạm nhân được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng ăn như phạm nhân là người thành niên và được tăng thêm thịt, cá nhưng không quá 20% so với định lượng.

2. Ngoài tiêu chuẩn mặc và tư trang như phạm nhân là người thành niên, mỗi năm người chưa thành niên là phạm nhân được cấp thêm quần áo theo mẫu thống nhất và đồ dùng cá nhân khác theo quy định.

3. Trại giam có trách nhiệm tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, nghe đài, đọc sách, báo, xem truyền hình và các hình thức vui chơi giải trí khác phù hợp với đặc điểm của người chưa thành niên.

4. Khuyến khích người chưa thành niên là phạm nhân phát huy năng lực, sở trường, năng khiếu cá nhân.

5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 166. Chế độ gặp, liên lạc với thân nhân

1. Người chưa thành niên là phạm nhân được gặp thân nhân không quá 04 lần trong 01 tháng, mỗi lần gặp không quá 04 giờ. Căn cứ kết quả xếp loại chấp hành án, yêu cầu giáo dục cải tạo, thành tích lao động, học tập, người chưa thành niên là phạm nhân có thể được kéo dài thời gian gặp nhưng không quá 24 giờ trong 01 lần.

2. Người chưa thành niên là phạm nhân được liên lạc bằng điện thoại hoặc kết nối hình ảnh, âm thanh bằng phương tiện điện tử với thân nhân ở trong nước không quá 04 lần trong 01 tháng, mỗi lần không quá 15 phút, trừ trường hợp cấp bách. Việc liên lạc phải có sự giám sát của cán bộ trại giam. Chi phí cho việc liên lạc tại khoản này do phạm nhân chi trả.

3. Nhà nước khuyến khích thân nhân của người chưa thành niên là phạm nhân quan tâm gửi sách vở, đồ dùng học tập, dụng cụ thể dục, thể thao, vui chơi giải trí cho phạm nhân.

Điều 167. Cán bộ trại giam

Cán bộ trại giam phải là người đã được đào tạo hoặc bồi dưỡng về tâm lý học, khoa học giáo dục người chưa thành niên hoặc đã từng tham gia giải quyết các vụ việc liên quan đến người chưa thành niên.

Điều 168. Khen thưởng người chưa thành niên là phạm nhân

1. Trong thời gian chấp hành án phạt tù, người chưa thành niên là phạm nhân chấp hành tốt nội quy trại giam, có thành tích trong học tập, lao động hoặc lập công thì được khen thưởng theo một hoặc nhiều hình thức sau đây:

a) Biểu dương;

b) Tặng giấy khen;

c) Thưởng tiền hoặc hiện vật;

d) Tăng số lần được liên lạc bằng điện thoại hoặc kết nối hình ảnh, âm thanh bằng phương tiện điện tử với thân nhân ở trong nước;

đ) Tăng số lần và kéo dài thời gian gặp thân nhân;

e) Tăng số lần và số lượng quà được nhận.

2. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 169. Xử lý người chưa thành niên là phạm nhân vi phạm

1. Người chưa thành niên là phạm nhân vi phạm nội quy trại giam hoặc có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Không áp dụng biện pháp giam tại buồng kỷ luật đối với người chưa thành niên là phạm nhân.

2. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 170. Chuyển phạm nhân đến trại giam, phân trại, khu giam giữ khác để tiếp tục thi hành án

1. Khi phạm nhân đủ 18 tuổi thì chuyển sang trại giam, phân trại, khu giam giữ cho người thành niên và thực hiện chế độ quản lý giam giữ, giáo dục đối với người thành niên theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

2. Người chưa thành niên là phạm nhân có thể được xem xét chuyển đến trại giam khác nếu xét thấy việc giáo dục, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng của họ hiệu quả hơn hoặc khi xét thấy cần thiết.

Điều 171. Chuẩn bị trả tự do

1. Hai tháng trước khi người chưa thành niên là phạm nhân hết thời hạn chấp hành án phạt tù, trại giam phải thông báo cho họ, người đại diện của họ, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức nơi người chưa thành niên chấp hành xong án phạt tù về cư trú, học tập, làm việc, thông báo cho Bộ Ngoại giao trong trường hợp người chưa thành niên là phạm nhân là người nước ngoài.

2. Nội dung thông báo bao gồm: ngày được trả tự do, kết quả chấp hành án phạt tù và thông tin cần thiết khác có liên quan để xem xét, sắp xếp, tạo lập cuộc sống bình thường cho người đó.

3. Trường hợp người chưa thành niên là phạm nhân đã chấp hành xong án phạt tù mà đến ngày được trả tự do không rõ cha, mẹ và người giám hộ thì trại giam có trách nhiệm liên hệ với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có trại giam để đề nghị giúp đỡ, sắp xếp chỗ ăn, ở và tạo việc làm, học tập; trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã không thể bố trí được chỗ ăn, ở đối với họ thì trại giam lập hồ sơ đưa vào cơ sở bảo trợ xã hội tại địa phương đó.

4. Đối với phạm nhân là người dưới 16 tuổi hoặc là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị ốm đau, bệnh tật đến ngày được trả tự do mà không có thân nhân đến đón thì trại giam phải cử người đưa về giao cho gia đình hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó về cư trú.

5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Chương X

TÁI HÒA NHẬP CỘNG ĐỒNG

Điều 172. Chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng

1. Trường giáo dưỡng, trại giam có trách nhiệm tổ chức chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng cho người chưa thành niên trước khi chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành niên được chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành niên chấp hành xong án phạt tù, người chưa thành niên được đặc xá, người chưa thành niên được tha tù trước thời hạn có điều kiện. Nội dung chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng bao gồm:

a) Tư vấn tâm lý, hỗ trợ các thủ tục pháp lý;

b) Định hướng nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm;

c) Hỗ trợ một phần kinh phí từ Quỹ hòa nhập cộng đồng của trường giáo dưỡng, trại giam.

2. Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân tạo điều kiện, giúp đỡ người chưa thành niên chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành niên được chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành niên chấp hành xong án phạt tù, người chưa thành niên được đặc xá, người chưa thành niên được tha tù trước thời hạn có điều kiện tái hòa nhập cộng đồng bằng các biện pháp sau đây:

a) Thông tin, truyền thông, giáo dục về tái hòa nhập cộng đồng;

b) Dạy nghề, giải quyết việc làm;

c) Trợ giúp về tâm lý và hỗ trợ các thủ tục pháp lý;

d) Các biện pháp hỗ trợ khác.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 173. Tiếp nhận, hỗ trợ người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng

1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên về cư trú có trách nhiệm tổ chức, hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng cho người chưa thành niên. Thời gian hỗ trợ tối thiểu là 06 tháng kể từ khi tiếp nhận người chưa thành niên.

2. Nội dung hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng bao gồm:

a) Chỉ định người giúp đỡ người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng từ những người sau đây: người làm công tác xã hội, cộng tác viên công tác xã hội cấp xã, đại diện Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hoặc người có uy tín trong cộng đồng dân cư có điều kiện, khả năng và kinh nghiệm trong giáo dục, giúp đỡ người chưa thành niên;

b) Kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện và vận động nhân dân trong khu vực dân cư phối hợp chặt chẽ với gia đình trong việc giúp đỡ người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng;

c) Trợ giúp về tâm lý, hỗ trợ thủ tục pháp lý cần thiết cho người chưa thành niên;

d) Tạo điều kiện thuận lợi để người chưa thành niên tham gia các chương trình học tập, lao động, hướng nghiệp, học nghề, phát triển kỹ năng sống;

đ) Tuyên truyền, vận động nhân dân và thực hiện các biện pháp khác để xóa bỏ định kiến, kỳ thị, phân biệt đối xử đối với người chưa thành niên;

e) Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, doanh nghiệp, cá nhân tiếp nhận, giúp đỡ về học tập, lao động, hướng nghiệp, dạy nghề, tìm kiếm việc làm cho người chưa thành niên.

3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Điều 174. Trợ giúp về tâm lý

1. Trợ giúp về tâm lý nhằm hỗ trợ, giúp đỡ người chưa thành niên chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành niên được chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành niên chấp hành xong án phạt tù, người chưa thành niên được đặc xá, người chưa thành niên được tha tù trước thời hạn có điều kiện xây dựng niềm tin, nghị lực, ý chí phấn đấu tái hòa nhập cộng đồng và phòng tránh các hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật.

2. Nội dung trợ giúp về tâm lý gồm: tư vấn xóa bỏ mặc cảm tự ti; rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng hòa nhập cộng đồng; nâng cao khả năng tự giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong các quan hệ xã hội và các nội dung hỗ trợ khác.

3. Trợ giúp về tâm lý được thực hiện thông qua các hình thức sau đây:

a) Tổ chức tư vấn riêng, tư vấn nhóm;

b) Cung cấp thông tin, tài liệu trên cơ sở nhu cầu cần được trợ giúp;

c) Thông qua các buổi nói chuyện, sinh hoạt cộng đồng, diễn đàn;

d) Tư vấn thông qua mạng xã hội, trang thông tin điện tử, thư điện tử, điện thoại và các phương tiện thông tin, truyền thông khác.

Điều 175. Đào tạo nghề, tạo việc làm

1. Người chưa thành niên chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành niên được chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành niên chấp hành xong án phạt tù, người chưa thành niên được đặc xá, người chưa thành niên được tha tù trước thời hạn có điều kiện được ưu tiên đào tạo nghề và hỗ trợ vay vốn để tạo việc làm theo quy định của pháp luật.

2. Căn cứ nhu cầu của người chưa thành niên chấp hành xong biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành niên được chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, người chưa thành niên chấp hành xong án phạt tù, người chưa thành niên được đặc xá, người chưa thành niên được tha tù trước thời hạn có điều kiện và thực tiễn thị trường lao động, trung tâm dịch vụ việc làm tổ chức tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí cho họ; theo dõi, báo cáo tình trạng việc làm của họ do trung tâm giới thiệu với cơ quan quản lý nhà nước về dịch vụ việc làm.

3. Doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân không được phân biệt đối xử, kỳ thị khi tuyển dụng, sử dụng người lao động là người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi trở lên vì lý do trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng, đã bị kết án phạt tù.

Điều 176. Trách nhiệm của người được chỉ định giúp đỡ người chưa thành niên tái hòa nhập cộng đồng

1. Hỗ trợ về tâm lý cho người chưa thành niên.

2. Đề xuất các biện pháp hỗ trợ, can thiệp, bảo vệ phù hợp với người chưa thành niên trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng theo quy định của pháp luật.

3. Hỗ trợ kịp thời những vấn đề phát sinh trong quá trình giúp đỡ người chưa thành niên.

4. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.

Phần thứ năm

ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

Điều 177. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số chương, điều của luật có liên quan

1. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số chương, điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 như sau:

a) Bãi bỏ chương XII;

b) Bỏ từ “tư pháp” tại điểm g khoản 1 Điều 134.

2. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số chương, điều của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 02/2021/QH15 và Luật số 34/2024/QH15 như sau:

a) Sửa đổi, bổ sung Điều 7 như sau:

Điều 7. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự

Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định. Đối với việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử liên quan đến người chưa thành niên thì còn phải thực hiện theo quy định của Luật Tư pháp người chưa thành niên.”;

b) Bỏ cụm từ “quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát; quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội;” tại điểm đ khoản 1 Điều 37 và điểm h khoản 1 Điều 42;

c) Bãi bỏ điểm đ khoản 1 Điều 39;

d) Bỏ cụm từ “thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội;” tại điểm e khoản 2 Điều 45;

đ) Thay thế cụm từ “hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật Hình sự” bằng cụm từ “hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 của Bộ luật Hình sự hoặc người chưa thành niên được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng theo quy định của Luật Tư pháp người chưa thành niên” tại điểm a khoản 1 Điều 230 và khoản 1 Điều 248;

e) Bổ sung cụm từ “hoặc người chưa thành niên được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng theo quy định của Luật Tư pháp người chưa thành niên” vào sau cụm từ “của Bộ luật này” tại điểm a khoản 1 Điều 282;

g) Bỏ cụm từ “hoặc khoản 2 Điều 91” tại Điều 285;

h) Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 330 như sau:

“2. Quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị là quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và quyết định khác của Tòa án cấp sơ thẩm theo quy định của Bộ luật này, Luật Tư pháp người chưa thành niên.”;

i) Bãi bỏ chương XXVIII;

k) Bổ sung cụm từ “và quyết định tố tụng quy định tại chương VII và chương VIII của Luật Tư pháp người chưa thành niên” vào sau cụm từ “của Bộ luật này” tại khoản 1 Điều 470;

l) Bổ sung cụm từ “và hành vi tố tụng quy định tại chương VII và chương VIII của Luật Tư pháp người chưa thành niên” vào sau cụm từ “của Bộ luật này” tại khoản 2 Điều 470.

3. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của Luật Thi hành án hình sự số 41/2019/QH14 như sau:

a) Bỏ cụm từ “, giáo dục tại trường giáo dưỡng” tại khoản 4 Điều 2;

b) Bãi bỏ khoản 15 Điều 3, điểm b khoản 1 Điều 132, khoản 2 Điều 133, khoản 2 Điều 135, mục 4 chương IIImục 3 chương X;

c) Bỏ cụm từ “hoặc người chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng” tại khoản 17 Điều 3.

4. Thay thế cụm từ “biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn khi được miễn trách nhiệm hình sự” bằng cụm từ “biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng” tại khoản 1 Điều 71 của Luật Trẻ em số 102/2016/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 28/2018/QH14.

5. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 64/2014/QH13, Luật số 23/2018/QH14, Luật số 67/2020/QH14, Luật số 03/2022/QH15, Luật số 31/2024/QH15 và Luật số 43/2024/QH15 như sau:

a) Bổ sung cụm từ “của Tòa án, biện pháp xử lý chuyển hướng bồi thường thiệt hại trong quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án” vào sau cụm từ “quyết định hình sự” tại Điều 1;

b) Bổ sung khoản 3 vào sau khoản 2 Điều 2 như sau:

“3. Quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng bồi thường thiệt hại của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có hiệu lực pháp luật.”.

6. Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số khoản của Điều 7 của Luật Trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH14 như sau:

a) Sửa đổi, bổ sung khoản 5 như sau:

“5. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng, người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng, phạm nhân.”;

b) Bãi bỏ điểm đ khoản 7.

7. Sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 1 Điều 31 của Luật Cư trú số 68/2020/QH14 như sau:

“a) Đi khỏi phạm vi đơn vị hành chính cấp xã nơi đang cư trú từ 01 ngày trở lên đối với bị can, bị cáo đang tại ngoại; người bị kết án phạt tù nhưng chưa có quyết định thi hành án hoặc đã có quyết định thi hành án nhưng đang tại ngoại hoặc được hoãn chấp hành án, tạm đình chỉ chấp hành án; người bị kết án phạt tù được hưởng án treo đang trong thời gian thử thách; người đang chấp hành án phạt quản chế, cải tạo không giam giữ; người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đang trong thời gian thử thách; người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng, người chấp hành biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng nhưng đang được hoãn chấp hành hoặc tạm đình chỉ chấp hành;”.

Điều 178. Hiệu lực thi hành

1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2026, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

2. Quy định tại Điều 139, khoản 1 và khoản 2 Điều 162 của Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2028.

Điều 179. Quy định chuyển tiếp

1. Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2026:

a) Đối với vụ việc, vụ án đang trong quá trình giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm mà đến ngày 01 tháng 01 năm 2026 chưa kết thúc thì áp dụng các quy định của Luật này để giải quyết vụ việc, vụ án, trừ thời hạn điều tra, thời hạn quyết định việc truy tố hoặc thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam, việc tách vụ án được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trường hợp giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử mà chưa có sự tham gia tố tụng của người làm công tác xã hội thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án yêu cầu người làm công tác xã hội tham gia tố tụng theo quy định của Luật này.

Trường hợp thời hạn điều tra, thời hạn quyết định việc truy tố hoặc thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm còn lại không đủ thời gian để áp dụng đầy đủ thủ tục xử lý chuyển hướng nhưng có các căn cứ để áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng quy định tại các điều 35, 37 và 39 của Luật này thì cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án xem xét, ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người chưa thành niên;

b) Đối với vụ án đang trong giai đoạn xét xử phúc thẩm mà đến ngày 01 tháng 01 năm 2026 chưa kết thúc thì Toà án cấp phúc thẩm phải căn cứ vào các quy định của Luật này để tiếp tục giải quyết vụ án, trừ thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, thời hạn tạm giam được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trường hợp xét thấy người chưa thành niên có căn cứ để áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng quy định tại các điều 35, 37 và 39 của Luật này thì Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm và quyết định áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng trong bản án phúc thẩm;

c) Đối với vụ án do Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đang thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng đến ngày 01 tháng 01 năm 2026 chưa kết thúc thì thẩm quyền giải quyết tiếp tục được áp dụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự cho đến khi kết thúc điều tra;

d) Đối với những bị can, bị cáo đang bị tạm giam theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng đến ngày 01 tháng 01 năm 2026 không bị tạm giam theo quy định của Luật này thì Viện kiểm sát, Tòa án quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam đang áp dụng hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của Luật này và Bộ luật Tố tụng hình sự;

đ) Đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà đến ngày 01 tháng 01 năm 2026 chưa được thi hành hoặc chưa thi hành xong thì áp dụng các quy định của Luật này và pháp luật có liên quan để thi hành.

2. Các điều khoản của Luật này quy định về hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, tù có thời hạn, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, giảm mức hình phạt đã tuyên, án treo, hoãn chấp hành hình phạt tù, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội quy định tại chương VI của Luật này được áp dụng kể từ ngày Luật này được công bố.

3. Các điều khoản của Luật này quy định về biện pháp xử lý chuyển hướng, hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, tù có thời hạn, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt, giảm mức hình phạt đã tuyên, án treo, hoãn chấp hành hình phạt tù, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội quy định tại chương III và chương VI của Luật này thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2026 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, hoãn chấp hành hình phạt tù, xóa án tích.

4. Đối với những hành vi phạm tội đã có bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước ngày 01 tháng 01 năm 2026 thì không được căn cứ vào những quy định của Luật này có nội dung khác so với các điều luật đã được áp dụng khi tuyên án để kháng nghị giám đốc thẩm, trừ trường hợp vi phạm quy định tại khoản 2 Điều này; trường hợp kháng nghị dựa vào căn cứ khác hoặc đã kháng nghị trước ngày 01 tháng 01 năm 2026 thì việc xét xử giám đốc thẩm phải tuân theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.

5. Trường hợp người phạm tội đã bị kết án phạt tù trước ngày Luật này được công bố theo đúng các văn bản trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật nếu người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có mức hình phạt tù cao hơn 09 năm và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 119, Điều 121 và Điều 122 của Luật này hoặc người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có mức hình phạt tù cao hơn 15 năm và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 119, Điều 121 và Điều 122 của Luật này thì kể từ ngày Luật này được công bố giải quyết như sau:

a) Trường hợp họ đã chấp hành bằng hoặc quá mức hình phạt tù cao nhất quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 119 của Luật này thì trại giam rà soát, có văn bản đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu nơi họ đang chấp hành án quyết định miễn chấp hành phần hình phạt tù còn lại;

b) Trường hợp họ đã chấp hành được một phần hình phạt nhưng chưa đến mức hình phạt tù cao nhất quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 119 của Luật này thì trại giam rà soát, có văn bản đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu nơi họ đang chấp hành án quyết định giảm mức hình phạt tù đã tuyên xuống còn 09 năm đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc 15 năm đối với người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi;

c) Trường hợp họ đang được hoãn chấp hành hình phạt tù thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện hoặc cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu rà soát, có văn bản đề nghị Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án quyết định giảm mức hình phạt tù đã tuyên xuống còn 09 năm đối với người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc 15 năm đối với người phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.

6. Trường hợp người chưa thành niên bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo trước ngày Luật này được công bố theo đúng các văn bản trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật nếu họ có thời gian thử thách trên 03 năm thì kể từ ngày Luật này được công bố giải quyết như sau:

a) Trường hợp họ đã chấp hành thời gian thử thách bằng hoặc quá 03 năm thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có văn bản đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi họ cư trú quyết định rút ngắn hết thời gian thử thách còn lại;

b) Trường hợp họ đã chấp hành được một phần thời gian thử thách nhưng chưa đến 03 năm thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có văn bản đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi họ cư trú quyết định rút ngắn thời gian thử thách xuống còn 03 năm.

7. Khi thực hiện quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều này, Tòa án cần giải thích cho người được miễn chấp hành phần hình phạt tù còn lại, giảm mức hình phạt tù đã tuyên, rút ngắn thời gian thử thách của án treo biết là việc miễn, giảm, rút ngắn là do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước ta, mà không phải oan sai do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra; do đó, họ không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Luật này được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 30 tháng 11 năm 2024.

CHỦ TỊCH QUỐC HỘI




Trần Thanh Mẫn

NATIONAL ASSEMBLY OF VIETNAM
--------

THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM
Independence – Freedom – Happiness
---------------

Law No: 59/2024/QH15

Hanoi, November 30, 2024

LAW

ON JUVENILE JUSTICE

Pursuant to the Constitution of the Socialist Republic of Vietnam;

The National Assembly issues Law on Juvenile Justice.

Part one

GENERAL PROVISIONS

Chapter I

SCOPE OF REGULAITON AND BASIC RULES

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



This Law provides diversion, penalties for juvenile delinquent; legal proceedings for juveniles who are persons facing denunciation or requisitions for charges, persons held in emergency custody, persons facing charges, crime victims, witness testifiers; enforcement of imprisonment sentences, community integration for juveniles; tasks, powers and responsibilities of agencies, organizations, individuals, families in juvenile justice.

Article 2. Application of Law on Juvenile Justice and relevant laws

Criminal information, filing of charges, settlement of criminal cases, diversion, enforcement of imprisonment sentences, community integration in respect of juveniles shall comply with this Law and Criminal Code, Criminal Procedure Code, Law on Enforcement of Criminal Judgments, and other laws that are not against this Law.

Article 3. Term interpretation

For the purposes of this Law, the terms below shall be construed as follows:

1. Juvenile delinquent means persons from 14 to under 18 years of age who commit crime specified in Criminal Code.

2. Accused juvenile means persons who are arrested, detainees, suspects, and defendants from 14 to under 18 years of age.

3. Juvenile victim means persons under 18 suffering from direct damage to physical body, mentality and property are impaired or threatened.

4. Juvenile witness testifier means persons under 18 that possess knowledge of facts relating to the crime and lawsuit and receive competent procedural agencies' subpoena to testify.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



6. Representatives of a juvenile include:

a) Parents;

b) Guardian;

c) Person designated by the Court.

7. Juvenile justice means regulations on policies, measures to handle juveniles; juvenile-friendly procedures in diversion, criminal information, filing of charges, investigation, prosecution, adjudication, enforcement of imprisonment sentences, community integration; task, powers and responsibilities of relevant agencies, organizations, individuals.

8. Diversion measure means supervision, education, prevention measures for juvenile delinquents, including community-based diversion measures specified in clause 1 to 11 of Article 16 of this Law and educational measures at reformatory specified in clause 12 of Article 36 of this Law.

9. Diversion procedure means procedures for consideration, decision on enforcing diversion measures on juvenile suspects, defendants specified in this Law.

10. Social worker in juvenile justice (hereinafter referred to as “social worker(s)") means officials, public employees engaging in social work, individuals in charge of child protection affairs at the communal level, socio-cultural officials at the communal level, and other social workers in accordance with law.

11. Social investigation report (SIR) means a report made by social workers on information about identity, family relationships, living conditions, education, health history, maturity level of the juvenile, and other relevant information that may affect the delinquency of the juvenile suspect, defendant.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 4. Funding, cost, support for juvenile justice

1. Funding for juvenile justice covered by the state budget and other lawful funding in accordance with law.

2. The State budget shall cover the following:

a) Facilities for conducting juvenile-friendly legal proceedings;

b) Organization of the enforcement of electronic supervision measures;

c) Organization of enforcement of decision on community-based diversion measures;

d) Organization of enforcement of decision on educational measures at reformatory;

dd) Facilities of reform schools, separate prison, prison divisions, and areas for detention for juveniles; board and lodging, clothing, accommodation, daily necessities, medical care, cultural education, vocational education, job training, labor, cultural and artistic activities, and entertainment for juvenile reformatory inmates;

e) Expenditures of the National Fund for Vietnamese Children for juvenile justice;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



h) Expenses for social workers participating in legal proceedings, persons directly supervising the enforcement of decisions on applying diversion measures, persons assigned to help juveniles in community integration; expenses for medical, psychological, educational, sociological experts, representatives of educational institutions, vocational training institutions, representatives of the Vietnam Fatherland Front Committee, member organizations of the Front and other agencies, organizations and individuals participating in the process of resolving cases at the request of competent agencies and persons;

i) Other contents in respect of juvenile justice covered by the state budget accordance with relevant law.

3. Reform schools are allowed to accept material assistance from local authorities, domestic agencies, organizations, individuals, and foreign individuals and organizations to organize cultural education, career education, vocational training, and the purchase of learning and living supplies for students.

4. The Government shall elaborate this Article.

Article 5. Ensuring best interest

1. When resolving cases involving juveniles, their best interests must be ensured.

2. Juvenile delinquents shall only be prosecuted when necessary and primarily for educational purposes, aiming to assist them in correcting their mistakes, fostering healthy development, and becoming useful citizens to society.

3. The handling of Juvenile delinquent must be based on the criminal behavior, identity, age, level of maturity, their understanding of the societal harm caused by the offense, the reasons, conditions leading to the crime, and the requirements for crime prevention.

4. The safety of juveniles during legal proceedings, the enforcement of educational measures at reformatory, and the enforcement of imprisonment sentences shall be ensured in accordance with law.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 6. Ensuring friendly legal proceedings

Juvenile-friendly legal proceedings must be simple, friendly, aligned with the psychological state, age, level of maturity, and cognitive abilities of the juveniles.

Article 7. Equal treatment

1. Ensuring fairness, non-discrimination, and equal treatment for juveniles.

2. Addressing the legitimate needs of juveniles regarding gender, juveniles who are ethnic minorities, and vulnerable populations.

Article 8. Right to be promptly and fully informed

Juveniles have the right to receive complete and timely information in simple, friendly, and understandable language regarding matters related to the resolution of cases.

Article 9. Ensuring right to have a representative

Juveniles are ensured the right to have a representative participates in the process of resolving cases.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Cases involving juveniles must be resolved as quickly as possible, limiting extensions and prioritizing simplified procedures.

Article 11. Prioritizing application of diversion measures

1. The diversion measures are prioritized for Juvenile delinquents at all stages, including investigation, prosecution, and adjudication.

2. The application of diversion measures must be aligned with the interests of Juvenile delinquents and the community.

Article 12. Penalty application

1. The penalties imposed on Juvenile delinquents primarily aim to educate them on respecting and obeying the law and ethical standards, guiding their lifestyles, preventing further offenses, and serving as a deterrent against crime.

2. The court shall only impose penalties on Juvenile delinquents if the diversion measures are deemed ineffective as deterrents. In cases where penalties must be applied, priority is given to warnings, fines, community sentence, and suspended sentences.

3. Juvenile delinquents are not subject to life imprisonment or the death penalty.

4. The court shall only impose definite imprisonment on Juvenile delinquents if the diversion measures are deemed ineffective as deterrents.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



6. Juvenile delinquents are not subject to additional penalties.

7. The sentence pronounced against Juvenile delinquents, if falling under the following cases, is not considered when determining recidivism or dangerous recidivism:

a) Offenders from 14 to 16 years of age;

b) Offenders from 16 to 18 years of age who involuntarily commit a less serious crime, serious crime or very serious crime;

Article 13. Ensuring confidentiality of personal privacy

1. The confidentiality of personal privacy of juveniles must be respected and protected throughout the process of receiving and handling criminal information, prosecution, investigation, adjudication, diversion, sentence enforcement, and community integration.

2. The court conducts private hearings for criminal cases involving juveniles who are victims of gender-based violence or in other special cases requiring the protection of juveniles.

3. Juvenile victims or witnesses participating in legal proceedings must be provided with an isolated room or other protective measures.

Article 14. Right to defense, rights to receive legal aid, interpretation

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. Competent procedural agencies, persons shall notify and explain to the accused juvenile and ensure that they fully carry out their right to defense in accordance with law.

3. Juveniles participating the criminal procedures shall receive free legal aid and interpretation.

Article 15. Minimizing the application of preventive measures, coercive measures

1. Preventive measures and coercive measures shall only apply to juveniles when deemed necessary.

2. Temporary detainment and detention shall only apply to juveniles when there are grounds proven that other measures are not effective.

Competent procedural agencies, persons must regularly supervise, review, and inspect the custody, detention of juveniles; if there are no longer grounds or necessity for temporary detainment, detention, a decision must promptly be made to cancel it and replace it with other preventive measures.

Article 16. Specialization in juvenile justice

Investigators, prosecutors, and judges handling cases involving juveniles must be individuals who have been trained, educated, or have experience in investigating, prosecuting, and adjudicating cases related to juveniles, or have the necessary understanding of the psychology and educational sciences of juveniles.

Article 17. Ensuring and respecting right to participate, express opinions

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. Competent procedural agencies, persons must listen to the opinions, wishes, and concerns of juveniles in a manner appropriate to their age, gender, level of maturity, and development.

Article 18. Ensuring the effect of decision on applying diversion measures

1. An effective decision on applying diversion measures must be respected by agencies, organizations, individuals; strictly implemented by relevant agencies, organizations, individuals.

2. Agencies, organizations, individuals, within their jurisdiction shall cooperate and implement request of competent agencies and individuals in enforcement of decision on applying diversion measures.

Article 19. Ensuring appropriate enforcement of educational measures at reformatory, enforcement of imprisonment

1. During the enforcement of educational measures at reformatory, enforcement of imprisonment sentences, juveniles must be protected, educated, rehabbed, and reintegrated into the community.

2. Reform schools, prisons must provide facilities that are suitable for the age, gender, and development of juveniles.

3. Juveniles serving imprisonment shall be held in prisons, prison divisions, and designated areas for detention of juvenile inmates.

Article 20. Ensuring community reintegration

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. Ensure participation from agencies, organizations, individuals and families in community reintegration in accordance with law.

3. Strictly prohibit discrimination and prejudice against juveniles who have completed educational measures at reformatory or imprisonment.

Chapter II

RIGHTS AND OBLIGATIONS OF AGENCIES, ORGANIZATIONS, INDIVIDUALS IN JUVENILE JUSTICE

Article 21. Rights and obligations of juveniles who are persons facing denunciation or requisitions for charges, persons held in emergency custody, persons facing charges

1. Juveniles who are persons facing denunciation or requisitions for charges, persons held in emergency custody, persons facing charges have the following rights and obligations:

a) Rights and obligations in accordance with Criminal Procedure Code;

b) Having a representative participating in legal proceedings;

c) Receiving support from medical, psychological, educational, and sociological experts if necessary;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



dd) Being ensured confidentiality of personal privacy throughout the process of resolving cases;

e) Receiving legal aid in accordance with law;

g) Receiving notification and explanation regarding rights and obligation prescribed in this Law;

h) Other rights and obligations in accordance with this Law.

2. In addition to right and obligations specified in clause 1 of this Article, juveniles who are suspects, defendants shall also have the following rights and obligations:

a) Requesting application of Diversion measures;

b) Receiving assistance from social worker during legal proceedings;

c) Complaining about decision on applying Diversion measures.

Article 22. Rights and obligations of juveniles who are victims, witnesses

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



a) Rights and obligations in accordance with Criminal Procedure Code;

b) Having a representative participating in legal proceedings;

c) Receiving support from medical, psychological, educational, and sociological experts if necessary;

d) Being provided with complete and timely information in simple, friendly, and understandable language regarding matters related to resolving cases;

dd) Being ensured confidentiality of personal privacy throughout the process of resolving cases;

e) Receiving legal aid in accordance with law;

g) Receiving notification and explanation regarding rights and obligation prescribed in this Law;

h) Receiving assistance from social worker during legal proceedings;

i) Receive recompense and assistance in accordance with this Law and relevant laws;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



l) Other rights and obligations in accordance with this Law.

2. Juveniles who are witnesses shall have rights and obligations specified from point a to g of this Article and other rights and obligations in accordance with this Law.

Article 23. Rights and obligations of persons serving diversion measure

1. Persons serving diversion measure have the following rights:

a) Receiving notification and explanation regarding rights and obligation prescribed in this Law;

b) Being provided with opportunities for work, education, job orientation, vocational training; Participate in counseling and life skills development programs;

c) Expressing wishes and proposals with the Chairman of the commune-level People's Committee; the person directly supervising the enforcement of decisions on applying diversion measures; the Principal, officials, and teachers at the reform school;

d) Being ensured confidentiality of personal privacy throughout the implementation of Diversion measure;

dd) Being granted a certificate of the completion of diversion measures;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. Persons serving diversion measure have the following obligations:

a) Complying with decision on applying Diversion measures;

b) Complying with the law, internal regulation of place of residence, study, or work;

c) Undergoing supervision and education by competent agencies, organizations, or individuals during the implementation of diversion measures;

d) Reporting on the compliance with diversion measures when requested;

dd) Appearing before competent authorities when required during the implementation of decisions applying community-based diversion measures.

3. Other rights and obligations in accordance with law.

Article 24. Rights and obligations of juveniles who are inmates

1. Rights and obligations in accordance with Law on Enforcement of Criminal Judgments.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



3. Being provided with appropriate cultural education in accordance with education laws.

4. Participating in cultural, artistic, physical, sports, and recreational activities suitable for their age and gender that are organized by the prison that are suitable for their age and gender.

5. Receiving notification and explanation regarding rights and obligation prescribed in this Law.

6. Other rights and obligations in accordance with this Law.

Article 25. Determining the age of juveniles who are accused persons, victims

1. The age of juveniles who are accused persons, victims shall be determined by competent procedural agencies, persons in accordance with law. The age shall be determined based on: Notice of Birth, Birth certificate, 9-digit Identity card, 12-digit Citizen identity card, 12-digit Identity card, Identity certificate, Passport or information in the national population database, other specialized databases.

In case documents, records, or information in the databases mentioned above are contradictory, unclear, or lacking, the competent procedural agencies, persons must cooperate with the family, legal representatives, relatives, educational institutions, vocational training institutions, Ho Chi Minh Communist Youth Union, or other relevant organizations and individuals where the person studies, works, or resides to verify, clarify contradiction, or find other valuable documents or records proving their age.

2. In cases where legal measures have been applied but the exact date of birth cannot be determined, the date of birth shall be determined as follows:

a) If the month is determined but the date is not, the last day of that month shall be chosen as the birth date.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



c) If the half of the year is determined but the date and month are not, the last day of the last month in that half year shall be chosen as the birth date.

d) If the year is determined but the date and month are not, the last day of the last month in that year shall be chosen as the birth date.

3. In cases where the birth year cannot be determined, an examination must be conducted to ascertain the age.

Article 26. National Council of Juvenile Justice

1. The National Council of Juvenile Justice is established by the Prime Minister. The Prime Minister shall determine the members of the National Council of Juvenile Justice established by the Prime Minister based on request of the standing body of the Council.

2. The National Council of Juvenile Justice shall operate based on an inter-sectoral coordination mechanism. Members of the National Council on Juvenile Justice shall perform assigned tasks and powers and work part-time.

3. The National Council of Juvenile Justice shall have the following tasks and powers:

a) Instructing and urging ministries, central authorities to resolve matters regarding juvenile justice;

b) Proposing solutions to implement matters related to juvenile justice;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



d) Instructing and urging ministries, central authorities to report to the National Assembly on the results of performing tasks related to juvenile justice in the annual work report;

dd) Instructing and urging social work related to juvenile justice; instructing the disclosure of the list of social workers in juvenile justice, and providing professional training and refresher training for social workers in juvenile justice;

e) Giving instruction on statistics, information, and reports on juvenile justice;

g) Other task requested by the Prime Minister and competent authorities.

4. The Government shall elaborate this Article.

Article 27. Standing body of National council of juvenile justice

1. The Standing body of National council of juvenile justice is the Ministry of Public Security.

2. The Standing body shall have the following tasks and powers:

a) Providing assistance to the National Council of Juvenile Justice in carrying out their tasks and powers;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



c) Other tasks and powers specified in this Law and relevant laws.

3. The Government shall elaborate this Article.

Article 28. Responsibilities of competent procedural agencies, persons

1. Competent procedural agencies, persons shall complying with regulations on diversion, penalties, legal proceedings, and have other responsibilities in accordance with law; ensure lawful rights and interests of juveniles.

2. Competent procedural agencies, persons shall provide necessary information about the process of diversion, the legal proceedings, and the exercise of rights and obligations for the participants in the legal proceedings who are juveniles, their representatives, defenders, and protectors of their lawful rights and interests.

Article 29. Presiding officers

1. Investigators, Prosecutors and Judges engaging in juvenile justice must satisfy one of the following conditions:

a) Having completed training, refresher training in skills for resolving cases involving juveniles;

b) Having experience in investigating, prosecuting, and adjudicating cases involving juveniles;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. The adjudication panel participating in the first-instance adjudication of cases involving juveniles must include at least one person who is a teacher, a member of the Ho Chi Minh Communist Youth Union, or an individual with experience working in fields of justice, management, training, protection, care or education of juveniles, or someone trained in psychology and educational sciences of juveniles.

Article 30. Responsibilities of the Vietnam Fatherland Front and its member organizations

1. The Vietnam Fatherland Front and its member organizations, within their jurisdiction, shall encourage union members, association members, and people of all walks of life to implement this Law; participate in supervision and social criticism in the field of juvenile justice.

2. The Vietnam Fatherland Front shall encourage its member organizations to support, assist, and protect the lawful rights and interests of juveniles in juvenile justice.

Article 31. Responsibilities of other agencies, organizations, individuals

1. Other agencies, organizations, individuals shall have the following responsibilities:

a) Closely and promptly cooperating with competent procedural agencies, persons;

b) Assisting, enabling execution of rights and obligations of juveniles;

c) Cooperating and exchanging information with competent procedural agencies, persons;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



dd) Other tasks in accordance with Law.

2. Representatives, defenders, and protectors of the lawful rights and interests of juveniles; representatives of educational institutions, vocational training institutions, the Ho Chi Minh Communist Youth Union, the Vietnam Women's Union, and other relevant agencies, organizations, and individuals must be present and fully participate in legal proceedings and other activities in accordance with the decisions or requests of competent agencies and individuals.

3. Reform schools and prisons shall ensure compliance with regulations on enforcement of educational measures at reformatory, enforcement of imprisonment, community reintegration, and other responsibilities as prescribed by law; and ensure the lawful rights and interests of juveniles.

Reform schools and prisons shall improve the competence of officials and teachers in management and education skills that are appropriate to juveniles.

4. Legal aid-providing organizations and Bar Federations shall provide legal aid assistants and lawyers with refresher training and guidance on skills to defend and protect lawful rights and interests of juveniles and legal aid skills for juveniles.

Article 32. Social workers

1. Social workers in juvenile justice must satisfy the following conditions:

a) Having knowledge about laws on juveniles;

b) Having completed training and refresher training in psychology and educational sciences of juveniles or having experience, understanding of juvenile psychology, or having skills of communication with juveniles.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



a) Formulating social investigation reports and diversion plans;

b) Participating in providing appropriate support and intervention to juveniles when requested;

c) Participate in meetings and trials as prescribed by this Law;

d) Participating in the enforcement of decisions on applying community-based diversion measures and community integration for juveniles in accordance with the law;

d) Being reimbursed for expenses when participating in juvenile justice in accordance with the law;

dd) Other tasks and powers in accordance with this Law.

3. Social workers shall participate in juvenile justice cases on a case-by-case basis.

4. A social worker may provide support to multiple accused persons or multiple victims but may not assist both the accused person and the victim in the same case.

5. Provincial People's Committees shall disclose the list of social workers in juvenile justice in their area.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



1. Parents, caregivers of juveniles and other family members shall have the following responsibilities:

a) Complying with the law and decisions of competent authorities and individuals in juvenile justice;

b) Regularly communicate with responsible agencies, organizations, and individuals for guidance and assistance in implementing decisions on applying diversion measures and community reintegration for juveniles;

c) Comply with decisions, measures, and regulations of competent authorities, individuals to ensure the safety, protection of life, health, dignity, honor, property, personal privacy, other lawful rights and interests of juveniles.

2. 2. Parents or guardians of juveniles shall participate in the process of resolving the case; select a defender, protector of lawful rights and interests, or defend and protect the lawful rights and interests of juveniles in the legal proceedings in accordance with law.

3. Parents or guardians of accused juveniles are responsible for compensating for damages and fulfilling other responsibilities as prescribed by law.

Part two

DIVERSION FOR ACCUSED JUVENILES

Chapter III

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 34. Purposes of Diversion

1. Promptly and effectively handle juveniles.

2. Assist juveniles in changing their perceptions, recognizing and correcting their mistakes, self-improvement, preventing the causes of criminal behavior, and educating them to become useful citizens for society

3. Promote mediation between juveniles and victims affected by the juveniles’ crime.

4. Enhance the responsibility of families and communities directly participating in diversion.

5. Limit the negative impacts of criminal procedures on juveniles.

6. Prevent juveniles from committing new crimes and enable community reintegration.

Article 35. Application of diversion measures

1. The application of diversion measures must consider the nature and severity of the offense; the educational and rehabilitation possibilities of juvenile delinquents, and the safety of victims and the community.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



3. Juvenile delinquents may be subject to one or more community-bases diversion measures. The diversion measures specified in Articles 6, 7, 8, 9, 10, and 11 of this Law must be applied simultaneously with one or multiple diversion measures specified in Articles 1, 2, 3, 4, and 5 of this Law.

In cases where juvenile offenders are subject to multiple community-based diversion measures but must also fulfill the obligations specified in points b, c, d, and dd of Article 23.2 of this Law, the duration of fulfilling these obligations must not exceed the maximum time limit prescribed for the applied measures.

4. Educational measures at reformatory shall not be applied simultaneously with community-based diversion measures.

5. Diversion measures shall be applied if the offender has reached the age of 18 at the time of consideration.

Article 36. Diversion Measures

1. Reprimand.

2. Apology to the victim.

3. Damage compensation

4. Education in the community.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



6. Restriction on movement.

7. Prohibition on contact with individuals at risk of influencing the juvenile to commit new crime.

8. Prohibition from visiting places that may lead the juvenile to commit new crime.

9. Participation in educational or vocational programs.

10. Participation in treatment or psychological counseling.

11. Community service.

12. Education at reformatory.

Article 37. Cases eligible for diversion measures

Juvenile delinquents falling into one of the following cases, if not exempt from criminal liability according to the provisions of the Criminal Code, may be eligible for diversion measures:

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. Individuals from 16 to under 18 years of age who involuntarily commit very serious crime, serious crime or less serious crime as defined by the Criminal Code, except for cases specified in clauses 2 and 3 of Article 38 of this Law.

3. Juveniles who are accomplices with insignificant roles in the case.

Article 38. Cases ineligible for diversion measures

1. Juveniles from 14 to under 16 years of age are not eligible for diversion measures if they fall into one of the following cases, except as specified in clause 3 of Article 37 of this Law:

a) Commit a very serious crime such as: Murder, Rape, Rape of a person under 16, Non-consensual intercourse with a person from 13 to under 16 years of age, Illegal manufacturing of narcotic substances;

b) Commit a very serious crime multiple times, or commit multiple very serious crimes as defined by the Criminal Code;

c) Commit an extremely serious crime multiple times as defined by the Criminal Code.

2. Juveniles from 16 to under 18 years of age are not eligible for diversion measures if they fall into one of the following cases, except as specified in clause 3 of Article 37 of this Law:

a) Committing a very serious crime such as: Rape, Illegal manufacturing of narcotic substances, Illegal possession of narcotic substances, Illegal trading of narcotic substances, Illegal trafficking of narcotic substance, Appropriation of narcotic substances;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



c) Deliberately committing a serious crime multiple times, or commit multiple serious crimes as defined by the Criminal Code;

d) Deliberately committing a very serious crime, or committing an extremely serious crime as defined by the Criminal Code;

3. Juveniles who have been subject to diversion measures but commit new crime are not eligible for diversion measures.

Article 39. Requirements for application of diversion measures

Juvenile delinquents falling under the cases specified in Article 37 of this Law may be eligible for application of diversion measures when they satisfy the following requirements:

1. There is evidence confirming that the juvenile has committed the a crime

2. The juvenile admits to having committed a crime;

3. The juvenile consents in writing to the diversion.

Article 40. Reprimand

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. Reprimand shall apply to the following cases:

Individuals from 16 to under 18 of age who involuntarily commit very serious crime, or commit a less serious crime as defined by the Criminal Code;

b) Juveniles who are accomplices with insignificant roles in the case.

3. Juvenile delinquents subject to reprimand must fulfill the obligations specified in clause 2 of Article 23 of this Law from 3 months to 1 year.

Article 41. Apology to the victim

1. Apology to the victim means juvenile delinquents admitting their mistakes to the victims and wishing to be forgiven for the crime that they have committed. Apology to the victim shall be carried out immediately during the session to consider and decide on the application of diversion measures, trials.

2. Apology to the victim shall apply to the following cases:

a) Individuals from 14 to under 16 of age who commit an extremely serious crime as defined by the Criminal Code, except for cases specified in point a of clause 2 of Article 51 of this Law;

b) Individuals from 16 to under 18 of age who commit a less serious crime or serious crime as defined by the Criminal Code, except for cases specified in point b of clause 2 of Article 51 of this Law;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



3. Apology to the victim shall be applied with the consent of the victim or their representative.

4. Juvenile delinquents subject to apology to the victim must fulfill the obligations specified in clause 2 of Article 23 of this Law from 3 months to 1 year.

Article 42. Damage compensation

1. Damage compensation means that the juvenile delinquents or their parents shall compensate victims for the physical and mental damages affecting the life, health, dignity, reputation, character, or property that are caused by the crime.

2. Damage compensation shall apply to the following cases:

a) Individuals from 14 to under 16 of age who commit an extremely serious crime as defined by the Criminal Code, except for cases specified in point a of clause 2 of Article 51 of this Law;

b) Individuals from 16 to under 18 of age who commit a less serious crime or serious crime as defined by the Criminal Code, except for cases specified in point b of clause 2 of Article 51 of this Law;

c) Juveniles who are accomplices with insignificant roles in the case.

3. Damage compensation shall be applied with the consent of the victim or their representative. The competent authority determines the time for fulfilling the obligation to compensate for damages, not exceeding 01 year.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 42. Education in the community

1. Education in the community means that juvenile delinquents shall be put under the management, supervision, and education of the People's Committee of the commune where they reside regarding compliance with the law, performance of civic duties, and compliance with the internal regulations of their place of residence, study or work.

2. Education in the community shall apply to the following cases:

a) Individuals from 14 to under 16 of age who commit an extremely serious crime as defined by the Criminal Code, except for cases specified in clause 3 of Article 37 of this Law and crime specified in point a of Article 51 of this Law;

b) Individuals from 16 to under 18 of age who commit a less serious crime or serious crime as defined by the Criminal Code, except for cases specified in clause 3 of Article 37 of this Law and crime specified in point a of Article 51 of this Law;

3. The duration of applying the educational measure at the community and fulfilling the obligations specified in clause 2 of Article 23 of this Law is from 6 months to 2 years.

Article 44. House arrest

1. House arrest means that juvenile delinquents shall stay at home under direct supervision of their family and only be allowed to leave the house when necessary with the permission from the person directly supervising the enforcement of decision on applying diversion measures.

2. House arrest shall be applied in the following cases:

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



b) Individuals from 16 to under 18 of age who unintentionally commit a very serious crime or commit serious crime as defined by the Criminal Code, except for cases specified in clause 3 of Article 37 of this Law and crime specified in point a of Article 51 of this Law.

3. House arrest shall be applied upon the request and commitment of the father, mother, grandfather, grandmother, elder brother, or elder sister who are adults living in the same household as the juvenile delinquents. The requester must ensure that he/she has a clear place of residence, has adequate facilities, and is capable of caring for, educating, and directly supervising the juvenile delinquents.

4. The duration of applying the house arrest and fulfilling the obligations specified in clause 2 of Article 23 of this Law is from 03 months to 1 year.

Article 45. Restriction on movement

1. Restriction on movement means limiting juvenile delinquents from leaving their home during specific hours from 6:00 PM of the previous day to 6:00 AM of the following day, except when necessary and permitted by the person directly supervising the enforcement of decision on applying diversion measures.

2. The duration of restriction on movement is from 03 to 06 months.

Article 46. Prohibition on contact with individuals at risk of influencing the juvenile to commit new crime

1. Prohibition on contact with individuals at risk of influencing the juvenile to commit new crime means prohibiting juvenile delinquents from communicating, contacting, or approaching victims, accomplices, or individuals who may have a negative influence on the behavior of the juvenile at risk of prompting them to commit new crime.

2. The duration of applying prohibition on contact with individuals at risk of influencing the juvenile to commit new crime is from 06 months to 01 year.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



1. Prohibition from visiting places that may lead the juvenile to commit new crime means prohibiting juvenile delinquents from visiting places where criminal acts have been committed or places with similar environments to those where the crimes have been committed, which may pose a risk of prompting the juvenile delinquent to commit new crime.

2. The duration of applying prohibition from visiting places that may lead the juvenile to commit new crime is from 06 months to 01 year.

Article 48. Participation in educational or vocational programs

1. Participation in educational or vocational programs means that juvenile delinquents must learn about law, ethics, civic duties, problem-solving skill, life skills, or participate in vocational training.

2. Educational institutions and vocational training institution selected by the presiding authorities shall educate and train juvenile delinquents and cooperate with the person directly supervising the enforcement of decision on applying diversion measures.

3. The duration of applying measures of participation in educational or vocational programs is no more than 01 year

4. The Government shall elaborate this Article.

Article 49. Participation in treatment or psychological counseling

1. Participation in treatment or psychological counseling is the provision of therapy, medical intervention to overcome mental, emotional, mood, health problems that lead to juvenile delinquency.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



3. The duration of applying measures of participation in treatment or psychological counseling is no more than 01 year

4. The Government shall elaborate this Article.

Article 50. Community service

1. Community service involves directly serving the community where juvenile delinquents reside, including:

a) Participating in planting and caring for greenery in public areas; repairing, cleaning village roads, alleys, streets, community centers, or other public works;

b) Engaging in other activities to improve the living environment and landscape of the community.

Assisting and supporting the elderly, persons with disabilities, individuals in special circumstances, or other voluntary activities to enhance awareness, responsibility, and community connection and sharing.

2. The total duration of community service shall be from 20 to 80 hours. Community service shall not exceed 4 hours per day, 5 days per week, and shall not be conducted between 8:00 PM the previous day and 6:00 AM the following day.

3. Enforcement of community service must ensure safety, avoid discrimination, and not adversely affect the education of the juvenile.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 51. Education at reformatory

1. Education at reformatory means that juvenile delinquents shall be obligated to study culture, participate in vocational training, work, and live under the management and education of an educational organization with strict discipline in accordance with law.

2. Education in the community shall apply to the following cases:

a) Individuals from 14 to under 16 years of age who commit a very serious crime such as: Deliberate infliction of bodily harm upon another person, Human trafficking, Trafficking of a person aged under 16, Illegal possession of narcotic substances, Robbery, Snatching , Illegal trading of narcotic substances, Illegal trafficking of narcotic substance, Appropriation of narcotic substances, except in cases where the juvenile is an accomplice with an insignificant role in the case;

b) Individuals from 16 to under 18 years of age who commit a very serious crime such as: Deliberate infliction of bodily harm upon another person, Robbery, Snatching, except in cases where the juvenile is an accomplice with an insignificant role in the case;

c) Other cases requiring application due to the seriousness of the crime, identity, and living environment of the juvenile delinquent.

d) Other cases specified in clause 3 of Article 82 of the Law.

3. The duration of educational measures at reformatory is from 06 to 02 months.

Chapter IV

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Section 1. GENERAL PROVISIONS

Article 52. Authority to apply diversion measures

1. The heads, deputy heads of investigation authorities, directors, and deputy directors of the Procuracy shall have the authority to apply community-based diversion measures, except in cases where the case requires compensation or asset seizure.

2. Judges, adjudication panels shall have the authority to apply diversion measures as stipulated in Article 36 of this Law

Article 53. Requesting social workers to participate in legal proceedings

1. Immediately after pressing charge against a juvenile suspect, the investigation authority must request social workers on the list specified in clause 5 of Article 32 of this Law to participate in the legal proceedings. If necessary, requests may be made directly, by phone, or through other electronic means but must be followed up with a written request.

2. Selection of social workers should follow the following priority order:

a) Officials, public employees, and workers who are social workers residing in the same commune-level administrative unit as the juvenile;

b) Officials, public employees, and workers who are social workers residing in the same district-level administrative unit as the juvenile;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



d) Other social workers as prescribed by law.

3. Within 01 day of receiving the investigation authority's request, social workers must respond in writing regarding their participation in the legal proceedings. If necessary, notifications can be made directly, by phone, or through other electronic means but must be followed up with a written response.

4. Within one day of the social worker confirming participation in the proceedings, the investigation authority must issue a written notification regarding participation in the legal proceedings and send it to them. This notification must include a request for the social worker to prepare a social investigation report on the juvenile suspect.

The notification of the social worker's participation in the legal proceedings is valid throughout the legal proceedings.

5. Social workers are considered participants in the legal proceedings from the moment they receive the notification about their participation.

Article 54. Formulating social investigation reports

1. Within one day of the social worker confirming participation in the proceedings, the investigation authority must issue a written notification regarding participation in the legal proceedings and send it to them.

2. Social investigation reports must include:

a) Full name, date of birth, gender, personal identification number, place of residence of the juvenile;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



c) Full name, place of work (if any) of the social worker;

d) Family relationships, living conditions of the juvenile;

dd) Maturity level of the juvenile;

e) Health history of the juvenile;

g) Learning, educational level and occupation of the juvenile;

h) Factors that may be the cause of juvenile delinquency;

i) Places and individuals that may lead the juvenile to commit new offenses (if any);

k) Proposal for application of Diversion measures (if any).

3. Relevant agencies, organizations and individuals shall provide information about juvenile suspects when requested by social workers.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 55. Consideration for application of diversion measures

1. Within 15 days from the date the investigation authority receives the social investigation report; within 7 days from the date the Procuracy receives the case file and the conclusion of investigation for charges, and the Court receives the case file and the charge, the heads, deputy heads of the investigation authority, heads and vice heads of The Procuracy, or judges must base issue a notification on applying or not applying the diversion procedure in accordance with regulations of Articles 35, 37, 38, and 39 of this Law.

2. Notification on applying or not applying the diversion procedure shall include:

a) Number, date of issuance of the notification;

b) Name of the issuing agency;

c) Full name of the heads, deputy heads of the investigation authority, heads and vice heads of The Procuracy, or judges issuing the notification;

d) Full name, date of birth, gender, personal identification number, place of residence, occupation, educational level of the juvenile suspects;

dd) Full name, place of work (if any) of the defense counsel;

e) Reasons, grounds for issuing the notification;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



h) Recipient of the notification.

3. The notification on applying or not applying the diversion procedure shall be sent to the juvenile suspect, his/her representative, defense counsel, social worker and the Procuracy at the same level within 3 days of issuance.

4. Immediately after issuance of the notification, the investigation authority, Procuracy, or Court shall:

a) If the juvenile is found eligible for the community-based diversion measure, issue a written request to the social worker to formulate a diversion plan, except in cases specified in point b of this clause.

The request must include information on the nature and severity of the juvenile's crime and other necessary details for formulation of the diversion plan.

b) If the juvenile is found eligible for the community-based diversion measure with an existing diversion plan in the case file, the Procuracy or Court shall convene a meeting as stipulated in Article 59 of this Law if it deems unnecessary to amend or create a new diversion plan;

c) If the juvenile is deemed eligible for application of educational measures at reformatory, the Investigation authority or Procuracy shall submit a written request, along with the case file, to the Court for review and decision on applying educational measure at reformatory.

If the juvenile is deemed eligible for application of educational measure at reformatory, the Court shall review and decide on applying educational measure at reformatory.

5. During the diversion procedure, if compensation or asset seizure is required, the Investigation authority or Procuracy shall submit a written request, along with the case file, to the Court for review and decision on applying the diversion procedure and resolving issues regarding compensation or asset seizure.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



7. The application of the diversion procedure does not terminate the necessary procedural activities to resolve the case

In cases where criminal proceedings are being simplified and a juvenile is found eligible for the diversion procedure, the Investigation authority, Procuracy, or Court shall decide to cancel the simplified procedure and resolve the case in accordance with this Law and the Criminal Procedure Code.

8. When issuing a notification on not applying Diversion procedure, the Investigation authority, the Procuracy, and the Court shall continue to resolve the case in accordance with the Criminal Procedure Code and this Law.

9. The Head of the Supreme People’s Procuracy shall take charge and cooperate with the Chief Justice of the Supreme People's Court, the Minister of Public Security, and the Minister of National Defense, shall elaborate points 4, 5, and 7 of this Article.

Article 56. Decision on applying Diversion measures

1. Decision on applying Diversion measures must include:

a) Number, date of issuance of the decision;

b) Name of the issuing agency;

c) Full name of the heads, deputy heads of the Investigation authority, the Director, Deputy Director of the Procuracy, Judge or Adjudication Council that issue the decision;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



dd) Full name, place of work (if any) of the defense counsel;

e) Crime, article, clause, and point of the Criminal Code applied;

g) Reasons, grounds for issuing the decision;

h) Decision on applying or not applying Diversion measures.

The name of the diversion measure that apply, the duration of application, the duration of fulfilling obligations, suspending the investigation of the case against the suspect, or suspending the case against the suspect subject to the diversion measure, and the cancellation of preventive measures, coercive measures, return of temporarily seized documents or objects (if any), handling of evidence, and other related issues must be clearly stated.

i) Responsibilities of agencies, organizations, individuals enforcing the decision;

k) Effect of the decision

l) Recipient of the decision.

2. The decision on applying Diversion measures shall come into force on the date of publication.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



3. Within 5 days from the date of publication the decision on applying or not applying the community-based diversion measure, the Investigation authority, Procuracy, and Court shall take the following actions:

a) Deliver the decision to the juvenile suspect, their legal representative; send it to the Procuracy of the corresponding level, the victim; send it to the corresponding level of the investigation authority in cases where the Procuracy makes the decision;

b) Send the decision on applying the community-based diversion measure and a copy of the social investigation report to the People's Committee at the commune where the juvenile resides;

c) Send the decision on applying the diversion measure for damage compensation to the civil judgment-enforcing agencies.

4. If the decision on applying or not applying the community-based diversion measure of the Investigation authority is unfounded or unlawful, within 5 days from receiving the decision, the Procuracy shall resolve as follows and provide clear reasons:

a) Make a decision to annul that decision and request the investigation authority to continue resolving the case in accordance with this Law and the Criminal Procedure Code;

b) Make a decision to annul the decision on not applying/applying the community-based diversion measure and request the investigation authority to reconvene to review and decide on applying the community-based diversion measure, except in cases specified in point c of this clause.

Within 5 days from receiving the decision specified in this point, the investigation authority must reconvene to review and decide on applying the community-based diversion measure;

c) In cases where the case file and the conclusion of the investigation for charges have already been transferred to the Procuracy, the Procuracy shall review and decide on applying the community-based diversion measure in accordance with this Law.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



a) Deliver the decision to the juvenile suspect, their legal representative; send it to the Procuracy of the corresponding level, the victim; send it to the agency requesting the application of the educational measure at reformatory (if any);

b) Send the decision on applying the educational measure at reformatory and a copy of the social investigation report to the criminal judgment enforcement agency of a district-level Police where the juvenile resides;

c) Return the case file to the investigation authority, Procuracy that made the request in cases where the Court does not accept the request to apply the educational measure at reformatory as stipulated in clause 1 of Article 68 of this Law.

Article 57. Handling of cases where person serving diversion measure commit another crime

In cases where individuals under diversion measures are prosecuted for other crimes, they shall not be prosecuted for the crime for which the diversion measure is applied.

Section 2. PROCEDURES FOR REVIEWING AND DECIDING ON APPLICATION OF COMMUNITY-BASED DIVERSION MEASURES

Article 58. Formulating diversion plans

1. Within 07 day of receiving the investigation authority's request, Procuracy, Court, social workers must formulate diversion plan and send it to the requesting agency.

2. The Diversion plan must include:

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



b) Duration and place of implementation;

c) Rights and obligations of juveniles in accordance with Article 23 of this Law;

d) Responsibilities of the relevant agencies, organizations, individuals in enforcement of the decision on applying the diversion measure.

3. When necessary, the social worker may request the agency handling the current case to provide information or organize a meeting to formulate the diversion plan. The meeting, chaired by the social worker, must involve the representative of the juvenile suspect, and may include the juvenile suspect, victim or their legal representative.

If the proposed diversion measure involves participation in educational programs, vocational training, treatment, or psychological counseling for the juvenile, the social worker must cooperate with educational institutions, vocational education institutions, medical establishments, or other relevant organizations or individuals to specify the content, educational programs, vocational training, treatment, or psychological counseling suitable for the juvenile.

4. At the request of the presiding authorities, social workers shall formulate supplementary diversion plan during the investigation, prosecution, and adjudication.

Article 59. Decision for convening a meeting to review and decide on the application of the community-based diversion measure

1. Within 3 days from the date receiving the diversion plan or from the date of issuance of notification on applying the diversion procedure if falling under the cases specified in point b of clause 4 of Article 55 of this Law, the Head, Deputy Head of the investigation authority, Director, Deputy Director of the Procuracy, or Judge shall make a decision on convening a meeting to review and decide on the application of the community-based diversion measure.

2. Decision on convening a meeting must include:

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



b) Date, place of the offline/online meeting;

c) Full name, date of birth, gender, personal identification number, place of residence of the juvenile suspect;

d) Full name, place of residence of the representative of the juvenile suspect;

dd) Full name of the heads, deputy heads of the investigation authority, heads and vice heads of The Procuracy, or Judge presiding over the meeting; Meeting clerk;

e) Full name of procurators participating in the meeting convened by the Investigation authority, Court;

g) Full name, place of work (if any) of the defense counsel;

h) Full name, place of work (if any) of the social worker;

i) Full name of the interpretation (if any);

k) Full name of other people required to participate in the meeting (if any).

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



a) Meeting conductors: Head or Deputy Head of the investigation authority; Head and Deputy Head of The Procuracy; Judge; Meeting clerk;

b) Meeting attendees: Prosecutors participating in the meeting convened by the Investigation authority, Court; Investigators participating in the meeting convened by the Procuracy;

c) Others: the juvenile suspect, their legal representative, defense counsel; social worker; victim (if any);

d) When necessary, the Investigation authority, Procuracy, Court may request experts such as appraisers, interpreters, translators, medical, psychological, educational, social work experts, representatives of educational institutions, vocational education institutions where the juvenile suspect studies, representatives of agencies and organizations where the juvenile suspect works, representatives of the Vietnam Fatherland Front Committee at the commune level, member organizations of the Front where the juvenile suspect resides, and other people to attend the meeting.

4. The decision on convening the meeting must be sent to the individuals specified in point c of clause 3 of this Article, the Procuracy of the corresponding level, the Investigation authority in cases where the Procuracy convenes the meeting immediately after the decision is issued. The meeting to review and decide on the application of the community-based diversion measure must be organized within 5 days from the date of issuing the decision to convene the meeting.

Article 60. Meeting to review and decide on the application of the community-based diversion measure

1. Before the meeting begins, the meeting clerk shall check the presence of those requested by the Investigation authority, Procuracy, or Court to participate in the meeting; if someone is absent, the reason must be clarified and reported to the meeting chairperson for a decision on whether to proceed or postpone the meeting.

2. The meeting procedure is conducted as follows:

a) The meeting chairperson shall open the meeting;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



c) The juvenile suspect and their representative shall present their opinions;

d) The defense counsel shall present their opinions;

dd) Other participants shall present their opinions to clarify relevant issues;

e) The meeting chairperson shall ask questions to clarify relevant issues;

g) The prosecutor shall express their opinions;

h) The chairperson shall decide on whether to apply or not apply the diversion measure and announce the decision content immediately at the meeting.

If the juvenile is deemed eligible for application of educational measures at reformatory or if there are requests to address issues regarding compensation or asset seizure, the Investigation authority or Procuracy shall submit a written request, along with the case file, to the Court for review and decision on applying educational measures at reformatory.

If the juvenile is deemed eligible for application of educational measure at reformatory, the Judge shall review and decide on applying educational measure at reformatory.

3. Meetings to review and decide on the application of the community-based diversion measure must be juvenile-friendly, ensure lawful rights and obligations of juveniles. Questions for juveniles must be age-appropriate and gender-sensitive and consider their cognitive abilities and maturity level. Questions should be brief, simple, easy to understand, and not cover multiple issues at once. The legal representative of the juvenile can assist them during the meeting.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



a) The interpreter is absent, and there is no immediate replacement available;

b) The juvenile suspect or their representative is absent for the first time with a valid reason.

5. The meeting must not be postponed for more than 05 days from the date of issuance of the postponement decision. The postponement decision must be promptly sent to those present at the meeting; sent to the Procuracy of the corresponding level and the absent individuals within 3 days from the date of issuance.

Article 61. Minute of meeting to review and decide on the application of the community-based diversion measure

1. The minutes of the meeting to review and decide on the application of the community-based diversion measure must clearly record the date and location of the meeting; participants in the meeting; the content and proceedings of the meeting; the decision of the meeting chairperson.

2. After the meeting, the chairperson must review the minutes, and together with the clerk, sign the minutes.

Article 62. Procedures of the court for reviewing and deciding on application of community-based Diversion measures at the request of the Investigation authority, the Procuracy

1. Immediately upon receiving the request, along with the case file from the Investigation authority, the Procuracy as stipulated in clause 5 of Article 55 and point h of clause 2 of Article 60 of this Law, the Chief Justice of the Court must assign a Judge to handle the case. Within 3 days from the assignment date, the Judge shall take the following actions:

a) If there is already a diversion plan in the case file, the Judge will make a decision to convene a meeting to review and decide on the application of the community-based diversion measure, except when additional documents are needed;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. If the suspect is held in detention, the Chief Justice, Deputy Chief Justice will review and decide on whether to continue with the detention or replace it with other preventive measures in accordance with this Law and the Criminal Procedure Code.

Preventive measure will apply until the Court discloses a decision on the application of the diversion measure.

3. The decision on convening a meeting, meeting participants, meeting opening time, meeting postponement, meeting minutes, and request for additional documents will comply with the corresponding regulations in Clauses 2, 3 and 4 of Article 64, Article 65, Clauses 4 and 5 of Article 66 and Article 67 of this Law.

4. Before the meeting begins, the meeting clerk shall check the presence of those requested by the Court to participate in the meeting; if someone is absent, the reason must be clarified and reported to the Judge for a decision on whether to proceed or postpone the meeting. The meeting procedure is conducted as follows:

a) The Judge shall open the meeting;

b) The representative of the requesting agency shall present the request;

c) The social worker shall present the Diversion plan;

d) The juvenile suspect, their representative, defense counsel shall present their opinions;

dd) Other participants shall present their opinions to clarify relevant issues;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



g) The juvenile suspect, their legal representative, and their defense counsel shall debate about relevant issues. The debate is conducted under the Judge's guidance. Participants have the right to respond to each other's opinions. The Judge must not limit the debate time, allowing participants to present their arguments fully; the Judge may request others to refrain from presenting irrelevant or repetitive arguments;

h) The prosecutor shall express their opinion;

h) The Judge shall decide whether to apply or not apply the community-based diversion measure or decide on applying the educational measure at reformatory if the juvenile is deemed eligible for educational measure at reformatory; resolve the issue of damage compensation or asset seizure; and publish the content of the decision immediately at the meeting.

The decision on detention for the juvenile subject to the educational measure at reformatory shall comply with clause 6 of Article 66 of this Law.

5. Meetings to review and decide on the application of the community-based diversion measure must be conducted in a friendly manner as stipulated in clause 3 of Article 60 of this Law.

6. Within 5 days from the date of announcing the decision on applying/not applying the diversion measure, the Court shall take the following actions:

a) Deliver the decision to the juvenile suspect, their legal representative; send it to the Procuracy of the corresponding level, the victim, the requesting agency;

b) Send the decision on applying the community-based diversion measure and a copy of the social investigation report to the People's Committee at the commune where the juvenile resides;

c) Send the to the civil judgment-enforcing agency at the same level as the Court that issued the decision;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



e) Return the case file to the Investigation authority, the Procuracy that made the request in cases of refusal for further case resolution in accordance with Criminal Procedure Code and this Law.

Section 3. Procedures for reviewing, deciding on applying educational measures at reformatory

Article 63. Procedures for reviewing, deciding on applying educational measures at reformatory

1. The Court shall review and decide to apply the educational measure at reformatory in the following cases:

a) Upon requested by the Investigation authority or the Procuracy as specified in point c of clause 4 of Article 55 and point h of clause 2 of Article 60 of this Law;

b) If the juvenile is deemed eligible for application of educational measure at reformatory by the Court in accordance with this Law.

2. Immediately upon receiving the request, along with the case file from the Investigation authority, the Procuracy as stipulated in point a of clause 1 of this Article 55, the Chief Justice of the Court must assign a Judge to handle the case.

3. If the suspect is held in detention, the Chief Justice, Deputy Chief Justice will review and decide on whether to continue with the detention or replace it with other preventive measures in accordance with this Law and the Criminal Procedure Code.

Preventive measure will apply until the Court public a decision on the application of the educational measure at reformatory.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



1. Within 7 days from the date of assignment in accordance with clause 2 of Article 63 of this Law, or during the adjudication preparation phase as specified in point b of clause 1 of Article 63 of this Law, the Judge must make a decision to convene a meeting to review and decide on the application of the educational measure at the reformatory, except as provided in Article 65 of this Law.

2. Decision on convening a meeting must include:

a) Date of issuance, name of the issuing Court;

b) Date, place of the offline/online meeting;

c) Full name, date of birth, gender, personal identification number, place of residence of the juvenile suspect;

d) Full name, place of residence of the representative of the juvenile suspect;

dd) Name of the requesting agency;

e) Full name of the Judge, meeting clerk;

g) Full name of the procurator participating in the meeting;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



i) Full name, place of work (if any) of the social worker;

k) Full name of the interpretation (if any);

l) Full name of other people required to participate in the meeting (if any).

3. Meeting participants include:

a) Meeting conductors: Judge; Meeting clerk;

b) Meeting attendees: representative of the requesting agency, Prosecutor participating in the meeting;

c) Others: the juvenile suspect, their legal representative, defense counsel; social worker; victim (if any);

d) When necessary, the Investigation authority, Procuracy, Court may request experts such as appraisers, interpreters, translators, medical, psychological, educational, social work experts, representatives of educational institutions, vocational education institutions where the juvenile suspect studies, representatives of agencies and organizations where the juvenile suspect works, representatives of the Vietnam Fatherland Front Committee at the commune level, member organizations of the Front where the juvenile suspect resides, and other people to attend the meeting.

4. The decision on convening the meeting must be sent to the individuals specified in point c of clause 3 of this Article, the requesting agency, and the Procuracy of the corresponding level immediately after the decision is issued. The meeting to review and decide on the application of the educational measure at reformatory must be organized within 5 days from the date of issuing the decision to convene the meeting.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



1. The Judge shall request the Investigation authority, Procuracy to provide additional documentation in cases where the case file is unclear or contradictory and requires clarification.

2. The request must specify the documents needing supplementation and the reason for the request.

3. Within 5 days from the date of receiving the Court's request, the requested agency must send the supplemental documents to the Court. If the documents cannot be provided, a written response must be given, stating the reasons.

4. Within 5 days from the date of receiving the supplemental documents or from the expiration of the deadline as prescribed in clause 3 of this Article, if the requested agency fails to provide the documents, the Judge will issue a decision to convene a meeting to review and decide on the application of the educational measure at reformatory.

Article 66. Meeting for reviewing, deciding on applying educational measures at reformatory

1. Before the meeting begins, the meeting clerk shall check the presence of those requested by the Court to participate in the meeting; if someone is absent, the reason must be clarified and reported to the Judge for a decision on whether to proceed or postpone the meeting.

2. The meeting procedure is conducted as follows:

a) The Judge shall open the meeting;

b) The representative of the requesting agency shall present the request;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



d) The social worker participates in the meeting shall present the social investigation report;

dd) Other participants shall present their opinions to clarify relevant issues;

e) The judge shall question the representative of the requesting agency, the juvenile suspect, their representative and other people attending the meeting to clarify relevant issues;

g) The juvenile suspect, their legal representative, and their defense counsel shall debate about relevant issues with the representative of the requesting agency The debate is conducted under the Judge's guidance. Participants have the right to respond to each other's opinions. The Judge must not limit the debate time, allowing participants to present their arguments fully; the Judge may request others to refrain from presenting irrelevant or repetitive arguments;

h) The prosecutor shall express their opinion;

i) The Judge shall decide on whether to apply or not apply the educational measure at reformatory and announce the decision content immediately at the meeting.

3. Meetings to review and decide on the application of the educational measure at reformatory must be conducted in a friendly manner as stipulated in clause 3 of Article 60 of this Law.

4. The Court may postpone the meeting in the following cases:

a) The representative of the requesting agency is absent;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



c) The juvenile suspect or their representative is absent for the first time with a valid reason.

5. The meeting must not be postponed for more than 05 days from the date of issuance of the postponement decision. The postponement decision must be promptly sent to those present at the meeting; sent to the Procuracy of the corresponding level and the absent individuals within 3 days from the date of issuance.

6. The Judge shall decide to hold the juvenile in detention until the district-level criminal judgment enforcement agency of a district-level police hands them over to the reform school if:

a) The juvenile is currently detained but it is deemed necessary to continue with the detention to ensure the implementation of the educational measure at reformatory;

b) The juvenile is not held in detention, but there are grounds to believe they may flee or commit further offenses.

Article 67. Minute of meeting for reviewing, deciding on applying educational measures at reformatory

1. The minutes of the meeting to review and decide on the application of the educational measures at reformatory must clearly record the date and location of the meeting; participants in the meeting; the content and proceedings of the meeting; the decision of the Judge.

2. After the meeting, the Judge must review the minutes, and together with the Clerk, sign the minutes.

Article 68. Handling of cases where the Court does not apply the educational measure at reformatory

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. If the Court convenes a meeting to review and decide on the application of the educational measure at reformatory but decides not to apply this measure to the juvenile suspect, the Court will proceed to resolve the case in accordance with the Criminal Procedure Code and this Law.

Section 4. COMPLAINT AND PETITION AGAINST DECISION ON APPLYING DIVERSION MEASURES

Article 69. Persons with rights to file complaints and petitions against decisions on applying diversion measures

1. When there are grounds to believe that the decision on applying diversion is against the law, the rights to file petitions shall be exercised as follows:

a) The Investigation authority participating in the meeting to review and decide on the application of diversion measures has the right to file a petition against decision on applying/not applying diversion measures of the Procuracy, Court;

b) The Procuracy at the same level has the right to file a petition against decision on applying/not applying diversion measures of the Court, except as prescribed in clause 6 of Article 151 of this Law.

2. Suspects who are juveniles, victims, their legal representatives have the right to complain about the decision on applying/not applying diversion measures if there are grounds that the decision is against the law, infringing on their lawful rights and interests.

Article 70. Time limit for complaints and petitions

The time limit for filing a complaint and petition is 5 days from the date of publication or receipt of the decision on applying/not applying diversion measures.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 71. Authority and time limit for resolving complaints and petitions

1. Complaints against decisions on applying/not applying diversion measures made by the Deputy Head of the Investigation authority are reviewed and resolved by the Head of Investigation authority within 3 days from the date of receiving the complaints.

Complaints against decisions on applying/not applying diversion measures made by the Deputy Head of the Investigation authority are reviewed and resolved by the Chief Procurator of the Procuracy within 3 days from the date of receiving the complaints.

2. Complaints, petitions against decisions on applying/not applying diversion measures made by the Deputy Chief Procurator of the Procuracy are reviewed and resolved by the Chief Procurator of the Procuracy within 3 days from the date of receiving the complaints, petitions.

Complaints, petitions against decisions on applying/not applying diversion measures made by the Chief Procurator of the Procuracy are reviewed and resolved by the Head of the immediate superior Procuracy within 05 days from the date of receiving the complaints, petitions.

Complaints, petitions against decisions on applying/not applying diversion measures made by the Deputy Head of the provincial Procuracy are reviewed and resolved by the Head of the Supreme People’s Procuracy within 10 days from the date of receiving the complaints, petitions.

3. Complaints, petitions against decisions on applying/not applying diversion measures made by the Judge are reviewed and resolved by the Procurator General of the Supreme People’s Procuracy within 03 days from the date of receiving the complaints, petitions.

Complaints, petitions against decisions on applying/not applying diversion measures made by the Judge who is currently the Chief Justice are reviewed and resolved by the Chief Justice of the immediate superior Court within 07 days from the date of receiving the complaints, petitions.

Article 72. Resolving complaints and petitions

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



a) Accepting the complaint or petition and cancelling the decision on applying diversion measures to continue resolving the case in accordance with the Criminal Procedure Code and this Law;

b) Accepting the complaint or petition and cancelling the decision on not applying/applying diversion measures and requesting the competent authority or person to reopen the meeting to review and decide the application of diversion measures.

Within 5 days from the date of receiving the decision to resolve the complaint or petition, the competent authority, person must reopen the meeting to review and decide the application of diversion measures;

c) Rejecting the complaint, petition and keeping the applicable decision on applying/not applying diversion measures.

2. Within 3 days from the date of issuance of the decision, the person with authority to resolve complaints and petitions must send the decision to resolve the complaint or petition to the person who filed it, the Procuracy of the same level, the juvenile and their legal representative, and the criminal judgment enforcement agency of a district-level police where the juvenile is residing in cases specified in points a and b of clause 1 of this Article.

3. The decision to resolve the complaint or petition is legally effective and final.

4. If the case file and the conclusion of the investigation for charges have been transferred to the Procuracy, the person with authority to resolve complaints as stipulated in clause 1 of Article 71 of this Law shall make a decision to suspend the settlement of the complaint.

If the case file and the charge have been transferred to the Procuracy, the person with authority to resolve complaints and petitions as stipulated in clause 2 of Article 71 of this Law shall make a decision to suspend the settlement of the complaint, petition.

Chapter V

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Section 1. ENFORCEMENT OF DECISION ON APPLYING COMMUNITY-BASED DIVERSON MEASURES

Article 73. Responsibilities of agencies, organizations, individuals in enforcement of the decision on applying the diversion measure

1. The People's Committee of the commune where the person serving diversion measure resides has the following tasks and powers:

a) Organize the enforcement of decisions to apply diversion measures;

b) Determine the list of supervisors for the enforcement of decisions to apply diversion measures locally; appoint individuals directly supervising the enforcement of decisions to apply diversion measures;

c) Direct the organization of vocational training programs, employment, counseling programs, life skills development, medical and social services, community activities in the area to enable the participation of the person serving diversion measure;

d) Provide support to persons serving diversion measure to ensure that they receive all of the priority rights and preferential policies of the State for juveniles as regulated;

dd) Cooperate with political-social organizations, families, and agencies, organization where persons serving diversion measure study or work to monitor and educate them;

e) Direct the preparation of budget estimates for implementing diversion measures and submit them to competent authorities for decision;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



h) Organize training for supervisors enforcing the decision on applying diversion measures or assign them to participate in training programs;

i) Other tasks and powers in accordance with law.

2. The Commune-level police offices shall act as a focal point to assist the Commune-level People's Committee in carrying out the tasks and powers outlined in this clause and the following tasks and powers:

a) Prepare and manage records on the enforcement of decisions on applying diversion measures;

b) Propose to the Chairman of the commune-level People’s Committee the list of supervisors for enforcing decisions on applying diversion measures in the local area based on the following priority order: social workers; commune-level social work collaborators; representatives of the Vietnam Women's Union, the Ho Chi Minh Communist Youth Union, or reputable persons in the community, good ethics, conditions, capabilities, and experience in educating and assisting juveniles;

c) Propose to the Chairperson of the People's commune-level People's Committee the assignment of individuals directly supervising the enforcement of decisions on applying diversion measures;

d) Cooperate with the individuals directly supervising the enforcement of decisions on applying diversion measures, families, agencies, organizations, and individuals in managing, educating, and assisting persons serving community-based diversion measure;

dd) Provide guidance and assistance to persons serving community-based diversion measures in carrying out procedures for, permanent/temporary residence registration, stay registration, temporary absence declaration, issuance, replacement of ID cards; monitor their presence at their residence, changes in residence of persons serving community-based diversion measure;

e) Receive persons serving community-based diversion measure transferred from elsewhere to stay or reside temporarily during their absence from their residence, changes in residence, and assess and evaluate their legal compliance during their stay;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



h) Other tasks and powers in accordance with law.

3. Relevant agencies, organizations, individuals shall have the following tasks and powers:

a) Cooperate with the competent authorities, families in enforcing decisions on applying diversion measures;

b) Implement applied diversion measures or provide necessary services to support persons serving community-based diversion measure;

c) Assist and enable persons serving community-based diversion measures in fulfilling their obligations;

d) Assess the compliance and effectiveness of the diversion measures applied to persons serving diversion measures and propose solutions (if any) to the individuals directly supervising the enforcement of decisions on applying diversion measures.

4. The enforcement of decisions on applying diversion measures of damage compensation of the Investigation authority, Procuracy is regulated as follows:

a) Commune-level civil judgment-enforcing agencies shall enforce decision of the Investigation authority, the Procuracy at the same level;

b) The provincial-level civil judgment-enforcing agencies shall enforce decisions from the Investigation authority, the Procuracy at the same level or from the Investigation Authorities of the Ministry of Public Security, Ministry of National Defense, or the Supreme People's Procuracy;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



5. The agency that issued decisions on applying diversion measures is responsible for monitoring the enforcement of those decisions.

6. The Government shall elaborate clauses 1, 2, 3, and 4 of this Article.

Article 74. Calculation of the implementation duration of decisions on applying diversion measures

1. The implementation duration of decisions on applying diversion measures specified in clauses 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, and 11 of Article 36 of this Law shall start from the date the person serving community-based diversion measure is present at the commune-level People's Committee headquarters to receive notification regarding the implementation of the decision on applying measures.

2. The implementation duration of decisions on applying diversion measures specified in clauses 9, 10 of Article 36 of this Law shall start from the date the educational institutions, vocational education, medical establishments or organizations eligible to provide psychological treatment or counseling.

Article 75. Selection and replacement of persons directly supervising enforcement of decision on applying diversion measures

1. Immediately upon receiving the decision on applying diversion measures, the Chairman of the commune-level People’s Committee shall transfer this decision to the Commune-level Police to carry out the assigned tasks within their jurisdiction.

2. Within 3 working days from the date of receiving the decision on applying diversion measures, the Commune-level Police shall, based on the conditions and circumstances of the person serving community-based diversion measure, the capacities, and workloads of individuals on the list specified in point b of clause 1 of Article 73 of this Law, propose candidates for direct supervision of the enforcement of the decision on applying diversion measures in the following priority order:

a) Social workers;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



c) Representatives of the Vietnam Women's Union, the Ho Chi Minh Communist Youth Union, or reputable persons in the community, good ethics, conditions, capabilities, and experience in educating and assisting juveniles.

3. Upon receiving the proposal from the Commune-level Police, the Chairman of the commune-level People’s Committee shall appoint person directly supervising the enforcement of the decision on applying diversion measures. One supervisor may be appointed to directly supervise multiple individuals but not more than 03 persons at the same time.

This decision must be promptly sent to the Commune-level Police, the person directly supervising the enforcement of the decision on applying diversion measures, the person serving community-based diversion measure, and their legal representatives.

4. During the supervision, if the supervisor is unable to continue performing their duties or does not complete the assigned tasks, the Commune-level Police must promptly propose a replacement, report to the Chairman of the commune-level People’s Committee for consideration and decision.

5. The Government shall elaborate this Article.

Article 76. Notification of the enforcement of the decision on applying diversion measures

1. Within 2 working days from the date of appointing the person directly supervising the enforcement of the decision on applying diversion measures, the Chairman of the commune-level People’s Committee shall summon the person serving community-based diversion measure; invite their representative, the supervisor, the Commune-level Police, and representatives of relevant agencies, organizations, and individuals to notify them about the enforcement of the decision on applying diversion measures.

2. The notification includes:

a) Rights and obligations of persons serving community-based diversion measure;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



c) Responsibilities of the relevant agencies, organizations, individuals and families in enforcement of the decision on applying the diversion measure.

3. The notification of the enforcement of decision on applying diversion measures must be documented and kept in the records.

Article 77. Commitment of persons serving community-based diversion measure

1. The person serving community-based diversion measure must make a commitment regarding fulfillment of obligations specified in clause 2 of Article 23 of this Law and send it to the person directly supervising enforcement of decision on applying diversion measures.

2. The commitment of the person serving community-based diversion measure must include the opinions of their father, mother, or guardian.

Article 78. Responsibilities of families in enforcement of the decision on applying the diversion measure

1. Encourage and motivate persons serving community-based diversion measures to comply with the law and fulfill their obligations.

2. Implement specific measures to manage, educate, and assist the persons serving community-based diversion measures in their daily activities, education, and work; encourage and enable their participation in cultural, vocational, community activities, counseling programs, and life skills development (if any) at their place of residence.

3. Cooperate with the commune-level People's Committee, the person directly supervising enforcement of decision on applying diversion measures, local organizations, and associations in managing, educating, and assisting the persons serving community-based diversion measures.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



5. Cooperate with educational institutions, vocational education institution, and organizations where the person serving community-based diversion measure is studying or working to manage, encourage, and assist them.

6. Parents or guardian of the person serving community-based diversion measure are responsible for compensating for damages as stipulated by law.

7. Be present when the competent person drafts a report on breach of obligations of the person serving community-based diversion measure as per the regulations in clause 1 of Article 82 of this Law.

Article 79. Responsibilities and power of the person directly supervising enforcement of decision on applying diversion measures

1. The person directly supervising enforcement of decision on applying diversion measures shall have the following responsibilities:

a) Formulate and organize plan for enforcement of decisions on applying diversion measures;

b) Request the person serving community-based diversion measure to write a commitment as stipulated in Article 77 of this Law.;

c) Provide guidance to persons serving community-based diversion measure on their rights and obligations;

d) Cooperate with relevant agencies and organizations in enabling the participation of the persons serving community-based diversion measure in appropriate and life-stabilizing cultural, vocational activities;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



e) Cooperate with agencies, organization, families in supervising enforcement of decisions on applying diversion measures;

g) Cooperate with the Commune-level Police and relevant individuals in advising the Chairman of the commune-level People’s Committee on enforcement of decisions on applying diversion measures;

h) Monitor, supervise, and urge the enforcement of decisions on applying diversion measures;

i) Assess the situation and results of enforcement of decisions on diversion measures monthly;

k) Timely report to the Chairman of the commune-level People’s Committee on any behaviors, violations against the law of the person serving community-based diversion measures to have appropriate prevention, management, and educational measures;

l) Report to the Chairman of the commune-level People's Committee on any breaches of obligations by the person serving community-based diversion measures and cooperate with the Communal Police to record the violations.

m) Report to the Chairman of the commune-level People's Committee for review and preparation of an application for an extension of the obligation fulfillment period, a change in the diversion measures, or an early termination of the application of diversion measures; if the diversion measures are deemed inappropriate or implementation is challenging, propose solutions or adjust plans, and report to the Chairman of the commune-level People's Committee for a decision;

n) Report the results of enforcement of decisions on applying diversion measures to the Chairman of the commune-level People's Committee;

o) Other responsibilities in accordance with law.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



3. The Government shall elaborate this Article.

Article 80. Formulation of plan for enforcement of decisions on applying diversion measures

1. Within 5 working days from the date of receiving the assignment decision, the person directly supervising enforcement of the decision on applying diversion measures must draft a plan for enforcement of the decision on applying diversion measures for approval from the Chairman of the commune-level People's Committee.

2. The plan for enforcement of the decision on applying diversion measures must include:

a) The applied diversion measures;

b) Support services that need to be implemented to address risk factors, causes and conditions for violations against the law of the person serving community-based diversion measures;

c) Agencies, organizations, individuals responsible for enforcement of the decision on applying the diversion measure; necessary support service providers; agencies, organizations and individuals responsible for cooperation;

d) The start and end dates for enforcing the decision applying diversion measure, support services;

dd) Other activities to enforce the decision on applying diversion measures.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



The plan must be sent to the person serving community-based diversion measure, their representative, relevant agencies, organizations, individuals, and the Commune-level Police for inclusion in the records of enforcement of the decision on applying measures.

4. The Government shall elaborate this Article.

Article 81. Resolving cases where the person serving community-based diversion measure commit is absent from or change place of residence

1. The person serving community-based diversion measure may be absent from their place of residence with a valid reason, must submit a leave request, and obtain the consent of the Chairman of the commune-level People's Committee; and must make a temporary absence declaration as per laws on residence. In cases of refusal, a written response must be given, stating the reasons.

The duration of absence from the place of residence each time must not exceed 10 days, and the total duration of absence must not exceed one-third of the term of duty, except in cases of illness requiring treatment at a medical establishment as prescribed by a doctor and must have confirmation of treatment from that medical establishment.

2. If the person serving community-based diversion measure must change his/her place of residence for legitimate reasons, he/she must submit an application and obtain the consent of the Chairman of the commune-level People's Committee assigned to enforce the decision on applying diversion measures.

Within 05 working days from the date of receipt of the application of the person serving commune-level diversion measure, the commune-level People's Committee shall cooperate with relevant units and the commune-level People's Committee where the person is transferred to shall inspect, verify and decide on the change of residence of that person. In case of approving the change of residence, the commune-level People's Committee assigned to enforce the decision on applying diversion measure must issue a written notice to the applicant and a document transferring the dossier on enforcement of the decision on applying diversion measure to the commune-level People's Committee where the applicant is transferred to continue to organize the enforcement in accordance with this Law; in case of refusal, a written notice must be given stating the reasons.

The person serving community-based diversion measure after transfer to a new place of residence must immediately report to the police at the commune where they are transferred to.

3. The document transferring the dossier on execution of the decision applying diversion measure prescribed in Clause 2 of this Article must also be sent to the agency that issued the decision applying diversion measure.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



1. If the person serving community-based diversion measure breaches the obligations specified in Clause 2 of Article 23 of this Law, the person directly supervising enforcement of the decision on applying diversion measures must cooperate with the commune-level police in preparing a report on the breach of obligations.

The preparation of report must involve the participation of the person serving community-based diversion measure and their representative. The report must be promptly sent to the Chairman of the commune-level People's Committee to request an extension of the deadline for fulfilling the obligation or a change in the diversion measure.

2. The person serving community-based diversion measure who intentionally breaches the obligation once during the obligation fulfillment period may have the deadline extended for fulfilling the obligation, except for cases of damage compensation specified in Clause 3 of Article 42 of this Law.

3. The person serving who intentionally breaches obligations once during the extended obligation fulfillment period or intentionally breaches obligations multiple times during the obligation fulfillment period may change their community-based diversion measure to an educational measure at reformatory.

4. The Government shall elaborate this Article.

Article 83. Extension of time limits for fulfilling obligations

The time limit for performing obligations may be extended once. To be specific:

1. The extension period for individuals under 18 years of age at the time of the violation shall not exceed half of the original obligation fulfillment period applied.

2. The extension period for individuals from 18 years of age at the time of the violation shall be equal to the original obligation fulfillment period applied.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



1. Within 3 working days from the date of receiving the violation report, the Chairman of the commune-level People's Committee must prepare an application for extension of time limits for performing obligations and send it to the authority that issued the decision on applying diversion measure.

2. The application for extension of time limits for performing obligations includes:

a) Application from the Chairman of the commune-level People's Committees;

b) Report from the person directly supervising enforcement of decision on applying diversion measures;

c) Report on breach of obligations;

d) Other relevant documents.

3. Within 03 working days from the date of receiving the application from the Chairman of the commune-level People's Committee, the authority that issued the decision on applying diversion measure must review, decide on the extension of time limits for performing obligations. For complex cases, this deadline may be extended, but not exceeding 5 working days. In case of refusal, a written response must be given, stating the reasons.

4. The extension decision shall come into force from the date on which it is signed. This decision is not subject to complaint or petition and must be promptly sent to the person serving community-based diversion measure, their representative, and the Chairman of the commune-level People's Committee who made the application.

Article 85. Change in diversion measures

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



a) The person serving community-based diversion measure may have their current measure changed to a different community-based diversion measure if the current measure is considered not suitable due to the objective reasons.

b) Persons serving community-based diversion measure who fall under cases specified in clause 3 of Article 82 of this Law.

2. The change of the diversion measure specified in point a of Clause 1 of this Article shall only be carried out once.

Article 86. Procedures for changing the current community-based diversion measure to another community-based diversion measure

1. Immediately after there are grounds specified in point a of Clause 1, Article 85 of this Law, the person directly supervising the enforcement of the decision on applying diversion measure must report to the Chairman of the commune-level People's Committee. Within 3 working days from the date of receiving the report, the Chairman of the commune-level People's Committee shall prepare an application on changing the current community-based diversion measure to a different current community-based diversion measure and send it to the authority issuing the decision on applying diversion measure.

2. The application for changing the diversion measure includes:

a) Application from the Chairman of the commune-level People's Committees;

b) Report from the person directly supervising enforcement of decision on applying diversion measures;

c) Other relevant documents.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



4. Upon deciding to change the redirection measure, the authority issuing the decision on applying diversion measure must review and decide on the appropriate time limit for implementing the diversion measure and the time limit for performing obligations.

5. The decision on changing the diversion measure shall come into force from the date on which it is signed and replace the previously issued decision on applying diversion measure. This decision is not subject to complaint or petition and must be promptly sent to the person serving community-based diversion measure, their representative, and the Chairman of the commune-level People's Committee who made the application.

Article 87. Procedures for changing the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory

1. Within 3 working days from the date of receiving the violation report, the Chairman of the commune-level People's Committee shall prepare an application for reviewing and changing the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory and send it to the district-level People's Court where the person serving the community-based diversion measure resides.

2. The application for changing the diversion measure includes:

a) Application from the Chairman of the commune-level People's Committees;

b) Report from the person directly supervising enforcement of decision on applying diversion measures;

c) Report on breach of obligations;

d) Copy of the dossier on enforcement of the decision on applying diversion measure;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



3. Immediately upon receiving the application, the Chief Justice of the Court must assign a Judge to handle the case. Within 3 working days from the assignment date, the Judge shall take the following actions:

a) If the application is adequate, issue a decision to convene a meeting;

b) If the request file is unclear or inadequate, request the application to provide additional documents. The applicant must submit the requested additional documents within 03 working days from the date of receiving the request. If the documents cannot be provided, a written response must be given, stating the reasons.

Within 5 working days from the date of receiving the additional documents or from the expiration of the deadline as prescribed in this clause, if the applicant fails to provide the documents, the Judge will issue a decision to convene a meeting to review and change the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory.

4. Decision on convening a meeting must include: date of decision, full name of the Court issuing the decision; full name, position, and agency of the applicant; full name of the Judge, Clerk of the meeting, date, location of the meeting (in-person or online); full name, date of birth, gender, personal identification number, place of residence of the person serving community-based diversion measure; name of the authority issuing the decision on applying diversion measure; the name of the applied diversion measure.

This decision must be sent to the individuals specified in point c of clause 5 of this Article, the applicant, and the Procuracy of the corresponding level immediately after the decision is issued.

5. Meeting participants include:

a) Meeting conductors: Judge; Clerk;

b) Meeting attendees: applicant or their representative, Prosecutor participating in the meeting;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



d) When necessary, the Court may request interpreters, translators, medical, psychological, educational, social work experts, representatives of educational institutions, vocational education institutions, representatives of agencies and organizations, representatives of the Vietnam Fatherland Front Committee at the commune level, member organizations of the Front where the person serving community-based diversion measure studies, works and resides, and other people to attend the meeting.

6. The meeting to review and change the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory must be organized within 5 working days from the date of issuing the decision to convene the meeting.

7. The meeting procedure is conducted as follows:

a) Before the meeting begins, the clerk shall check the presence of those requested by the Court to participate in the meeting; if someone is absent, the reason must be clarified and reported to the Judge for a decision on whether to proceed or postpone the meeting.

b) The Judge shall open the meeting;

c) The applicant or the authorized person shall present the request to change the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory;

d) Other participants shall present their opinions to clarify relevant issues;

dd) The judge shall question the applicant or the authorized and other people attending the meeting to clarify relevant issues;

e) The prosecutor shall express their opinion;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



8. All proceedings at the meeting are recorded in minutes and kept on file. The meeting minute must be signed by the Judge and the Clerk.

9. The court shall consider postponing the meeting when the applicant or authorized person is absent. The meeting must not be postponed for more than 05 working days from the date of issuance of the postponement decision. The postponement decision must be promptly sent to those present at the meeting; sent to the Procuracy of the corresponding level and the absent individuals within 03 working days from the date of issuance.

10. Decision on changing the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory must include:

a) Number, date of issuance of the decision;

b) Name of the Court that issues the decision;

c) Full name of the Judge that issue the decision;

d) Full name, date of birth, gender, personal identification number, place of residence, occupation, educational level of the juvenile;

dd) Reasons, grounds for issuing the decision;

e) Decision on changing/not changing the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory. In case of changing, the decision must include content regarding the suspension of the implementation of the previously issued decision on applying community-based measures;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



h) Effect of the decision

i) Recipient of the decision.

11. Decision on changing the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory shall come into force from the date which it is announced.

12. In cases of approving changing the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory, within 07 days from the date of announcement, the Court must deliver the decision to the person serving community-based diversion measure, their representative, and send it to the applicant, the People's Procuracy at the same level, the agency issuing the previous decision on applying community-based diversion measure; send it to the criminal judgment enforcement agency of a district-level police where the person serving community-based diversion measure resides.

13. In case of refusal, the person serving the community-based diversion measure shall continue to serve the current diversion measure.

Article 88. Filing complaints, petitions and resolving complaints, petitions against decisions on changing/not changing the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory

1. Within 05 working days from the date of receipt of the decision on changing/not changing the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory, the person serving community-based diversion measure or their representative has the right to file complaint, and the People's Procuracy at the same level has the right to file petition against this decision.

2. Complaints, petitions against decision on changing/not changing the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory made by the Judge are reviewed and resolved by the Chief Justice of the Court within 03 working days from the date of receiving the complaints, petitions.

Complaints, petitions against decision on changing/not changing the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory made by the Judge who is currently the Chief Justice are reviewed and resolved by the Chief Justice of the immediate superior Court within 07 days from the date of receiving the complaints, petitions.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



a) Accept the complaint or petition and cancel the decision on changing the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory to continue implementation of the current community-based diversion measure.

b) Accept the complaint or petition and cancel the decision on not changing the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory and issue a decision on changing the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory;

c) Reject the complaints, petitions and keep the applicable decision on changing/not changing the current community-based diversion measure to educational measure at reformatory.

4. Within 3 working days from the date of issuance of the decision, the person with authority to resolve complaints and petitions must send the decision to resolve the complaint or petition to the person who filed it; application for changing the diversion measure; criminal judgment enforcement agency of a district-level police where the juvenile is residing for cases specified in points a and b of this clause 3 of this Article.

5. The decision to resolve the complaint or petition is legally effective and final.

Article 89. Early termination of serving diversion measures

1. The person serving community-based diversion measure specified in clauses 4, 5 and 6 of Article 36 of this Law, who has served half of the term of serving the measure and made considerable progress, may be eligible early termination of serving this diversion measures.

2. The Government shall elaborate this Article.

Article 90. Procedures for early termination of serving diversion measures

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. The application for early termination of serving diversion measures includes:

a) Application from persons serving community-based diversion measure;

b) Application from the Chairman of the commune-level People's Committees;

c) Report from the person directly supervising enforcement of decision on applying diversion measures;

d) Other relevant documents.

3. Within 03 working days from the date of receiving the application for early termination of serving diversion measure, the agency that issued the decision on applying diversion measure must review and decide on early termination of serving diversion measure. In case of refusal, a written response must be given, stating the reasons.

4. Decisions on early termination of serving diversion measures shall come into force from the date on which it is signed and not be subject to complaint or petition.

5. The decision on early termination of serving diversion measure must be promptly sent to the person serving community-based diversion measure, their representative, and the Chairman of the commune-level People's Committee who made the application.

Article 91. Certification of completion of serving community-based diversion measure

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. On the last day of the implementation period of the diversion measure, the Chairman of the commune-level People's Committee shall issue a certificate of completion of the community-based diversion measure to the person serving community-based diversion measure.

3. The certificate of completion of the community-based diversion measure shall be sent to the representative of the person serving community-based diversion measure and the agency that issued the decision on applying diversion measure.

The agency that issued the decision on applying diversion measure shall keep the certificate of completion of the community-based diversion measure in the case file in accordance with the law on archives.

4. The Government shall elaborate this Article.

Article 92. Suspension of enforcement of decision on applying diversion measures

1. Cases of suspension of enforcement of decision on applying diversion measures include:

a) The person serving community-based diversion measure who is prosecuted for another offense and is put in detention or subject to community sentence, or imprisonment;

b) Persons serving community-based diversion measure who have passed away;

c) Persons serving community-based diversion measure who suffer from a mental illness or other illness that causes loss of cognitive ability or ability to control behavior;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. The suspension of enforcement of decision on applying diversion measures does not terminate the obligation to compensate for damages (if any).

3. If the person serving community-based diversion measure falls under cases specified in points a, b and c of clause 1 of this Article, the person directly supervising the enforcement of the decision on applying diversion measure shall report to the Chairman of the commune-level People's Committee to notify the agency issuing the decision on applying diversion measures.

4. Immediately after receiving the notification, the agency that issued the decision on applying diversion measure shall issue a decision to suspend the enforcement of the decision on applying diversion measure.

5. The decision on suspension of enforcement of decision on applying diversion measures must be promptly sent to the person serving community-based diversion measure specified in point a of clause 1 of this Article, his/her representative and the commune-level People's Committees where he/she resides.

Section 2. ENFORCEMENT OF DECISION ON APPLYING EDUCATIONAL MEASURES AT REFORMATORY

Article 93. Requirements of facilities for reform schools

1. Reform schools must ensure that there are areas for housing, infirmary, cultural education, vocational training, recreation, communal activities, physical training, sports, libraries, and other necessary facilities that are arranged and designed to suit juveniles.

2. Accommodation must be cool in the summer, windproof in the winter, and environmentally hygienic. The minimum sleeping area for each reformatory inmate is 2.5 m2.

3. The Government shall elaborate this Article.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



1. Within 03 working days from the date of receipt of the decision applying educational measures at reformatory, the criminal judgment enforcement agency of the district-level police where the juvenile resides must report to the criminal judgment enforcement management agency of the Ministry of Public Security to issue a decision to send the juvenile to a reform school.

2. Within 03 working days from the date of report from the criminal judgment enforcement agency of the district-level police, the criminal judgment enforcement management agency of the Ministry of Public Security shall issue and send a decision to send the juvenile to a reform school to the criminal judgment enforcement agency of the district-level police.

3. Within 05 working days from the date of receipt of the decision of the criminal judgment enforcement management agency of the Ministry of Public Security, the criminal judgment enforcement agency of the district-level police shall prepare a dossier and deliver the juvenile to the reform school. The dossier includes:

a) A copy of the decision on applying educational measures at reformatory;

b) Decision to send the juvenile to a reform school;

c) The juvenile's resume certified by the commune-level People's Committee;

d) Personal identification statement;

dd) A copy of social investigation report (if any);

e) Other relevant documents (if any).

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



5. Upon receiving the juvenile, the Principal of the reform school must prepare the dossier of the juvenile. The dossier includes:

a) Documents specified in clause 3 of this Article;

b) Admission record of the juvenile;

c) Documents reflecting the results of implementation of educational measures at reformatory;

d) Other relevant documents during the juvenile's implementation of educational measures at reformatory.

Article 95. Postponement and suspension of serving educational measures at reformatory

1. The person serving educational measure at reformatory may postpone serving educational measures at reformatory in one of the following cases:

He/she is seriously ill, receiving intensive medical care or physically unable to move as certified by a hospital;

b) He/she has another plausible reason as certified by the head of the criminal judgment enforcement agency of the district-level police office.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



a) An application from the person serving educational measure at reformatory or their representative;

b) The hospital's conclusion on the medical condition of the person serving educational measure at reformatory for the case specified in Point a of Clause 1 of this Article or the confirmation of the Head of the criminal judgment enforcement agency of the district-level police for the case specified in Point b of Clause 1 of this Article;

A guarantee of the representative of the person subject to educational measure at reformatory.

3. If a reformatory inmate is seriously ill, the Principal of the reform school shall prepare a dossier and send an application to the district-level People's Court where the reform school is located to review and decide on suspension.

The application for suspension of serving the measure shall comply with clause 2 of this Article.

4. Within 05 working days from the date of receipt of the application for postponement or suspension of serving educational measures at reformatory, the competent Chief Justice of the Court shall review and decide.

5. Within 03 working days from the date of issuing the decision on postponement or suspension of serving educational measures at reformatory, the Court that issued the decision must send that decision to the following agencies, organizations and individuals:

a) The person whose educational measures at reformatory is postponed or suspended, and their representative;

b) The criminal judgment enforcement agency of the district-level police where the person whose educational measures at reformatory is postponed or suspended resides;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



d) The reform school, the Court that issued the decision on applying educational measures at reformatory in the case of suspension.

6. The criminal judgment enforcement agency of the district-level police where the person whose educational measures at reformatory is postponed or suspended resides is responsible for managing them during the postponement or suspension period.

Within 03 working days from the date of receiving the postponement or suspension decision, the criminal judgment enforcement agency of the district-level police, where the person whose educational measures at reformatory is postponed or suspended resides, must request that person to make a written commitment to strictly comply with the law and present himself/herself when requested, except in cases where he/she is seriously ill, receiving intensive medical care, or physically unable to move.

If the person whose educational measures at reformatory is postponed or suspended escapes, the criminal judgment enforcement agency of the district-level police where that person resides shall issue a pursuit decision and organize the pursuit and take him/her back to the reform school and notify the Court that issued the postponement or suspension decision to issue a decision to cancel the issued postponement or suspension decision.

7. If the person whose educational measures at reformatory is postponed or suspended due to serious illness still uses health reasons to avoid serving even if he/she is showing sign of recovering or if he/she shows signs of mental illness or other illness that causes loss of cognitive ability or ability to control behavior, the criminal judgment enforcement agency of the district-level police where that person resides shall be request a medical assessment or a forensic mental assessment. The assessment costs shall be covered by the requesting agency.

8. When there is no longer a reason for postponement or suspension, the criminal judgment enforcement agency of the district-level police where the person whose educational measures at reformatory is postponed or suspended resides must notify the Court that issued the postponement or suspension decision to issue a decision to cancel the postponement or suspension decision and send that person to a reform school.

9. If the person whose educational measures at reformatory is postponed or suspended dies, his/her family must immediately notify the People's Committee of the commune where he/she resides. Immediately after receiving the notification, the commune-level People's must report to the criminal judgment enforcement agency of the district-level police.

Section 96. Suspension of enforcement of decision on applying educational measures at reformatory

1. Cases of suspension of enforcement of decision on applying educational measures at reformatory include:

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



b) Persons serving educational measures at reformatory, reformatory inmates who have passes away;

c) Persons serving educational measures at reformatory, reformatory inmates who suffer from a mental illness or other illness that causes loss of cognitive ability or ability to control behavior;

d) Canceling decisions on applying educational measures at reformatory, decisions on changing the current community-based diversion measure to educational measures at reformatory.

2. The suspension of enforcement of decision on applying educational measures at reformatory does not terminate the obligation to compensate for damages (if any).

3. When having one of the grounds specified in Clause 1 of this Article, the criminal judgment enforcement agency of the district-level police where the person subject to educational measures at a reformatory school resides, or the Principal of the reform school, shall notify the competent Court specified in Clauses 2 and 3 of Article 95 of this Law to issue an enforcement suspension decision.

4. Immediately after receiving the notification, the competent Chief Justice of the Court shall issue a decision on suspension of enforcement of decision on applying educational measures at reformatory.

5. The decision on suspension of enforcement of decision on applying educational measures at reformatory must be immediately sent to the person serving educational measure at reformatory, the reformatory inmate in Points a and d of Clause 1 of this Article, their representative, the criminal judgment enforcement agency of the district-level Police, the reform school, the Procuracy at the same level, and the Court that issued the decision on applying educational measures at reformatory.

Article 97. Handling of cases where the person serving educational measures at reformatory or the reformatory inmate escapes

1. Cases where the person serving educational measures at reformatory or the reformatory inmate escapes shall be handled as follows:

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



b) If the reformatory inmate escapes, the principal of the reform school shall issue a pursuit decision and organize the pursuit;

2. People's Committees and police authorities at all levels shall cooperate in organizing pursuit and arresting the escapee.

3. Upon detecting the escapee:

a) The person who detects the escapee shall report to the nearest police authority or People's Committee or arrest and bring them to these agencies to be taken to the nearest criminal judgment enforcement agency of the district-level police. Upon receiving the escapee, the criminal judgment enforcement agency of the district-level police must prepare a record regarding this matter, take testimonies of, manage such person and immediately inform the agency that issued the pursuit decision so they can send someone to receive the escapee. In cases of requiring detainment of the escapee, the head of criminal judgment enforcement agency of the district-level police shall issue a decision on detaining such person in the detention room of the district-level police. The detention period shall not exceed 03 days from the date of detention and shall be included in the period of serving educational measure at reformatory.

The testimonies must be quickly and promptly taken, and may involve the participation of their representatives or social workers;

b) Immediately after receiving the notification, the agency that issued the pursuit decision must send someone to receive the escapee, immediately take him/her to the reform school, and report to the criminal judgment enforcement management agency of the Ministry of Public Security;

c) The handover and receipt of the escapee must be recorded in the report.

4. The duration when an inmate escapes shall not be included in the period of serving educational measures at reformatory. The escapee shall serve the remaining time limit of educational measures at reformatory.

5. The Government shall elaborate this clause 4 of this Article.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



1. Reformatory inmates shall be supervised and managed by officers and teachers of reform schools and strictly comply with the schools' internal regulations. Officers and teachers of the reform school must be knowledgeable about psychology or have experience in solving problems related to juveniles.

2. Depending on the reformatory inmates' age, gender, education as well as the nature and severity of their offenses, reform schools shall divide reformatory inmates into groups and classes and assign teachers to directly take charge of them.

3. The Government shall elaborate this Article.

Article 99. Execution of transfer orders

1. Upon receiving a written request of a competent procedural agency, person for transfer of a reformatory inmate, the criminal judgment enforcement management agency of the Ministry of Public Security shall issue a transfer order.

2. When necessary to transfer a reformatory inmate for educational or medical examination and treatment purposes, the principal of the reform school shall issue a transfer order.

3. A transfer order must include:

a) Agency, full name, position and rank of the issuer;

b) Full name, date of birth, registered place of residence of the inmate to be transferred;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



d) Agency, organization, person receiving the transferred inmate (if any);

dd) Date of issuance of the order; signature and seal of the issuer.

4. The competent agency shall receive the transferred reformatory inmate and return him/her to the reformatory within the time limit indicated in the transfer order, and make a report of the handover and receipt. Costs of travel and accommodation of transferred reformatory inmates shall be covered by the state budget, unless the reformatory inmates are sent to their families for medical treatment as prescribed by the law.

5. The transfer period shall be included in the period of serving educational measures at reformatory.

6. The Government shall elaborate this Article.

Article 100. Cultural education, career education, vocational training and labor

1. Reformatory inmates shall be provided with cultural education, career education, vocational training as prescribed by the Government.

Reform schools shall arrange teachers and organize cultural education for students. If the school is unable to arrange teachers to teach cultural subjects according to applicable regulations, they shall cooperate with other educational institutions to organize and link online classes for inmates. Opening online classes must ensure safety and avoid discrimination and negative impact to all inmates.

2. Reform schools shall cooperate with vocational education institution to provide vocational training for inmates.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



The labor time of a reformatory inmate must not exceed his/her learning time. The learning and labor time of a reformatory inmate must not exceed 7 hours per day and 35 hours per week.

Reformatory inmates' labor fruits shall be used for improving their living and learning conditions and transferred to the meal fund, community integration fund, or commendation fund of reformatory inmates.

4. Reformatory inmates are entitled to days off being Saturdays, Sundays and public holidays as specified by law.

5. The Government shall elaborate this Article.

Article 101. Cultural, artistic, entertainment and recreational activities

1. After learning, vocational training or laboring hours, reformatory inmates may participate in cultural activities, art performances, sports and physical exercise, read books and newspapers, watch television and other recreational activities organized by reform school.

2. Outside the time spent participating in educational activities, studying, working, and communal activities, students practicing religion are allowed to use published scriptures in printed form that are distributed legally and manifest their faith of religion or folk belief as stipulated by the law on religion or folk belief.

3. Inmates are encouraged to develop their talents and strengths in music, painting, literature, arts, physical education, and sports.

4. The Government shall elaborate this Article.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



1. Reform schools shall organize examination, assessment and grading of their reformatory inmates and organize term, year-end and grade exams, exams for selection of excellent reformatory inmates or other exams.

2. Grade books, academic transcripts, dossiers and forms relevant to the learning of reformatory inmates shall be made according to forms uniformly set by the Ministry of Education and Training.

3. The Department of Education and Training, Office of Education and Training where the reformatory school is located shall issue cultural education certificates; vocational education institutions shall issue vocational training certificates for reformatory inmates.

4. The Government shall elaborate this Article.

Article 103. Meals and clothing of reformatory inmates

1. Reformatory inmates are entitled to standard rations of rice, vegetable, meat, fish, egg, sugar, fish sauce, cooking oil, monosodium glutamate, salt, fuel and some other necessary goods.

On public holidays and the Tet holiday, reformatory inmates shall be provided with higher food rations not exceeding five times the normal daily one.

Reformatory inmates shall be provided with hygienic food and drink. Meals for ill, diseased or injured reformatory inmates shall be prescribed by physician assistants or doctors.

2. Annually, reformatory inmates shall be provided with clothing and other items for daily-life use; female reformatory inmates will be provided with additional items necessary for their personal hygiene. Reformatory inmates participating in labor and vocational training are provided with additional clothing and protective equipment.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 104. Lodging conditions and daily-life items of reformatory inmates

1. Depending on the gender, age, personal characteristics, nature and severity of offense of each reformatory inmate, the reform school shall arrange a suitable lodging place for him/her in a communal room.

2. Reformatory inmates shall be provided with mats, curtains, pillows, blankets and may use their personal items in daily life activities, except those prohibited in the reform school. Items necessary for daily life activities of reformatory inmates shall be lent or provided by the reform school.

3. The Government shall elaborate this Article.

Article 105. Healthcare for reformatory inmates

1. Reformatory inmates shall be given periodical health checks. Sick, diseased or injured reformatory inmates shall be treated in medical facilities of reform schools. For reformatory inmates whose illness, diseases or injuries are beyond the treatment capacity of their reform schools, their principals shall decide to send them to a state medical establishment. Medical examination and treatment cost shall be covered by reform schools.

If there is a medical establishment that is capable of treating students and voluntarily provides free medical examination and treatment, the Principal of the reform school shall make the decision.

2. Medical examination and treatment cost specified in clause 1 of this Article shall be covered by the state budget. Cost of detoxification or treatment of drug-addicted or HTV/AIDS-affected reformatory inmates shall comply with the law. For reformatory inmates allowed to leave reform schools for medical treatment with their families, their families shall pay medical examination and treatment costs.

3. The Government shall elaborate this Article.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



1. In case a reformatory inmate dies, the principal of his/her reform school shall promptly notify such to the district-level Investigation Authority and procuracy of the place where the reformatory inmate dies for identifying the causes of the death and concurrently notify such to his/her relatives.

2. After obtaining permission of the Investigation Authority and procuracy for burial, the reform school shall organize the burial and report such to the criminal judgment enforcement management agency of the Ministry of Public Security for notification to the court that issued the decision on applying educational measure at reformatory. Burial costs shall be covered by the state budget. In case the relatives of the deceased have a request to receive the corpse, ashes or remains for burial and bear the costs themselves, the corpse of the deceased shall be handed over to their relatives. The burial shall be held in a way that ensures security and order and environment hygiene.

3. The Government shall elaborate this Article.

Article 107. Visits, correspondence and receipt of money, items and personal possessions of reformatory inmates

1. Reformatory inmates may meet their relatives at places of reception in their reform schools and strictly comply with regulations on visits.

2. Reformatory inmates may contact their relatives within the country by phone or via video call using electronic devices, under the supervision of teachers of the reformatory school and at their own expense.

3. Reformatory inmates may send and receive letters, presents, objects, except liquor, beer, cigarettes, other stimulants and prohibited articles and materials. Reform schools shall check letters and presents before they are sent or received by reformatory inmates. Reformatory inmates shall deposit their money or valuable papers at their reform schools for management and use under regulations of the reform school

4. The Government shall elaborate this Article.

Article 108. Handling of cases of students in mourning

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. When allowing inmates to return home, relatives' representatives shall come to pick up the students and write a commitment to manage the students during the time they are at home and ensure that the students shall return to the reform school within the specified time limit.

3. After the time allowed to return home ends, the inmate must voluntarily return to the reform school to continue implementing the measure. If not, the Principal of the reformatory school will bring them back; if the inmate escapes, the Principal of the reform school will issue a pursuit decision.

Article 109. Emulation classification of reformatory inmates

1. Emulation classification of reformatory inmates includes 4 categories: excellent, good, average, poor.

2. Reformatory schools must classify students’ emulation by month, quarter, year.

3. The Government shall elaborate this Article.

Article 110. Early termination of serving educational measures at reformatory

1. Reformatory inmates who have served half of the term of educational measures at reformatory and are classified as good or higher may have their educational measures at reformatory terminated ahead of time if they fall into one of the following cases:

a) Actively studying and making progress;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. The principal of the reform school shall prepare and submit an application to the district-level People's Court where the reform school is located for review and decision on early termination of educational measure at reformatory. The application must include:

a) An application of the reformatory inmate;

b) Written request of the reform school;

c) A copy of the decision on applying educational measures at reformatory;

d) Emulation classification result;

dd) A written comment on active studying and making progress or a document or material showing the student's achievements confirmed by a competent authority;

e) Other relevant documents.

3. Within 03 working days from the date of receipt of the application of the Principal of the reform school, the Chief Justice of the Court shall review and decide to early terminate the serving of educational measures at reformatory for inmates. In case of refusal, a written response must be given, stating the reasons.

4. Decisions on early termination of serving educational measures at reformatory shall come into force from the date on which it is signed and not be subject to complaint or petition. This decision must be immediately sent to the inmate, their representative, the reform school, the Court that issued the decision on applying educational measures at reformatory, the Procuracy at the same level, and the criminal judgment enforcement management agency of the Ministry of Public Security.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 111. Commendation and handling of violations of reformatory inmates

1. Reformatory inmates who have strictly observed the law and internal regulations of reform schools, with good or better learning results or merits, are entitled to the following forms of commendation under decisions of principals:

a) Commending, awarding certificates of merit, giving gifts;

b) Participating in field trips organized by the reform school;

c) Being entitled to family reunions at the school for a day;

d) Increasing the frequency of communication via telephone or video calls using electronic means with relatives within the country.

2. Reformatory inmates who violate academic or labor discipline or engage in other behaviors that breach the internal regulations of the reform school may be dealt with by the Principal of the reformatory school based on the nature and severity of the violation through one of the following measures:

a) Warning;

b) Criticism;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



3. The commendation decision or decision on handling violations shall be recorded in the student's dossier.

4. The Government shall elaborate this Article.

Article 112. Procedures for discharging reformatory inmates

1. Two months before the end of the term of serving educational at reformatory or immediately after receiving the decision on early termination of serving educational measures at reformatory, the principal of the reform school shall notify in writing the commune-level People's Committee where the reformatory inmate will come to reside and his/her family of the date of discharge.

In case a reformatory inmate under 18 years of age completes the educational measure at reformatory but his/her parents and guardians are unknown, the reform school shall contact the commune-level People's Committee where the school is located to request assistance, arrange accommodation, employment, and education; in case the commune-level People's Committee is unable to arrange accommodation for the inmate, the reform school shall prepare a dossier on sending to a social protection facility in the local area where the reform school is located.

2. On the last day of the term of educational measure at reformatory, the principal shall organize health check-up, issue a certificate of complete serving of the measure for the discharged reformatory inmate and send it to the criminal judgment enforcement management agency of the Ministry of Public Security, the court that issued the decision on applying educational measure at reformatory and the commune-level People's Committee of the place in which such reformatory inmate will come to reside.

3. Upon graduation, the inmate will receive their money, valuable papers, assets and belongings previously deposited at the reform school, certificates of cultural education and vocational training issued during the time of serving educational measures at the reformatory; will be provided with travel fare and meal allowance for their return to their places of residence and 01 set of clothes. For a reformatory inmate who has made no considerable improvement by the expiration of the term of the educational measure at reformatory, the principal shall make a separate assessment and propose subsequent educational measures to be applied by the commune-level People's Committee and the criminal judgment enforcement agency of the district-level police where such person will come to reside.

4. For an under-16, sick or diseased reformatory inmate who has no relative coming to receive him/her on the date of discharge, the reform school shall assign a person to bring him/her back to his/her family or hand him/her over to the commune-level People's Committee where he/she will come to reside.

5. Within 10 days after the date of discharge, the reformatory inmate who has completely served their measure shall report him/herself to the commune-level People's Committee where he/she comes to reside.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 113. Oversight of enforcement of educational measures at reformatory

1. When over sighting the enforcement of educational measures at the reformatory, the Procuracy has the following tasks and powers:

a) Request the criminal judgment enforcement agency of the district-level police where the person serving educational measure at reformatory resides, the reform school shall self-inspect the enforcement of educational measures at reformatory and notify the Procuracy of the results; request the provision of dossiers and documents related to the enforcement;

b) Directly supervise the enforcement of educational measures at reformatory by the criminal judgment enforcement agency of the district-level police, the reform school; supervise the dossiers on enforcement of educational measures at reformatory;

c) Request the criminal enforcement agency of the district-level police or reform school to prepare and submit an application to the competent Court for review and decision on postponement, suspension, or early termination of enforcement of educational measures at reformatory, or an application to the criminal enforcement agency of the district-level police or reformatory school to notify the competent Court to suspend the enforcement of the decision on applying educational measures at reformatory;

d) File petitions to the Court upon discovering violations related to the performance of tasks and powers of the Court during the enforcement of educational measures at reformatory;

dd) Protest, file petitions and request the criminal judgment enforcement agencies of the district-level police or reform school upon discovering violations during the enforcement of educational measures at reformatory; request termination of the execution, amendment or annulment of unlawful decisions in enforcement of educational measures at reformatory; terminate illegal acts;

e) Oversight compliance with the law in handling complaints and denunciations regarding the enforcement of educational measures at reformatory as prescribed in Clause 2 of this Article;

g) Institute lawsuits or request Investigation Authorities to institute criminal lawsuits upon detecting signs of crime in the enforcement of educational measures at reformatory in accordance with law;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. The Procuracy shall directing oversight handling of complaints and denunciations by Courts, the criminal judgment enforcement management agencies, and the criminal judgment enforcement agencies.

When over sighting the handling of complaints and denunciations in the enforcement of educational measures at reformatory, the Procuracy has the right to request the Court, the criminal judgment enforcement management agency, and the criminal judgment enforcement agency at the same or lower level to: issue documents to resolve complaints and denunciations; inspect the handling of complaints and denunciations within its jurisdiction and of lower levels; notify the Procuracy of the results of the settlement; provide dossiers and documents related to the settlement of complaints and denunciations to the Procuracy.

3. The responsibility for handling requests, proposals, appeals and petitions of the Procuracy on the enforcement of educational measures at reformatory is prescribed as follows:

a) Regarding the requests stipulated in point a of clause 1 of this Article, the criminal judgment enforcement agency of a district-level police, the reform school, within 30 days from the date of receiving the request, must handle them. For cases requiring dossier preparation as prescribed in clause 3 of Article 94 of this Law, they must request the provision of dossiers, documents related to the enforcement of the judgment, and handle the requests immediately;

b) Regarding the proposals, petitions, and requests stipulated in points c, d, and dd of clause 1 of this Article, the criminal judgment enforcement agency of a district-level police, the reform school, must respond in writing within 15 days from the date of receiving proposals, petitions, and requests;

a) Regarding the appeals stipulated in point dd of clause 1 of this Article, the criminal judgment enforcement agency of a district-level police, the reform school, must respond in writing within 15 days from the date of receiving appeals; if they do not agree with the appeal, these agencies have the right to appeal to the immediate superior Procuracy; the immediate superior Procuracy must resolve the appeal within 15 days from the date of receipt of the appeal. The decision of the immediate superior Procuracy must be enforced.

Article 114. Complaints and denunciations in enforcement of educational measures at reformatory

1. Complaints and denunciations are made in accordance with the Law on Enforcement of Criminal Judgments.

2. The Minister of Public Security shall take charge and cooperate with the Chief Justice of the Supreme People's Court and the Prosecutor General of the Supreme People's Procuracy in elaborating this Article.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



PENALTIES AND LEGAL PROCEEDINGS IN RESPECT TO JUVENILES

Chapter VI

PENALTIES

Section 1. PENALTIES

Article 115. Penalties for juvenile delinquents

Juvenile delinquents shall only be subject to one of the following penalties for each crime:

1. Warning

2. Fines;

3. Community sentence;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 116. Warning

Warning is applied to persons from 16 to under 18 years of age who commit serious crimes unintentionally or less serious crimes with mitigating factors, but not to the extent of being exempt from punishment.

Article 117. Fines

1. Fines shall be imposed on juvenile delinquents if they have income or private property.

2. The fine imposed on person from 16 to under 18 years of age who commit crimes shall not exceed one-half of the fines prescribed by the Criminal Code.

3. The fine imposed on person from 14 to under 16 years of age who commit crimes shall not exceed one-third of the fine prescribed by the Criminal Code.

Article 118. Community sentence

1. Community sentence is applied to persons from 16 to under 18 years of age who commit very serious crimes unintentionally or commit less serious crimes, serious crimes or persons from 14 to under 16 years of age who commit very serious crimes.

2. When applying community sentence on juvenile delinquents, their income shall not be deducted.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 119. Definite imprisonment

The term of imprisonment applicable to juvenile delinquents is prescribed as follows:

1. For persons from 16 to under 18 years of age when committing crimes, if the indefinite imprisonment or death sentence is imposed on the crimes they committed in accordance with the Criminal Code, the highest penalty applied shall not exceed 15 years of imprisonment; if a definite imprisonment is imposed on the crimes they committed, the highest penalty applied shall not exceed three-fifths of the duration of imprisonment prescribed by the Criminal Code, except for the case prescribed in Clause 2 of this Article;

2. For persons from 16 to under 18 years of age when committing the following crimes, if the indefinite imprisonment or death sentence is imposed on the crimes they committed in accordance with the Criminal Code, the highest penalty applied shall not exceed 15 years of imprisonment; if a definite imprisonment is imposed on the crimes they committed, the highest penalty applied shall not exceed three-fourths of the duration of imprisonment prescribed by the Criminal Code:

a) Murder;

b) Rape

Rape of a person under 16 years of age;

Non-consensual intercourse with a person from 13 to under 16 years of age;

dd) Illegal manufacturing of narcotic substances;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



4. For persons from 14 to under 16 years of age when committing the following crimes, if the indefinite imprisonment or death sentence is imposed on the crimes they committed in accordance with the Criminal Code, the highest penalty applied shall not exceed 18 years of imprisonment; if a definite imprisonment is imposed on the crimes they committed, the highest penalty applied shall not exceed half of the duration of imprisonment prescribed by the Criminal Code:

a) Murder;

b) Rape

Rape of a person under 16 years of age;

Non-consensual intercourse with a person from 13 to under 16 years of age;

dd) Illegal manufacturing of narcotic substances;

Section 2. SENTENCE DECISION, COMBINATION OF SENTENCES, SENTENCE EXEMPTION OR COMMUTATION, CONVICTION EXPUNGEMENT

Article 120. Sentence decision in cases of preparation for crimes, attempts to commit a crime

1. The court shall decide on the sentence for juveniles in cases of preparation for crimes, attempts to commit a crime as specified in Criminal Code on corresponding crimes hereof and vary according to their nature, danger to society, progress of the crime and other factors that prevent the crime from being committed to the end.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



The highest sentence imposed on a person from 16 to under 18 years of age preparing to commit a crime shall not exceed half of the sentence prescribed in the bracket for the act of preparing to commit a crime in the applicable article of the Criminal Code.

3. The highest sentence imposed on persons from 14 to under 16 years of age who commit crimes shall not exceed one-third of the sentence prescribed by Articles 117, 118, and 119 of the Criminal Code.

The highest sentence imposed on persons from 16 to under 18 years of age who commit crimes shall not exceed half of the sentence prescribed by Articles 117, 118, and 119 of the Criminal Code.

Article 121. Combination of sentences of multiple crimes

1. When a juvenile delinquent is tried for multiple crimes, the Court shall decide the sentence for each of them and combined sentence in accordance with the Criminal Code.

If the combined sentence is a community sentence, it shall not exceed 3 years of community sentence.

If the combined sentence is a definite imprisonment, it shall not exceed 18 years of imprisonment for offenders from 16 to under 18 years of age and 12 years for offenders from 16 to under 18 years of age.

2. For juveniles who commit multiple crimes, some of which are committed before they turn 16, some of which are committed after they turn 16, the combined sentence shall not exceed the highest sentence for persons from 16 to under 18 years of age as prescribed in Clause 1 of this Article.

3. For persons who commit multiple crimes, some of which are committed before they turn 16 and some of which are committed after they turn 16, the combined sentence shall be applied as for offenders who are 18 years of age or older.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



The combination of sentence in cases where a person who is serving a sentence is tried for a crime committed before such sentence is imposed, shall follow the Criminal Code.

In case a person has to serve multiple sentences that are not combined, the combination shall follow the Criminal Code.

For juvenile who commit multiple crimes, some of which are committed before they turn 16, some of which are committed after they turn 16, the combined sentence shall not exceed the highest sentence for persons from 16 to under 18 years of age as prescribed in Clause 1 of this Article.

Article 123. Commutation of sentence

1. A juvenile delinquent subject to a community sentence or imprisonment, if he/she has made progress and has served one-fourth of the term, shall be considered for a commutation by the Court; for imprisonment, each time the sentence may be reduced by four years, but he/she must serve at least two-fifths of the sentence.

2. A juvenile delinquent subject to a community sentence or imprisonment, if he/she has made merits or is suffering from serious illness, shall immediately be considered for sentence commutation and may be exempted from serving the remaining part of the sentence.

3. A juvenile delinquent who is fined but falls into a particularly disadvantaged economic situation for a long time due to a natural disaster, fire, accident, or illness or has made merits, the Court may decide on commutation or exemption from the remaining part of the fine upon the request of the Director of the Procuracy.

Article 124. Suspended sentence

Where a person is sentenced to imprisonment of up to 03 years, in consideration of the juvenile's identity and mitigating factors, the Court might give a suspended sentence with a probation period of 01 - 03 years and request the convict to fulfill certain obligations during this period in accordance with the Law on criminal judgment enforcement if imprisonment is deem unnecessary.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Juvenile delinquents sentenced to imprisonment shall be eligible for suspended sentence in one of the following cases:

1. Cases eligible for suspended sentence in accordance with the Criminal Code;

2. In case the juvenile sentenced to imprisonment has registered and is eligible to participate in or is participating in the lower secondary school graduation exam, high school graduation exam, or graduation exam in vocational education institutions confirmed by the educational institution or vocational education institution where he/she studies, his/her sentence may be postponed until the exam is completed.

Article 126. Parole

1. Juvenile delinquents sentenced to imprisonment shall be eligible for a parole in one of the following cases:

a) Have made considerable progress and great rehabilitation;

b) Have serve one-thirds of the imprisonment;

c) Have a clear place of residence.

2. The juvenile delinquent shall be eligible for to be considered for a parole immediately when all the conditions specified in Clause 1 of this Article are met.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



3. Upon request by the competent criminal judgment enforcement agency, the court shall decide to grant a parole to the convict. The person on parole must fulfill the obligations during the probation period. The probation period is equal to the remaining time of the imprisonment.

4. If the person on parole breach his/her obligations multiple times or is administratively sanctioned multiple times during the probation period, the Court may cancel the parole decision and force him/her to serve the remaining part of imprisonment.

If that person commits a new crime during the probation period, the Court shall force him/her to serve a new combined sentence including the unserved imprisonment as prescribed in Article 122 of this Law.

5. If the person on parole has served at least half of the probation period and has made significant progress, the Court may, upon the request of the competent criminal judgment enforcement agency, shorten the probation period.

Article 127. Conviction expungement

1. A juvenile convict shall be considered not having convictions if he/she falls in one of the following cases:

a) Persons from 14 to 16 years of age;

b) Persons from 16 to 18 years of age who are convicted of unintentional less serious crimes, serious crimes, or very serious crimes;

2. Persons from 16 to 18 years of age who are convicted of intentional less serious crimes, serious crimes, or very serious crimes shall have his/her convictions automatically expunged if, from the time of completing the sentence or the end of the probation period or the end of the statute of limitations for the sentence enforcement, that person does not commit a new crime in:

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



b) 06 months for cases subject to 5 years of imprisonment;

c) 01 year for cases subject to 5 to 15 years of imprisonment;

d) 02 years for cases subject to more than 15 years of imprisonment;

Chapter VII

LEGAL PROCEEDINGS FOR JUVENILES WHO ARE PERSONS FACING DENUNCIATION OR REQUISITIONS FOR CHARGES, PERSONS HELD IN EMERGENCY CUSTODY, PERSONS FACING CHARGES

Section 1. GENERAL PROVISIONS

Article 128. Issues to be determined when conducting legal proceedings for accused juveniles

1. 1. Age, physical and mental development level, level of awareness of the criminal behavior of the juvenile.

2. Living and educational conditions.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



4. Causes, conditions, and circumstances of the crime.

Article 129. Time limits for investigation, decisions on prosecution, preparation for adjudication in the first instance/second instance

1. Time limits for investigation, decisions on prosecution, preparation for adjudication in the first instance/second instance for cases involving accused juveniles shall not exceed half of the time limits prescribed by Criminal Procedure Code.

For particularly complex cases or during the prosecution and adjudication in the first instance, the Procuracy and the Court shall issue a notification on applying diversion procedure, then the corresponding regulations on the time limits for investigation, decisions on prosecution, preparation for adjudication in the first instance/second instance as prescribed in the Criminal Procedure Code shall apply.

2. The Prosecutor General of the Supreme People's Procuracy shall take charge and cooperate with the Chief Justice of the Supreme People's Court, the Minister of Public Security, and the Minister of National Defense, shall elaborate this Article.

Article 130. Defense

1. Accused juveniles have the right to defend himself or herself or to have someone else defend him or her.

2. The representative of the accused juvenile has the right to choose a defense counsel or to defend the juvenile himself or herself

3. If the accused juvenile does not agree with the defense counsel selected by the representative, the choice must be made according to the opinion of the accused juvenile.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 131. Notification of procedural activities

1. Before the legal proceedings, the competent procedural agency, person must notify in advance, within a reasonable time, the representative, the defense counsel, the person protecting the lawful rights and interests of the juvenile who is person facing denunciation or requisition for charge, person held in emergency custody, person facing charge of the time and place of conducting the legal proceedings in which they have the right to participate in accordance with this Law and the Criminal Procedure Code.

2. The notification must be in writing, clearly stating the full name, address, and phone number of the person issuing the notification and the person being notified. In cases where it is necessary to ensure the timely presence of the representative, defense counsel, or person protecting lawful rights and interests of the juvenile who is person facing denunciation or requisition for charge, person held in emergency custody, person facing charge, the competent procedural agency, person may notify directly, by telephone or other electronic means, but must immediately send a written notice afterwards.

3. The representative, defense counsel, or person protecting lawful rights and interests of the juvenile who is person facing denunciation or requisition for charge, person held in emergency custody, person facing charge, upon receiving the notification, must promptly inform the competent procedural agency, person of their presence and participation in the legal proceedings.

4. Notification of other procedural activities shall be carried out in accordance with the Criminal Procedure Code.

Article 132. Representatives’ participation in legal proceedings

1. The representative of the juvenile who is the person facing denunciation or requisition for charge, the person held in emergency custody, or the person facing charge shall have the right and obligation to participate in legal proceedings in accordance with competent procedural agency.

2. Cases ineligible to be the representative of a juvenile who is the person facing denunciation or requisition for charge, the person held in emergency custody, or the person facing charge include:

a) This person's participation will have a negative impact on the psychology of the juvenile, affecting the determination of the truth of the case;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



3. The representative of the juvenile who is the person facing denunciation or requisition for charge, the person held in emergency custody, or the person facing charge are allowed to participate in taking testimonies, interrogating, confronting, searching body, inspecting traces across the body of the juvenile, participating in the identification, voice recognition and other procedural activities of the juvenile as prescribed by this Law and the Criminal Procedure Code; presenting evidence, documents, objects, requests, complaints, denunciations; reading, recording, photocopying documents related to the accusation of the juvenile in the case file after the investigation is completed

4. The representative of the juvenile who is the defendant, when participating in the trial has the right to present evidence, documents, objects, requests and proposals to change the presiding officers; express opinions, debate; complain about the procedural acts of those with authority to institute proceedings and the decisions of the Court.

5. Immediately after admitting a case, the competent procedural agency must notify in writing the representative of the juvenile who is the person facing denunciation or requisition for charge, the person held in emergency custody, or the person facing charge to participate in the proceedings; if necessary, the notification may be made directly, by phone or other electronic means, but a written one must be sent immediately afterwards.

6. The representative must be present at the time and place stated in the notification.

Article 133. Organizations’ participation in legal proceedings

1. Representatives of educational institutions, vocational training institutions, the Vietnam Women's Union, the Ho Chi Minh Communist Youth Union, and other organizations where juveniles study, work, and live have the right and obligation to participate in the legal proceedings in accordance with the decision of the competent procedural agency.

2. The persons specified in Clause 1 of this Article, when participating in the trial, have the right to present evidence, documents, objects, requests; express opinions, and debate.

Article 134. Maintaining confidentiality of information of juveniles who are persons facing denunciation or requisitions for charges, persons held in emergency custody, persons facing charges

1. Information related to crimes of juveniles shall not be made public, except in cases where the person is under a pursuit warrant of a competent authority.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



3. In special cases where it is necessary to protect juveniles, the Court may conduct a secret adjudication but must publicly announce the decision of the judgment.

Section 2. PREVENTIVE MEASURES, COERCIVE MEASURES

Article 135. Preventive measures, coercive measures

1. Preventive measures applying to juveniles include:

a) Emergency custody;

b) Arrest for cases specified in the Criminal Procedure Code;

c) Temporary detainment;

d) Detention;

dd) Electronic monitoring (EM);

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



g) Bail;

h) Surety;

i) Residential confinement;

k) Exit restriction.

2. Coercive measures applying to juveniles include:

a) Coercive delivery and forced escort

b) Distrainment of property;

c) Freezing of accounts.

3. After emergency custody, arrest, temporary detainment or detention, persons issuing detainment order or custodial orders against juveniles inform in writing the juveniles’ families, the commune-level People's Committees where they reside or agencies, organizations where they work or study; if necessary, the notification may be made directly, by phone or other electronic means, but a written one must be sent immediately afterwards.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



If such notice obstructs the pursuit of suspects or investigative activities, investigation authorities receiving detainees and arrestees shall release notices after such obstructions suspend to exist.

Article 136. Emergency custody

1. Persons 14 to under 16 years of age may be held in emergency custody for crimes for which they are criminally liable under the Criminal Code if they fall under the cases subject to emergency custody as prescribed in the Criminal Procedure Code.

2. Persons 16 to under 18 years of age may be held in emergency custody for intentional serious crimes, very serious crimes, extremely serious crimes for which they are criminally liable under the Criminal Code if they fall under the cases subject to emergency custody as prescribed in the Criminal Procedure Code.

Article 137. Temporary detainment

1. Persons 14 to under 16 years of age may keep in Temporary detainment for crimes for which they are criminally liable under the Criminal Code if they fall under the cases subject to Temporary detainment as prescribed in the Criminal Procedure Code.

2. Persons 16 to under 18 years of age may be temporarily detained for intentional serious crimes, very serious crimes, extremely serious crimes for which they are criminally liable under the Criminal Code if they fall under the cases subject to Temporary detainment as prescribed in the Criminal Procedure Code.

Persons 16 to under 18 years of age may be temporarily detained for unintentional serious crimes or less serious crimes if they continue to commit more crimes or escape and get caught under pursuit warrants.

3. The duration of temporary detainment must not exceed 3 days from the time the Investigation Authority or the agency assigned to conduct certain investigation activities receives the detainee or arrestee or escorts the detainee or arrestee to its headquarters or from the time the Investigation Authority make an order to temporarily detain the offender who turns themselves in. If necessary, the person making the order of temporary detainment may extend the detainment duration once but not more than 03 days.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 138. Detention

1. Detention may be applied to juveniles who are suspects or defendants from 14 to under 16 years of age for extremely serious crimes as prescribed by the Criminal Code when there are grounds to determine that that person falls into one of the following cases:

a) Other preventive measures have been applied, but the offender still continues to violate the law;

c) He/she does not have a clear place of residence;

c) He/she escapes and gets caught under a pursuit warrant;

d) He/she continues to commit crimes or there is reason to believe that this person is searching for, preparing tools, means or creating other conditions to continue committing crimes;

d) He/she destroys or forges evidence, documents, or objects of the case; threatens, represses, or takes revenge on witness testifiers, crime victims, denouncers, and their kin.

2. Detention may be applied to juveniles who are suspects or defendants from 14 to under 16 years of age for very serious crimes as prescribed by the Criminal Code when there are grounds to determine that that person falls into one of the following cases:

a) Other preventive measures have been applied, but the offender still continues to violate the law;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



c) He/she escapes and gets caught under a pursuit warrant;

d) He/she continues to commit crime;

d) He/she destroys or forges evidence, documents, or objects of the case; threatens, represses, or takes revenge on witness testifiers, crime victims, denouncers, and their kin.

3. Detention may be applied to juveniles who are suspects or defendants from 16 to under 18 years of age for intentional serious crimes, very serious crimes, extremely serious crimes as prescribed by the Criminal Code when there are grounds to determine that that person falls into one of the following cases:

a) Other preventive measures have been applied, but the offender still continues to violate the law;

c) He/she does not have a clear place of residence;

c) He/she escapes and gets caught under a pursuit warrant, or there are grounds proving that he/she will escape;

d) He/she continues to commit crimes or there is reason to believe that this person is searching for, preparing tools, means or creating other conditions to continue committing crimes;

d) He/she bribes, coerces, or incites other individuals to give false statements or documents; destroys or forges evidence, documents, or objects of the case; threatens, represses, or takes revenge on witness testifiers, crime victims, denouncers, and their kin.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



5. The detention period for juveniles who are suspects or defendants shall not exceed half of the corresponding detention period prescribed in the Criminal Procedure Code, except in the case prescribed in Clause 8 of Article 151 of this Law. When there are no longer grounds for applying detention, the competent procedural agency or person must promptly cancel or replace the measure with another preventive measure.

6. If the juveniles who are suspects or defendants are being held in detention and there are notifications of the application of the diversion procedure, presiding authorities shall consider continuing the detention or canceling it and replacing it with another preventive measure.

7. The Prosecutor General of the Supreme People's Procuracy shall take charge and cooperate with the Chief Justice of the Supreme People's Court, the Minister of Public Security, and the Minister of National Defense, shall elaborate clause 5 of this Article.

Article 139. Electronic monitoring - EM

1. EM is an alternative preventive measure to detention. Based on the nature, level of danger to society of the behavior and personal identity of the juvenile who is a suspect or defendant, the Investigation Authority, the Procuracy, or the Court may decide to allow them to be electronically monitored.

2. The suspect or defendant under EM must make a written commitment to perform the following obligations:

a) Not leaving the monitoring area, except in cases specified in Clause 5 of this Article;

b) Being present upon summons, except in cases of force majeure or objective obstacles;

c) Not escaping or continuing to commit crimes;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



dd) Not removing or destroying electronic monitoring devices or disrupt the operation of electronic monitoring devices.

3. The Head and Deputy Head of the Investigation Authority, the Director and Deputy Director of the Procuracy, the Chief Justice and Deputy Chief Justice of the Court, the Judge presiding over the trial, and the Adjudication Panel have the right to issue decisions on electronic monitoring of minors who are suspects or defendants and must clearly state the scope of monitoring. The decision of the Head and Deputy Head of the Investigation Authority must be approved by the Procuracy of the same level before enforcement.

4. The period of electronic monitoring shall not exceed the time limit for investigation, decisions on prosecution, preparation for adjudication in the first instance/second instance as prescribed in this Law. The period of electronic monitoring for a person sentenced to imprisonment shall not exceed the time limit from the date of sentencing until the time the person goes to serve imprisonment.

5. The person who issues the decision on applying electronic monitoring must immediately send this decision to the juvenile who is the suspect, the defendant, and their representative; immediately notify the People's Committee of the commune where the juvenile resides and hand over the juvenile to the People's Committee of that commune for enforcement.

If the juvenile who is the suspect, the defendant must temporarily leave the area of ​​monitoring due to force majeure or objective obstacles, the consent of the People's Committee of the commune where the person resides and a permit from the person who issued the decision on applying electronic monitoring must be obtained; The permit must be sent to the People's Committee of the commune where the person resides.

6. If the suspects and defendants violate duties guaranteed in clause 2 of this Article, they shall be held in detention. People's Committees of communes where the suspects and defendants reside must inform the authorities issuing Decision on applying electronic monitoring about the violations to handle them within their jurisdiction.

7. Cancellation or replacement of electronic monitoring shall comply with the regulations on cancellation or replacement of preventive measures of this Law and the Criminal Procedure Code.

8. The Government shall elaborate this Article.

Article 140. Measures of being put under supervision of the representative

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. The suspect or defendant under supervision of the representative must make a written commitment to perform the following obligations:

a) Being present upon summons, except in cases of force majeure or objective obstacles;

b) Not escaping or continuing to commit crimes;

c) Not committing acts of bribing, coercing or inciting other individuals to give false statements or documents, destroying or forging case evidences, documents and item, shifting property related to the case away, threatening, repressing or avenging witness testifiers, crime victims, denouncers and their kin;

3. The Head and Deputy Head of the Investigation Authority, the Director and Deputy Director of the Procuracy, the Chief Justice and Deputy Chief Justice of the Court, the Judge presiding over the trial, and the Adjudication Panel have the right to issue decisions on measures of being put under the supervision of the representative and handle over the juveniles who are suspects, defendants to their representatives for supervision.

The representative assigned to supervise has the obligation to closely supervise the juvenile and his/her conduct, morality and education.

In case the representative is not able to continue performing the assigned tasks or fails to complete the assigned tasks, the competent person specified in this clause shall decide to change the representative.

4. The period of measures of being put under supervision of the representative shall not exceed the time limit for investigation, decisions on prosecution, preparation for adjudication in the first instance/second instance as prescribed in this Law. The period of the measure of being put under supervision of the representative for a juvenile sentenced to imprisonment shall not exceed the time limit from the date of sentencing until the time the person goes to serve imprisonment.

5. The person who issues the decision on applying the measure of being put under supervision must immediately send this decision to the juvenile, who is the suspect, the defendant, and their representative; immediately notify the People's Committee of the commune where the juvenile resides for management and supervision of the juvenile.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



6. If the suspects and defendants violate duties guaranteed in clause 2 of this Article, they may be held in detention. The representative assigned to supervise must promptly inform the People's Committee at the commune level of the violation and cooperate with competent authorities to take timely measures to prevent and handle it. People's Committees of communes where juveniles who are suspects and defendants reside must inform the authorities issuing Decision on applying the measure of being put under supervision about the violations to handle them within their jurisdiction.

7. Cancellation or replacement of measures of being put under supervision shall comply with the regulations on cancellation or replacement of preventive measures of this Law and the Criminal Procedure Code.

Article 141. Coercive delivery and forced escort

1. Coercive delivery and forced escort shall be imposed on juveniles in one of the following cases:

a) Juveniles who are suspects or defendants that have been summoned for the second time but are intentionally absent not due to a force majeure reason or an objective obstacle;

b) Juveniles who are persons held in emergency custody, suspects and defendants held in detention from the place of detention, temporary detainment to the location of investigation, prosecution and adjudication of the case.

2. Forced escort shall only apply on juveniles who are persons facing denunciation or requisitions for charges and through examination and verification there are enough grounds to determine that they are involved in a crime for which the case is prosecuted, has been summoned but is still absent without force majeure or objective obstacles.

3. When escorting the juvenile, handcuffs or other coercive measures shall not be applied, except in cases where the juvenile shows signs of escape, acts of resistance, or disturbs public order.

Section 3. PROCEDURES FOR FILING OF CHARGES, INVESTIGATION, PROSECUTION

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



1. All activities of lodging and processing of criminal information, filing of charges, investigation of cases involving juveniles who are persons facing denunciation or requisitions for charges, persons held in emergency custody, persons facing charges must be conducted in an environment that is favorable for ensuring the safety of their lives, health, personal privacy, honor, dignity, and other lawful rights and interests.

2. Friendly legal proceedings must be applied to juveniles who are persons facing denunciation or requisitions for charges, persons held in emergency custody, persons facing charges right from the stage of prosecution.

3. When conducting proceedings against juveniles who are persons facing denunciation or requisitions for charges, persons held in emergency custody, persons facing charges, competent procedural persons must have a friendly attitude and use easy-to-understand language that is appropriate to their age, gender, cognitive ability, and maturity level.

4. In case the agency assigned to conduct some investigation admits a case involving a juvenile who is a person facing charges, it must request the competent Procuracy to issue a decision to transfer the entire case to the competent Investigation authority.

5. The Prosecutor General of the Supreme People's Procuracy shall take charge and cooperate with the Chief Justice of the Supreme People's Court, the Minister of Public Security, and the Minister of National Defense, shall elaborate clause 4 of this Article.

Article 143. Separation in criminal cases involving juveniles

1. In a criminal case involving a juvenile and an adult defendant, the Investigation Authority shall separate the criminal case to resolve the case independently for the juvenile defendant.

2. Documents and evidence collected during the resolution of cases involving juveniles and cases involving adults as prescribed in Clause 1 of this Article shall be used in the resolution of these cases.

3. The Prosecutor General of the Supreme People's Procuracy shall take charge and cooperate with the Chief Justice of the Supreme People's Court, the Minister of Public Security, and the Minister of National Defense, shall elaborate this Article.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



1. For cases of statement extraction from or interrogation of juveniles at the place of investigation and prosecution, the room for statement extraction from or interrogation must be arranged to ensure friendliness and suitability for their psychology and age.

2. While extracting statements and interrogating, the competent procedural person must consider applying appropriate measures to minimize the time and number of times of extracting statements and interrogating and must immediately stop extracting statements and interrogating when the juvenile shows signs of fatigue, affecting the ability to give accurate and complete statements.

3. While extracting statements and interrogating juveniles, their representatives or defense counsels, or persons protecting their lawful rights and interests must be present; cases where it is necessary to keep the investigation confidential for crimes against national security shall be handled in accordance with the Criminal Procedure Code.

If necessary, when extracting statements and interrogating, the competent procedural agency may invite social workers, medical, psychological, educational, and social work experts.

4. After each time of statement extraction or interrogation by the competent person, the representative, the defense counsel, the person protecting of lawful rights and interests, and the social worker may interrogate the juvenile if the Investigator or Prosecutor agrees. The Investigator or Prosecutor has the right to request the cancellation of the interrogation, and the interrogation must immediately stop in case the questions of these people are suggestive or directional in nature related to the case.

5. Statement extraction from or interrogation of juveniles must not be carried out more than 02 times per day, 02 hours per session, except for the following cases:

a) Organized crimes;

b) Seeking of fugitive criminals;

c) Prevention of crimes;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



dd) Cases with several complex facts.

6. Statement extraction from or interrogation of juveniles must not be carried out at night, except for the following cases:

a) Juveniles held in emergency custody;

b) Seeking of fugitive criminals;

c) Prevention of crimes.

7. Written records of statements and interrogation bear no legal effect when they have the signature or fingerprint of juveniles’ representatives or defense counsels, or persons protecting their lawful rights and interests.

Article 145. Identification, voice recognition

1. Investigators, when necessary, may let juveniles who are arrestees, detainees and defendants to identify, recognize voices.

In case the juvenile is asked to identify an image of a corpse with a frightening appearance, he/she must be psychologically prepared or use appropriate electronic devices and simulated images for identification.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



3. Identification, voice recognition shall not be carried out at night, except for cases specified in Points b and c of Clause 6 of Article 144 of this Law.

4. Identification and voice recognition must be carried out in the presence of juveniles’ representatives or defense counsels.

Article 146. Confrontation

1. Confrontation with juveniles shall only be carried out in cases where the case cannot be resolved without confrontation.

2. Confrontation with juveniles shall only be carried out once a day and shall not last more than 2 hours. The competent procedural person shall immediately suspend the confrontation if the juvenile shows signs of fatigue or stress.

3. When conducting the confrontation, the competent procedural person may put the participants in an isolated room and use electronic devices, curtains, or other protective measures to avoid affecting the psychology of the juvenile.

4. The confrontation with minors must be conducted in the presence of their representatives or defense counsels and persons protecting their lawful rights and interests.

Article 147. Search of body, inspection of traces across a body

1. Search of body, inspection of traces across a body of a juvenile must be conducted in the presence of his/her representative.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Section 4. ADJUDICATION PROCEDURE

Article 148. Authority to adjudicate criminal cases

The Family and Juvenile Court has the authority to adjudicate criminal cases involving juveniles who are accused persons. For Courts that have not yet organized the Family and Juvenile Court, the adjudication of criminal cases involving juveniles who are accused persons shall be conducted by the Judge specified in Clause 1 of Article 29 of this Law.

Article 149. Friendly courtroom

1. The court shall adjudicate the defendant who is a juvenile in a friendly courtroom.

2. The positions of the presiding officers, participants in legal proceedings, and participants in the trial in the courtroom shall be arranged on the same plane.

The juvenile who is a defendant participating in the court proceedings shall sit next to his/her defense counsel or representative.

3. The Chief Justice of the Supreme People's Court shall elaborate this Article.

Article 150. Attendance of social workers

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 151. Friendly adjudication procedure

1. Trials must be conducted in a friendly manner, ensuring lawful rights and interests of juveniles. The Judge presiding over the trial must wear the administrative uniform of the Court; the prosecutor must wear appropriate uniform, not the uniform of the People's Procuracy.

2. During the trial, handcuffs or other coercive measures must not be applied, except in cases where the juvenile shows signs of resistance, causes disorder in the trial or other negative actions.

3. The representative of the juvenile may assist the juvenile at the trial.

4. Court president shall request the social worker present at the trial to present the social investigation report and the additional social investigation report (if any), propose the application of diversion measures (if any) and other related issues.

5. The questioning and debate with juveniles at court shall be conducted a manner that is suitable with their age, gender, cognitive ability and maturity. Questions should be brief, simple, and easy to understand, and not cover multiple issues at once.

6. During the trial, if the juvenile is found to be eligible for diversion measures, the Trial Panel shall review and decide to apply diversion measures on the defendant. This decision shall include the contents specified in Clause 1 of Article 56 of this Law, except for content related to adjournment of the lawsuits against the defendant. This decision may be appealed in accordance with the Criminal Procedure Code.

If it is deemed necessary to develop or supplement a diversion plan, the Trial Panel shall decide to suspend the trial and request the social worker to develop or supplement a diversion plan. The suspension period of the trial shall not exceed 10 days from the date of the trial suspension decision. After the suspension of the trial, the Trial Panel shall continue to resolve the case in accordance with law.

7. After pronouncing judgments or announcing decisions, the Trial Panel shall decide to hold the juvenile in detention in one of the following cases:

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



b) The juvenile is not being held in detention, but there are grounds to believe they may flee or commit further offenses.

8. The detention period applicable to juveniles is prescribed as follows:

a) No more than 45 days from the date of pronouncing judgments;

b) No more than 25 days from the date of announcing the decision on applying the educational measure at reformatory.

Article 152. Pronouncement of judgments

When pronouncing judgments, The Trial Panel shall read the decision in the judgment. Additional explanations on the abidance by the sentences and the right to appeal and other contents may be provided after the reading of the judgment in accordance with law.

Chapter VIII

LEGAL PROCEEDINGS IN RESPECT TO JUVENILES WHO ARE CRIME VICTIMS, WITNESS TESTIFIERS

Article 153. Provision of protection, assistance to juveniles who are crime victims, witness testifiers

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. Competent procedural agencies, persons must apply appropriate measures to minimize the anxiety and stress of the juveniles who are crime victims, witness testifiers during their participation in the proceedings.

3. Competent procedural agencies, persons must cooperate with social workers, child protection agencies, and other relevant organizations to support, care for, and protect juveniles who are crime victims, witness testifiers during their participation in the proceedings.

4. Cases involving juveniles who are crime victims or witness testifiers shall be prioritized and handled as soon as possible.

5. Competent procedural agencies, persons must apply appropriate, necessary measures in accordance with the law to protect the life, health, dignity, honor, property, and other lawful rights and interests of juveniles who are crime victims or witness testifiers and their kin when they are harmed or threatened.

6. Juveniles who are crime victims or witness testifiers shall not be escorted by force.

7. Juveniles who are crime victims facing difficult circumstances shall receive support from the Child Protection Fund.

Article 154. Representatives and supporters' participation in legal proceedings

1. Juveniles who are crime victims have the right to have a legal representative, a person protecting their lawful rights and interests, and juveniles who are witness testifiers have the right to have a legal representative to participate in legal proceedings. If the participation of the legal representative does not ensure the juvenile's interests, another legal representative must be appointed in accordance with the law.

2. Immediately after admitting a case, the competent procedural agency must notify in writing the legal representative of the juvenile who is a crime victim, the witness testifier to participate in the proceedings; if necessary, and the notification can be made directly, via phone, or other electronic means, but must be followed up with a written notification. The legal representative must be present at the time and location specified in the notification.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



4. At the request of the juvenile who is a crime victim, their legal representative, or when deemed necessary, the competent procedural agency may request the involvement of a social worker to guide, support the juvenile and perform other duties, powers of the social worker as prescribed by law.

5. If deemed necessary, the competent procedural agency may request medical, psychological, educational, and social work experts to assist the juvenile who is a crime victim, witness testifier during the legal proceedings.

Article 155. Maintaining confidentiality of information of juveniles who are crime victims or witness testifiers

1. Competent procedural agencies, persons must apply appropriate measures to maintain confidentiality of personal privacy of juveniles who are crime victims or witness testifiers.

2. It is strictly prohibited to disclose information about the full name, place of residence, education, work, images, and other identification-related information of juveniles who are crime victims or witness testifiers.

During pronouncing judgments, the Judge is not allowed to mention the full name, place of residence, education, or work of the juvenile who is a crime victim or witness testifier.

3. The court shall handle cases involving gender-based violence of juveniles or other special cases requiring juvenile protection in a secret trial.

4. Competent procedural agencies, persons must promptly request press agencies and news agencies not to publish or to remove information and images related to the case that affect the honor and dignity of juveniles who are crime victims or witness testifiers.

5. Competent procedural agencies, persons shall apply professional measures or request the competent authority to apply technical measures to protect the personal information, honor and dignity of juveniles who are crime victims or witness testifiers that are disseminated on the internet.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 156. Statement extraction, confrontation, identification, voice recognition, experimental investigations

1. Extraction of statements from juveniles who are crime victims and witness testifiers can be done at the place of investigation, prosecution, their place of residence or place of study, workplace, or living place, or at the facility for taking care of juveniles. Priority should be given to extracting statements at their place of residence. When extracting the testimony of juveniles who are crime victims or witness testifiers at the place of investigation or prosecution, a designated room must be arranged to ensure a friendly environment suitable for their psychology and age.

If deemed necessary, the testimony of juveniles who are crime victims or witness testifiers may be audio or video recorded.

2. During the extraction of the testimony of juveniles who are crime victims or witness testifiers, the competent procedural person must maintain a friendly attitude and use language that is easy to understand, appropriate for their age, gender, cognitive abilities, maturity level, and the specific circumstances of the family, psychological state, health, and other characteristics of the juveniles.

3. Competent procedural agencies, persons must limit the number of times of extraction of testimony from juveniles who are crime victims or witness testifiers and should only do so if deemed necessary.

4. Juveniles who are victims or witnesses should not be repeatedly questioned on the same matter. Testimony should not be taken more than twice in one day, each session not exceeding two hours, except in cases with complex circumstances. Extraction of testimony should be paused immediately if the juvenile shows signs of fatigue that may affect their ability to provide accurate and complete information.

5. During the extraction of testimony, the competent procedural person may use diagrams, models, electronic devices, or other tools to assist the extraction of testimony from juveniles who are crime victims or witness testifiers.

6. Confrontation between juveniles who are crime victims or witness testifiers and the accused persons should not be conducted unless deemed necessary for case resolution.

During the confrontation, the competent procedural person shall arrange separate rooms for the participants and use electronic devices, screens, or other protective measures to avoid affecting the psychology of the juveniles.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



7. Juveniles who are crime victims or witness testifiers have the right to refuse to participate in experimental investigations if such investigations may harm their psychological well-being.

8. During testimony, confrontation, identification, voice recognition, or experimental investigations, the juvenile’s legal representative or person protecting their lawful rights and interests must be present.

9. During testimony, confrontation, identification, voice recognition, or experimental investigations, Investigators, Investigation Officers, Prosecutors, and Inspectors should dress appropriately, not in the uniform of the People’s Police or Prosecution.

Article 157. Inspection of traces across a body, request for expert examinations

1. Inspection of traces across a body of a juvenile who is a crime victim, witness testifier must involve their legal representative.

If deemed necessary, a doctor may be invited to participate in the inspection of traces across the body of a juvenile who is a crime victim. The examination of the genital of a juvenile who is the victim must be performed by a doctor.

2. The inspection of traces on the body of a juvenile who is the victim or witness must be carried out as quickly as possible.

3. Only request an expert examination or take samples from the body of a minor who is the victim or witness if there are grounds to believe that it is necessary to resolve the case. When conducting an expert examination and taking samples from the body, the privacy of the juvenile must be respected.

4. The agency handling the case must perform an examination within 24 hours of discovering grounds in cases of crimes in flagrante, crimes that have just ended but are discovered, or cases that require expert examination or have grounds or documents proving an act of harming juveniles. If it is necessary to take the victim to a medical establishment for first aid or emergency care, the agency handling the case must cooperate with the medical establishment to collect samples for expert examination.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



1. The Trial Panel must limit contact between the juvenile who is the victims and witnesses and the defendant when they present their testimony at the trial.

2. During the trial, the Trial Panel must isolate the juvenile who is the crime victim and witness testifier from the defendant in the following cases:

a) Cases involving juveniles who are victims of gender-based violence, violence, or trafficking;

b) Cases involving victims under 10 years of age;

c) Other cases where the juvenile or their representative requests isolation and the Trial Panel deems it necessary to isolate them to ensure the best interests of the juvenile.

Article 159. Adjudication procedure

1. Limiting the summoning of juveniles who are crime victims or witness testifiers to participate in court if it does not affect the resolution of the case. The judge presiding over the trial shall use the juvenile’s testimony in the case file or apply other alternative measures to adjudicate the case.

The judge presiding over the trial may decide to conduct an online trial in accordance with law so that juveniles who are crime victims or witness testifiers can participate in the trial at the multi-party hearing venue.

2. When juveniles who are victims or witnesses participate in the trial, they shall be put in an isolated room and allowed to use electronic devices; if an isolated room cannot be arranged, they shall be allowed to sit in the courtroom but must be separated from the defendant.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



a) When questioning, questions must be brief, simple, and easy to understand, using language appropriate to the juvenile's age, gender, cognitive ability, and maturity level. Multiple matters shall not be asked at the same time. The questioning must pay attention to the specific characteristics of juveniles' family circumstances, psychological status, health and other characteristics;

b) If necessary, body diagrams, models, electronic devices or other tools can be used to assist the juvenile in answering questions. Juveniles who are crime victims and witness testifiers must not be asked to point to their body parts;

c) Questions that are offensive, threatening, embarrassing or insulting to juveniles who are crime victims and witness testifiers are prohibited.

4. Juveniles who are crime victims or witness testifiers are provide with conditions to be familiar with and interact with the adjudication process and procedures.

5. The Chief Justice of the Supreme People's Court shall elaborate this Article.

Article 160. Compensation for juveniles who are crime victims

1. Determination of damage and compensation for damage shall be carried out in accordance with civil laws.

2. Compensation for juveniles who are crime victims must be made promptly.

3. If life, health of the juvenile who is the crime victim is harmed and requires timely treatment but the person compensating cannot make compensation immediately, funds from the Children Protection Fund may be used. The person with the obligation to compensate must repay the Fund in accordance with applicable regulations.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 161. Support for functional rehabilitation for juvenile who are victims

1. Crime victims who are under 16 years of age shall receive support and intervention in accordance with the Law on Children.

2. Victims from 16 to under 18 years of age have the right to be arranged a safe temporary residence, receive psychological counseling, medical treatment, legal aid, skills training, alternative care and other support activities as prescribed by law.

Part four

ENFORCEMENT OF IMPRISONMENT, COMMUNITY REINTEGRATION

Chapter IX

ENFORCEMENT OF IMPRISONMENT

Article 162. Facility conditions of separate prisons, prison divisions, and areas for detention for juvenile inmates in prisons

1. Separate prisons, prison divisions, and areas for detention for juvenile inmates in prisons must be arranged and designed to suit age and gender of the juveniles and ensure the following areas and facilities are available:

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



b) Prison cell;

c) Facilities serving study, living, medical care;

d) Sports and entertainment area;

dd) Labor and vocational training area;

e) Visiting area;

g) Other facilities as prescribed by the Law on Enforcement of Criminal Judgments.

2. Prison cells must be cool in the summer, windproof in the winter, and environmentally hygienic The minimum sleeping area for each juvenile inmate is 2,5 m2.

3. Separate prisons, prison divisions, and areas for detention for juvenile inmates must have facilities for juveniles to participate in physical education, sports, cultural and artistic activities, listen to the radio, read books and newspapers, watch television, and other appropriate forms of entertainment.

4. The arrangement of separate detention for juvenile inmates shall follow the Law on Enforcement of Criminal Judgments.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



6. Based on actual conditions, the Minister of Public Security and the Minister of National Defense shall decide to organize separate prison, prison divisions, and areas for detention for juvenile inmates.

7. The Government shall detail Clauses 1, 2, 3, 4, and 5 of this Article.

Article 163. Medical care

1. Juvenile inmates shall receive medical care, including:

a) Psychological and mental health counseling;

b) Reproductive health care;

c) Other types of medical care as prescribed by the Law on Enforcement of Criminal Judgments.

2. Juvenile inmates shall receive a medical check-up upon arrival at the detention center and a general health check once a year.

3. The Government shall detail this Article.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



1. Prisons are responsible for educating juvenile inmates about culture, law, providing career education, vocational training appropriate to their age, educational level, gender and health. Juvenile inmates are entitled to cultural education, career education, and vocational training according to regulations of the Government.

2. In cases where it is not possible to arrange teachers for cultural education according to regulations, prisons must cooperate with educational institutions to organize and link online classes for juvenile inmates. The opening of online classes must ensure safety, avoid discrimination, and influence juvenile inmates and other inmates.

3. Juvenile inmates are allowed to work in accordance with their age and health; do not have to do heavy or dangerous work or exposure to toxic substances; are ensured occupational safety and hygiene.

4. The Government shall detail this Article.

Article 165. Board and lodging, clothing, cultural and artistic activities, and entertainment

1. Juvenile inmates are guaranteed the same food ration standards as adult inmates and are given additional meat and fish, but not more than 20% of the ration.

2. In addition to receiving standard clothing and personal belongings as adult prisoners, each year juvenile inmates are provided with additional uniform clothing and other personal belongings according to applicable regulations.

3. Prisons are responsible for organizing physical education, sports, cultural and artistic activities, activities of listening to the radio, reading books and newspapers, watching television and other forms of entertainment suitable to the characteristics of juveniles.

4. Juvenile inmates are encouraged to develop their personal abilities, strengths and talents.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 106. Visits, correspondence

1. Juvenile inmates are allowed to meet their relatives no more than 4 times in 1 month, each meeting not exceeding 4 hours. Depend on the inmate's performance grade, the requirements for education and reform, and the achievements in work and study, juvenile inmates may have their meeting time extended but not exceeding 24 hours for 1 meeting.

2. Juvenile inmates are allowed to make domestic telephone calls and video calls, calls using electronic devices with their relatives no more than 4 times in 1 month; each call shall not exceed 15 minutes, except in urgent cases. The communication must be supervised by prison officers. The costs of communication specified in this clause shall be paid by the inmate.

3. The State encourages relatives of juvenile inmates to send books, school supplies, exercise, sports, and entertainment equipment to the inmates.

Article 167. Prison officers

Prison officers must be trained or educated in psychology and educational sciences of juveniles, or have participated in resolving cases involving juveniles.

Article 168. Commendation for juvenile inmates

1. While serving his/her prison sentence, a juvenile inmate who properly complies with prison internal regulations, makes achievements in study, work, or records merits, and shall be commended in one or more of the following forms:

a) Praise;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



c) Reward in cash or in kind;

d) Increase of the number of domestic telephone calls and video calls, calls using electronic devices with relatives;

dd) Increase the number and duration of visits with relatives;

e) Increase the number of receipt and quantities of presents.

2. The Government shall detail this Article.

Article 169. Handling of violating juvenile inmates

1. Juvenile inmates who violate internal regulations of prisons or commit illegal acts shall, depending on the nature and severity of the violation, be subject to disciplinary action in accordance with the law on enforcement of criminal judgments. The measure of detention in a disciplinary cell shall not be applied to juvenile inmates.

2. The Government shall detail this Article.

Article 170. Transfer of inmates to other prisons, prison divisions, or detention areas to continue serving their sentences.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. Juvenile inmates may be considered for transfer to another prison if it is deemed more effective for their education, rehabilitation, and reintegration into the community or when deemed necessary.

Article 171. Preparation of release of inmates

1. Two months before the juvenile inmate’s imprisonment expires, the prison must inform him/her, his/her representative, the criminal judgment enforcement agency of the district-level police, the commune-level People's Committee, the agency or organization agency or organization in which such person will return to reside and work, and inform the Ministry of Foreign Affairs in the case of a foreign juvenile inmate.

2. The notification includes: the date of release, the results of serving imprisonment and other relevant necessary information for consideration, arrangement and establishment of a normal life for that person.

3. If the release date of the juvenile inmate who has completed serving imprisonment is unknown, the prison shall notify the People's Committee of the commune where the prison is located to request assistance, arrangement of food, accommodation, and employment and study; if the commune-level People's Committee cannot arrange food and accommodation for them, the prison shall prepare a file to send them to a social protection facility in that local area.

4. For inmates under 16 years of age or sick inmates from 16 to under 18 years who have no relatives to pick them up on the day of release, the prison shall send someone to take them back to their family or the People's Committee of the commune where they reside.

5. The Government shall detail this Article.

Chapter X

COMMUNITY REINTEGRATION

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



1. Reform schools and prisons shall prepare for community reintegration for juveniles before they complete their educational measures at reformatory, juveniles whose educational measures at reformatory schools are terminated early, juveniles who have completed serving imprisonment, juveniles who are granted pardon, and juveniles under parole. Preparation for community reintegration includes:

a) Psychological counseling, support for legal procedures;

b) Career orientation, job seeking;

c) An amount of financial support set aside from the community integration fund of the reform school, prison.

2. The State encourages agencies, organizations, units and individuals to enable and help juveniles who have completed serving education measures at reformatory, juveniles whose educational measures at reformatory schools are terminated early, juveniles who have completed serving imprisonment, juveniles who are granted pardon, and juveniles under parole to reintegrate into the community through the following measures:

a) Information, communication and education on community reintegration;

b) Vocational training and employment;

a) Psychological counseling, support for legal procedures;

d) Other types of assistance.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 173. Receipt, provision of assistance for juveniles reintegrating into the community

1. The Chairman of the People's Committee of the commune where the juvenile resides shall organize and provide assistance to the juvenile reintegrating into the community. The duration of assistance shall be at least 06 months from the time of receiving the juvenile.

2. Assistance for community reintegration includes:

a) Appointing one or more of the following persons to assist the juvenile in community integration: social workers, commune-level social work collaborators, representatives of the Vietnam Women's Union, the Ho Chi Minh Communist Youth Union or reputable persons in the community who have the conditions, ability and experience in educating and helping juveniles;

b) Inspecting, urging the implementation and mobilizing people in the residential area to closely cooperate with the family in helping the juvenile reintegrate into the community;

c) Providing necessary psychological assistance, support for legal procedures for the juvenile;

d) Enable the juvenile’s participation in education, labor, career orientation, vocational training, and life skill programs;

dd) Propagate, mobilize people, and implement other measures to eliminate prejudice, stigma, and discrimination against juveniles;

e) Encourage and enable agencies, organizations, educational institutions, vocational training institutions, enterprises, and individuals to receive and provide assistance in study, work, career orientation, vocational training, and job seeking for juveniles.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Article 174. Psychological assistance

1. Psychological assistance aims to support and assist juveniles who have completed serving education measures at reformatory, juveniles whose educational measures at reformatory schools are terminated early, juveniles who have completed serving imprisonment, juveniles who are granted pardon, and juveniles under parole to build confidence, determination, and will to reintegrate into the community and prevent negative behaviors and violations of the law.

2. Psychological assistance includes: counseling to eliminate inferiority complexes; training in life skills and community integration skills; improving the ability to self-solve difficulties and problems in social relationships and other types of assistance.

3. Psychological assistance shall be provided in the following forms:

a) Organizing private counseling, group counseling;

b) Providing information and documents based on the need for assistance;

c) Through talks, community activities, forums;

d) Consulting through social networks, websites, emails, telephones and other means of information and communication.

Article 175. Vocational training, employment

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



2. Based on the needs of juveniles who have completed serving education measures at reformatory, juveniles whose educational measures at reformatory schools are terminated early, juveniles who have completed serving imprisonment, juveniles who are granted pardon, and juveniles under parole, and the reality of the labor market, the employment service center shall provide free job counseling and referrals for them; monitor and report their employment status as introduced by the center to the state management agency for employment services.

3. Enterprises, organizations and individuals are not allowed to discriminate or stigmatize when recruiting or employing employees who are juveniles from 15 years of age or older because they have previously been subjected to educational measures at reformatory or have been sentenced to imprisonment.

Article 176. Responsibilities of persons appointed to assist minors in community reintegration

1. Providing psychological assistance to juveniles.

2. Proposing appropriate assistance, intervention and protection measures for juveniles during the process of community reintegration in accordance with law.

3. Providing timely support for issues arising during the process of assisting juveniles.

4. Performing other tasks assigned by the Chairman of the commune-level People's Committee.

Part five

IMPLEMENTATION CLAUSES

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



1. Some chapters and articles of the Criminal Code No. 100/2015/QH13, which has been amended by a number of articles under Law No. 12/2017/QH14 shall be amended and annulled as follows:

a) Chapter XII is annulled;

b) The Phrase “tư pháp” is removed from point g of clause 1 of Article 134.

2. Some chapters and articles of the Criminal Procedure Code No. 101/2015/QH13, which has been amended by a number of articles under Law No. 02/2021/QH15 and Law No. 34/2024/QH15 shall be amended and annulled as follows:

a) Amendments to Article 7:

“Article 7. Upkeep of socialist law enforcement regarding criminal procedures

Every activity of criminal procedures must abide by this Code. The processing of criminal information, filing of charges, investigation, prosecution and adjudication shall abide only by the grounds, procedures and formalities as defined by this Code. Lodging and processing of criminal information, filing of charges, investigation, prosecution and adjudication in respect of juveniles must also comply with the Law on Juvenile Justice.";

b) The phrase “quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát; quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội;” (“decisions on the entrustment of persons under 18 to authorities and entities in charge of supervision”) at Point d of Clause 1 of Article 37 and Point h of Clause 1 of Article 42 shall be removed;

c) Point d of clause 1 of Article 39 is annulled;

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



d) The phrase “hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật Hình sự” ("or as per justifications prescribed in Article 16 or Article 29 or Clause 2 of Article 91 of the Criminal Code") shall be replaced with the phrase “hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 của Bộ luật Hình sự hoặc người chưa thành niên được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng theo quy định của Luật Tư pháp người chưa thành niên” ("or as per justifications prescribed in Article 16 or Article 29 of the Criminal Code" or juveniles eligible for diversion measures as prescribed in Law on Juvenile Justice”) at Point a of Clause 1 of Article 230 and Clause 1 of Article 248;

e) The phrase “hoặc người chưa thành niên được áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng theo quy định của Luật Tư pháp người chưa thành niên” ("juveniles eligible for diversion measures as prescribed in Law on Juvenile Justice") shall be added to after the phrase “của Bộ luật này” ("of this Code") at Point a of Clause 1 of Article 282;

g) The phrase "or clause 2 of Article 91” in Article 285 shall be removed;

h) Amendments to clause 2 of Article 330:

"2. The decisions in a first instance court, which are appealed, refer to decisions to suspend or dismiss the case or lawsuit against suspects and defendants and other decisions in the first instance court as per this Code and the Law on Juvenile Justice.”;

i) Chapter XXVIII shall be annulled;

e) The phrase “và quyết định tố tụng quy định tại chương VII và chương VIII của Luật Tư pháp người chưa thành niên” ("and procedural decisions prescribed in Chapter VII and Chapter VIII of the Law on Juvenile Justice") shall be added to after the phrase “của Bộ luật này” ("of this Code") at Clause 1 of Article 470;

l) The phrase “and proceedings prescribed in Chapter VII and Chapter VIII of the Law on Juvenile Justice” shall be added to after the phrase "of this Code" at Clause 2 of Article 470;

3. Some articles of Law on Enforcement of Criminal Judgments No. 41/2019/QH14 shall be amended and annulled as follows:

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



b) Clause 15 of Article 3, Point b of Clause 1 of Article 132, Clause 2 of Article 133, Clause 2 of Article 135, Section 4 of Chapter III and Section 3 of Chapter X shall be annulled;

c) The phrase “hoặc người chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng” ("or persons serving educational measures at reformatory") shall be removed from Clause 17 of Article 3.

4. The phrase “biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn khi được miễn trách nhiệm hình sự” ("reprimand, community conciliation or edification at the commune, ward or town when being exempted from criminal liability") shall be replaced with the phrase “biện pháp xử lý chuyển hướng tại cộng đồng” (“community-bases diversion measures) in Clause 1 of Article 71 of the Law on Children No. 102/2016/QH13, which has been amended by a number of articles under Law No. 28/2018/QH14.

5. Some articles of the Law on Civil Judgment Enforcement No. 26/2008/QH12 have been amended by a number of articles under Law No. 64/2014/QH13, Law No. 23/2018/QH14, Law No. 67/2020/QH14, Law No. 03/2022/QH15, Law No. 31/2024/QH15 and Law No. 43/2024/QH1 shall be amended as follows:

a) The phrase "of the Court, the diversion measure of damage compensation in the decision on applying diversion measure of the Investigation authority, the Procuracy, the Court" shall be added after the phrase "criminal decision" in Article 1;

b) Addition of clause 3 after clause 2 of Article 2:

“3. Decision on applying diversion measure of damage compensation of the Investigation authority, the Procuracy, the Court shall have legal effect.”.

6. Some clauses of Article 7 of Law on Legal Aid No. 11/2017/QH14 shall be amended and annulled as follows:

a) Amendments to clause 5:

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



b) Point dd of clause 7 shall be annulled.

7. Point a of Clause 1 of Article 31 of the Law on Residence No. 68/2020/QH14 shall be amended as follows:

“a) The citizen is out on bail; or is convicted but has yet to receive the sentence enforcement decision or has received the sentence enforcement decision but is out on bail or granted suspension of sentence enforcement; or is convicted and undergoing probation; or is under mandatory supervision or serving a community sentence; or is on parole; is serving community-based diversion measure, or serving educational measure at reformatory but is granted postponement, suspension of sentence enforcement, and leaves the commune-level administrative unit where they are residing for 01 day or more;”.

Article 178. Effect

1. This Law comes into force from January 1, 2026, except for the case specified in Clause 2 of this Article.

2. Article 139, Clause 1 and Clause 2 of Article 162 of this Law comes into force from January 1, 2028.

Article 179. Transitional provisions

1. From January 1, 2026:

a) For cases in processing of criminal information, filing of charges, investigation, prosecution, and adjudication of first instance that have not been completed by January 1, 2026, the regulations of this Law shall apply to resolve the case, except for the investigation period, the period for deciding on prosecution or the period for preparing for first-instance trials, the period for temporary detainment, the period for detention, and the separation of cases, which shall comply with Criminal Procedure Code. In cases where the investigation, prosecution, and adjudication stages do not involve the participation of social workers in the proceedings, the Investigation Authority, the Procuracy, and the Court shall request social workers to participate in the proceedings in accordance with this Law.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



b) For cases in the stage of second-instance trial that have not ended by January 1, 2026, the second-instance court must base on the regulations of this Law to continue handling the case, except for the period for preparing for the second-instance trial and the period of detention, which shall comply with the Criminal Procedure Code.

If there are grounds for applying the diversion measures prescribed in Articles 35, 37 and 39 of this Law, the Trial Panel shall amend the first-instance judgment and decide to apply the diversion measures in the second-instance judgment;

c) For cases that are being handled and resolved by the Agency assigned to conduct a number of investigation activities within the authority prescribed in the Criminal Procedure Code but have not been completed by January 1, 2026, the authority to resolve the case shall comply with the Criminal Procedure Code until the investigation is completed;

d) For suspects and defendants who are being held in detention under the Criminal Procedure Code but have not been held in detention under the regulations of this Law by January 1, 2026, the Procuracy and the Court shall decide to cancel the detention measure currently applied or replace it with another preventive measure in accordance with this Law and the Criminal Procedure Code;

dd) For judgments and decisions of the Court that have come into effect but have not been enforced or have not been fully enforced by January 1, 2026, the regulations of this Law and relevant laws shall be applied for enforcement.

2. The clauses and articles of this Law on warnings, fines, definite-term imprisonment, decisions on penalties in cases of preparing to commit a crime, attempted crime, reduction of the imposed penalty, suspended sentences, postponement of execution of imprisonment, parole, expungement of convictions and other favorable provisions for offenders as prescribed in Chapter VI of this Law shall apply from the date of issuance of this Law.

3. The clauses and articles of this Law on diversion measures, warnings, fines, definite-term imprisonment, decisions on penalties in cases of preparing to commit a crime, attempted crime, reduction of the imposed penalty, suspended sentences, postponement of execution of imprisonment, parole, expungement of convictions and other favorable provisions for offenders as prescribed in Chapters III and VI of this Law shall apply crimes that occurred before 0:00 on January 1, 2026 but were discovered after that time, are being investigated, prosecuted, adjudicated or to those who are being considered for a reduction in the term of the sentence, postponement of execution of the imprisonment, or expungement of convictions.

4. For criminal acts for which a court judgment or decision has come into effect before January 1, 2026, regulations of this Law shall not be use as legal basis if they have different contents from the regulations of the law that were applied when the judgment was pronounced to lodge protests through the cassation procedure, except in cases of violations of the provisions in Clause 2 of this Article; in cases where the appeal is based on other grounds or has been appealed before January 1, 2026, the cassation review must comply with the provisions in Clauses 2 and 3 of this Article.

5. In case the offender has been sentenced to imprisonment before the date this Law is promulgated in accordance with previous documents and the judgment has come into legal effect, if the offender is from 14 to under 16 years of age who subject to imprisonment of more than 09 years and does not fall under the cases specified in Clause 4 of Article 119, Article 121 and Article 122 of this Law or the offender is from 16 to under 18 years of age and who subject to imprisonment of more than 15 years and does not fall under the cases specified in Clause 2 of Article 119, Article 121 and Article 122 of this Law, from the date this Law is promulgated, the case shall be resolved as follows:

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



b) In case they have served a part of their sentence but not yet reached the maximum term of imprisonment prescribed in Clause 1 and Clause 3 of Article 119 of this Law, the prison shall review and submit an application to the Chief Justice of the Provincial People's Court or the Chief Justice of the Military Court of the military zone where they are serving their sentence to decide to reduce the duration of the sentence to 09 years for offenders from 14 to under 16 years of age or 15 years for offenders from 16 to under 18 years of age;

c) In case they are being granted a postponement of imprisonment, the criminal judgment enforcement agency of the district-level police or the criminal judgment enforcement agency of the military zone shall review and submit an application to the Chief Judge of the Court that issued the decision on sentence enforcement to reduce the term of the sentence to 09 years for offenders from 14 to under 16 years of age or 15 years for offenders from 16 to under 18 years of age.

6. In case a juvenile is sentenced to imprisonment but given a suspended sentence before the date of issuance of this Law in accordance with previous documents and the judgment has come into effect, if their probation period is more than 03 years from the date this Law is promulgated, the case shall be resolved as follows:

a) In case they have served a probation period equal to or exceeding 03 years, the criminal judgment enforcement agency of the district-level police shall submit an application to the Chief Judge of the district-level People's Court, the Chief Judge of the Military Court of the area where they reside to decide to shorten the remaining probation period;

b) In case they have served a part of the probation period but less than 03 years, the criminal judgment enforcement agency of the district-level Police shall submit an application to the Chief Judge of the district-level People's Court, the Chief Judge of the Military Court of the area where they reside to decide to shorten the probation period to 03 years.

7. When implementing the regulations of Clauses 5 and 6 of this Article, the Court must explain to the person who is exempted from serving the remaining term of imprisonment, has their sentence reduced, or has the probationary period of the suspended sentence shortened that the exemption, reduction, or shortening is due to the new humane criminal policy of our State, and not a wrongful conviction caused by the presiding agency; therefore, they do not have the right to request compensation for damages according to the provisions of the Law on State Compensation Liability.

This Law was passed by the 15th National Assembly of the Socialist Republic of Vietnam, 8th session on November 30, 2024.

...

...

...

Hãy đăng nhập hoặc đăng ký Thành viên Pro tại đây để xem toàn bộ văn bản tiếng Anh.



Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Luật Tư pháp người chưa thành niên 2024

Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


7.705

DMCA.com Protection Status
IP: 2a03:2880:f800:12::
Hãy để chúng tôi hỗ trợ bạn!