QUỐC HỘI
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc
********
|
Số: 35-L/CTN
|
Hà Nội, ngày 21
tháng 6 năm 1994
|
LUẬT
SỐ 35-L/CTN NGÀY 21/06/1994 CỦA QUỐC HỘI VỀ BẦU CỬ ĐẠI BIỂU
HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Luật này quy định việc bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân.
Chương 1:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1
Việc bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu
kín.
Điều 2
Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở
lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân theo quy định của pháp luật, trừ những người mất trí và những người
bị pháp luật hoặc Toà án nhân dân tước các quyền đó.
Điều 3
Đại biểu Hội đồng nhân dân phải
là người trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, người tiêu biểu
trong nhân dân, phấn đấu thực hiện công cuộc đổi mới làm cho dân giầu, nước mạnh,
có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu chấp hành pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, có trình độ hiểu biết và năng lực
thực hiện nhiệm vụ đại biểu Hội đồng nhân dân, tham gia quyết định những vấn đề
quan trọng của địa phương, được nhân dân tín nhiệm.
Điều 4
Công dân có đủ điều kiện và tiêu
chuẩn quy định tại Điều 2 và Điều 3 của Luật này chỉ được bầu
làm đại biểu Hội đồng nhân dân không quá hai cấp; nếu đang là đại biểu Quốc hội
chỉ được bầu làm đại biểu Hội đồng nhân dân ở một cấp.
Điều 5
Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám
sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, bảo đảm cuộc bầu cử tiến hành dân
chủ, đúng pháp luật.
Chính phủ chỉ đạo Uỷ ban nhân
dân các cấp thực hiện công tác bầu cử theo quy định của pháp luật.
Điều 6
Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam hướng dẫn Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở địa phương tổ chức hiệp
thương lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân, tham
gia giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.
Điều 7
Uỷ ban thường vụ Quốc hội ấn định
và công bố ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật
và công bố chậm nhất là chín mươi ngày trước ngày bầu cử.
Trong trường hợp đặc biệt không
thể tiến hành bầu cử theo đúng nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân thì Uỷ ban thường
vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Điều 8
Kinh phí tổ chức bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân các cấp do ngân sách Nhà nước đài thọ.
Chương 2:
SỐ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN, ĐƠN VỊ BẦU CỬ VÀ KHU VỰC BỎ PHIẾU
Điều 9
Số đại biểu Hội đồng nhân dân ở
mỗi cấp được ấn định như sau:
1- Hội đồng nhân dân xã, phường,
thị trấn:
Xã, thị trấn miền xuôi có từ ba
nghìn người trở xuống được bầu mười chín đại biểu, có trên ba nghìn người thì cứ
thêm một nghìn năm trăm người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không
quá hai mươi lăm đại biểu;
Xã, thị trấn miền núi và hải đảo
có từ hai nghìn người trở xuống được bầu mười chín đại biểu, có trên hai nghìn
người thì cứ thêm năm trăm người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số
không quá hai mươi lăm đại biểu;
Xã có từ một nghìn người trở xuống
được bầu mười lăm đại biểu;
Phường có từ năm nghìn người trở
xuống được bầu mười chín đại biểu, có trên năm nghìn người thì cứ thêm ba nghìn
người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá hai mươi lăm đại biểu.
2- Hội đồng nhân dân huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh:
Huyện miền xuôi và quận có từ
tám mươi nghìn người trở xuống được bầu hai mươi lăm đại biểu, có trên tám mươi
nghìn người thì cứ thêm tám nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng
số không quá ba mươi lăm đại biểu;
Huyện miền núi và hải đảo có từ
bốn mươi nghìn người trở xuống được bầu hai mươi lăm đại biểu, có trên bốn mươi
nghìn người thì cứ thêm bốn nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng
số không quá ba mươi lăm đại biểu;
Thị xã có từ năm mươi nghìn người
trở xuống được bầu hai mươi lăm đại biểu, có trên năm mươi nghìn người thì cứ
thêm tám nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá ba
mươi lăm đại biểu;
Thành phố thuộc tỉnh có từ tám
mươi nghìn người trở xuống được bầu hai mươi lăm đại biểu, có trên tám mươi
nghìn người thì cứ thêm mười nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng
số không quá ba mươi lăm đại biểu.
3- Hội đồng nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương:
Tỉnh miền xuôi và thành phố trực
thuộc Trung ương có từ một triệu người trở xuống được bầu bốn mươi lăm đại biểu,
có trên một triệu người thì cứ thêm bốn mươi nghìn người được bầu thêm một đại
biểu, nhưng tổng số không quá bảy mươi lăm đại biểu;
Tỉnh miền núi có từ năm trăm
nghìn người trở xuống được bầu bốn mươi lăm đại biểu, có trên năm trăm nghìn
người thì cứ thêm hai mươi nghìn người được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số
không quá bảy mươi lăm đại biểu;
Thành phố Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh và các tỉnh có trên hai triệu rưỡi người được bầu không quá tám mươi
lăm đại biểu.
Điều 10
Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
được bầu theo đơn vị bầu cử. Mỗi đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được
bầu không quá ba đại biểu.
Điều 11
Số đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, danh sách các đơn vị và số đại
biểu của mỗi đơn vị do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ấn
định và phải được Chính phủ phê chuẩn.
Số đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân ở các đơn vị hành chính khác, danh sách các đơn vị và số đại biểu của
mỗi đơn vị do Uỷ ban nhân dân cùng cấp ấn định và phải được Uỷ ban nhân dân cấp
trên trực tiếp phê chuẩn.
Điều 12
Danh sách các đơn vị bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân cấp nào do Uỷ ban nhân dân cấp ấy gửi đến Hội đồng bầu cử
cùng cấp. Chậm nhất là năm mươi ngày trước ngày bầu cử, Hội đồng bầu cử công bố
danh sách các đơn vị bầu cử.
Điều 13
Mỗi đơn vị bầu cử chia thành nhiều
khu vực bỏ phiếu. Mỗi khu vực bỏ phiếu có từ ba trăm đến hai nghìn cử tri.
Ở miền núi, hải đảo và những nơi
dân cư không tập trung, dù chưa tới ba trăm cử tri cũng có thể thành lập một
khu vực bỏ phiếu.
Bệnh viện, nhà an dưỡng, nhà hộ
sinh, nhà nuôi người tàn tật có từ năm mươi cử tri trở lên có thể thành lập khu
vực bỏ phiếu riêng.
Việc chia khu vực bỏ phiếu bầu cử
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ấn định
và phải được Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn.
Đơn vị vũ trang nhân dân thành lập
khu vực bỏ phiếu riêng.
Chương 3:
CÁC TỔ CHỨC PHỤ TRÁCH BẦU
CỬ
Điều 14
Các tổ chức phụ trách bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân gồm có:
- Hội đồng bầu cử;
- Ban bầu cử;
- Tổ bầu cử.
Điều 15
Chậm nhất là tám mươi ngày trước
ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào thì Uỷ ban nhân dân, Thường trực
Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp ấy
thành lập Hội đồng bầu cử từ năm đến mười lăm người gồm đại diện Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các cơ quan
Nhà nước, tổ chức xã hội khác; ở xã, phường, thị trấn thì Uỷ ban nhân dân, Chủ
tịch Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng
cấp thành lập Hội đồng bầu cử từ năm đến chín người gồm đại diện Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức xã hội khác, Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Uỷ ban
nhân dân.
Hội đồng bầu cử bầu Chủ tịch,
Phó chủ tịch và Thư ký.
Danh sách Hội đồng bầu cử tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương phải báo cáo lên Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ và Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Danh sách Hội đồng bầu
cử các cấp khác phải báo cáo lên Uỷ ban nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân
và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp trên trực tiếp.
Hội đồng bầu cử có những nhiệm vụ,
quyền hạn sau đây:
1- Chỉ đạo việc tổ chức bầu cử ở
địa phương, kiểm tra, đôn đốc việc thi hành các quy định của pháp luật về bầu cử;
2- Nhận hồ sơ của người tự ứng cử
và chuyển cho Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp;
3- Xét và giải quyết những khiếu
nại, tố cáo về công tác bầu cử của các Ban bầu cử, Tổ bầu cử;
4- Công bố số đơn vị bầu cử,
danh sách các đơn vị và số đại biểu được bầu của mỗi đơn vị bầu cử ở địa phương
mình;
5- Nhận hồ sơ và công bố danh
sách những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân theo từng đơn vị bầu cử, xét
và giải quyết những khiếu nại về việc lập danh sách đó;
6- Nhận tài liệu và phiếu bầu của
Uỷ ban nhân dân cùng cấp và phân phối cho các Ban bầu cử chậm nhất là hai mươi
ngày trước ngày bầu cử;
7- Nhận và kiểm tra biên bản xác
định kết quả bầu cử do các Ban bầu cử gửi đến, làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử
ở địa phương;
8- Chỉ đạo việc bầu cử thêm, bầu
cử lại theo quy định tại các điều 53, 54, 55, và 56 của Luật này;
9- Công bố kết quả bầu cử;
10- Trình Hội đồng nhân dân biên
bản tổng kết cuộc bầu cử và chuyển giao các hồ sơ, tài liệu về cuộc bầu cử theo
quy định tại Điều 57 của Luật này.
Điều 16
Chậm nhất là bốn mươi ngày trước
ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào thì Uỷ ban nhân dân, Thường trực
Hội đồng nhân dân và Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp ấy
thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử từ năm đến mười một người gồm đại
diện các tổ chức xã hội và tập thể cử tri ở địa phương; ở xã, phường, thị trấn
thì Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử từ
năm đến chín người gồm đại diện các tổ chức xã hội và tập thể cử tri.
Ban bầu cử bầu Trưởng ban, Phó
Trưởng ban và Thư ký.
Ban bầu cử có những nhiệm vụ,
quyền hạn sau đây:
1- Kiểm tra, đôn đốc việc thi
hành các quy định của pháp luật về bầu cử của các Tổ bầu cử trong đơn vị bầu cử;
2- Kiểm tra, đôn đốc việc lập,
niêm yết danh sách cử tri và việc niêm yết danh sách những người ứng cử ở các Tổ
bầu cử trong đơn vị bầu cử;
3- Kiểm tra, đôn đốc việc bố trí
các phòng bỏ phiếu và công việc bầu cử ở các phòng bỏ phiếu;
4- Nhận tài liệu và phiếu bầu của
Hội đồng bầu cử; phân phối tài liệu và phiếu bầu cho các Tổ bầu cử chậm nhất là
mười ngày trước ngày bầu cử;
5- Xét và giải quyết các khiếu nại
về công tác bầu cử của các Tổ bầu cử;
6- Nhận, tổng hợp và kiểm tra
biên bản kiểm phiếu do các Tổ bầu cử gửi đến, làm biên bản xác định kết quả bầu
cử ở đơn vị bầu cử;
7- Chuyển giao biên bản xác định
kết quả bầu cử và hồ sơ, tài liệu về bầu cử theo quy định tại Điều
51 của Luật này.
8- Tổ chức việc bầu cử thêm, bầu
cử lại theo quyết định của Hội đồng bầu cử.
Điều 17
Chậm nhất là ba mươi ngày trước
ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Chủ tịch Hội đồng nhân
dân và Ban Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn
thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử từ năm đến chín người gồm đại diện
các tổ chức xã hội và tập thể cử tri ở địa phương.
Trong trường hợp đơn vị bầu cử
chỉ có một khu vực bỏ phiếu thì Ban bầu cử kiêm nhiệm vụ của Tổ bầu cử.
Các đơn vị vũ trang nhân dân
thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử.
Tổ bầu cử bầu Tổ trưởng, Tổ phó
và Thư ký.
Tổ bầu cử có những nhiệm vụ, quyền
hạn sau đây:
1- Phụ trách công tác bầu cử
trong khu vực bỏ phiếu;
2- Bố trí phòng bỏ phiếu, chuẩn
bị hòm phiếu;
3- Nhận tài liệu về bầu cử của
Ban bầu cử và phát phiếu bầu có đóng dấu của Tổ bầu cử cho cử tri;
4- Thường xuyên thông báo cho cử
tri biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu, thời gian bỏ phiếu trong thời hạn mười ngày
trước ngày bầu cử;
5- Bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh
nội quy của phòng bỏ phiếu;
6- Xét và giải quyết những khiếu
nại về công tác bầu cử trong khu vực bỏ phiếu;
7- Kiểm phiếu và làm biên bản kiểm
phiếu;
8- Chuyển giao biên bản kiểm phiếu,
phiếu bầu và các tài liệu khác về bầu cử theo quy định tại Điều
50 của Luật này.
Điều 18
Các tổ chức phụ trách bầu cử và
các thành viên của các tổ chức này không được vận động cho những người ứng cử.
Điều 19
Các tổ chức phụ trách bầu cử làm
việc theo chế độ tập thể, các cuộc họp được tiến hành khi có ít nhất hai phần
ba tổng số thành viên tham dự. Các quyết định được thông qua khi có quá nửa tổng
số thành viên biểu quyết tán thành.
Điều 20
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang
nhân dân cử cán bộ, nhân viên của mình tham gia vào công tác bầu cử theo yêu cầu
của Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử và trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ
của mình, tạo điều kiện thuận lợi giúp các tổ chức phụ trách bầu cử thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Luật này.
Điều 21
Hội đồng bầu cử hết nhiệm vụ sau
khi đã trình biên bản tổng kết cuộc bầu cử và hồ sơ, tài liệu về bầu cử tại kỳ
họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân khoá mới.
Các Ban bầu cử, Tổ bầu cử hết
nhiệm vụ sau khi Hội đồng bầu cử công bố kết quả bầu cử.
Chương 4:
DANH SÁCH CỬ TRI
Điều 22
Trong thời gian lập danh sách cử
tri, những công dân có quyền bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân đều được ghi tên
vào danh sách cử tri nơi mình cư trú.
Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào
một danh sách cử tri.
Điều 23
Danh sách cử tri do Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn lập theo khu vực bỏ phiếu.
Danh sách cử tri trong các đơn vị
vũ trang nhân dân do Ban chỉ huy đơn vị lập theo khu vực bỏ phiếu; quân nhân có
hộ khẩu thường trú ở địa phương thì được ghi tên vào danh sách cử tri nơi mình
cư trú.
Điều 24
Chậm nhất là ba mươi ngày trước
ngày bầu cử, cơ quan lập danh sách cử tri niêm yết danh sách đó tại trụ sở Uỷ
ban nhân dân xã, phường, thị trấn và tại những nơi công cộng của khu vực bỏ phiếu,
đồng thời thông báo rộng rãi danh sách cử tri và việc niêm yết để nhân dân kiểm
tra.
Điều 25
Khi kiểm tra danh sách cử tri nếu
thấy có sai sót thì trong thời hạn hai mươi ngày kể từ ngày niêm yết, mọi người
có quyền khiếu nại bằng miệng hoặc bằng giấy với cơ quan lập danh sách cử tri.
Cơ quan lập danh sách cử tri phải ghi vào sổ những khiếu nại đó. Trong thời hạn
năm ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, cơ quan lập danh sách cử tri phải giải
quyết và thông báo cho người khiếu nại biết kết quả giải quyết.
Nếu người khiếu nại không đồng ý
về cách giải quyết đó thì có quyền khiếu nại lên Toà án nhân dân huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong thời hạn năm ngày kể từ ngày nhận được khiếu
nại, Toà án nhân dân phải giải quyết xong. Quyết định của Toà án nhân dân là
quyết định cuối cùng.
Điều 26
Từ khi niêm yết danh sách cử tri
cho đến ngày bầu cử, nếu cử tri nào thay đổi nơi cư trú thì có quyền xin giấy
chứng nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi đang cư trú để được ghi
tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu ở nơi cư trú mới. Khi cấp giấy chứng
nhận, Uỷ ban nhân dân phải ghi ngay vào danh sách cử tri bên cạnh tên người đó:
"Đi bỏ phiếu nơi khác".
Chương 5:
ỨNG CỬ, ĐỀ CỬ VÀ HIỆP
THƯƠNG GIỚI THIỆU NGƯỜI ÚNG CỬ ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
Điều 27
Công dân tự ứng cử đại biểu Hội
đồng nhân dân theo quy định của Luật này thì chậm nhất là bốn mươi lăm ngày trước
ngày bầu cử phải nộp hồ sơ tại Hội đồng bầu cử nơi mình ứng cử. Hồ sơ gồm có:
1- Đơn ứng cử;
2- Sơ yếu lý lịch;
3- Giấy chứng nhận của Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú về quyền ứng cử theo quy định tại Điều 2 của Luật này.
Chậm nhất là bốn mươi ngày trước
ngày bầu cử, Hội đồng bầu cử chuyển hồ sơ của những người tự ứng cử đến Ban thường
trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.
Điều 28
Chậm nhất là bảy mươi ngày trước
ngày bầu cử, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân tổ chức hội nghị gồm đại diện các tổ chức thành viên để hiệp
thương thoả thuận về cơ cấu, thành phần và số lượng người được đề cử của các cơ
quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và đơn vị vũ trang nhân dân đóng
tại địa phương.
Điều 29
Theo cơ cấu, thành phần và số lượng
người được đề cử đã thoả thuận, trên cơ sở tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ
chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân đề cử đại biểu của mình ra ứng cử.
Chậm nhất là bốn mươi lăm ngày
trước ngày bầu cử, người được đề cử phải nộp hồ sơ tại Ban thường trực Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam ở cấp bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân mà mình được đề cử.
Hồ sơ gồm có đơn ứng cử, sơ yếu lý lịch và giấy chứng nhận của Uỷ ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nơi cư trú về quyền ứng cử theo quy định tại Điều
2 của Luật này.
Điều 30
Người tự ứng cử, người được đề cử
đại biểu Hội đồng nhân dân địa phương nào thì phải là người cư trú hoặc công
tác thường xuyên ở địa phương đó.
Người tự ứng cử và người được đề
cử chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử và không được tham gia Ban bầu cử
hoặc Tổ bầu cử thuộc đơn vị mình ra ứng cử.
Điều 31
Trên cơ sở tiêu chuẩn, cơ cấu,
thành phần và số lượng đã thoả thuận, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và đại diện các tổ chức thành viên của Mặt trận tập hợp danh sách sơ bộ
những người tự ứng cử và những người được đề cử gửi lấy ý kiến cử tri nơi công
tác và nơi cư trú. Việc tổ chức lấy ý kiến của cử tri được tiến hành theo quy định
tại Điều 32 của Luật này.
Điều 32
Hội nghị cử tri ở xã, phường, thị
trấn tổ chức theo đơn vị buôn, bản, thôn, xóm, ấp, tổ dân phố do Ban thường trực
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với chính quyền cùng cấp triệu tập và
chủ trì.
Hội nghị cử tri ở cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế do Thủ trưởng cơ quan hoặc người đứng đầu của tổ
chức phối hợp với công đoàn cùng cấp triệu tập và chủ trì. Hội nghị cử tri ở
đơn vị vũ trang nhân dân do Thủ trưởng đơn vị triệu tập và chủ trì.
Tại hội nghị này, cử tri đối chiếu
với tiêu chuẩn đại biểu Hội đồng nhân dân để nhận xét, bày tỏ sự tín nhiệm đối
với người tự ứng cử, người được đề cử bằng cách giơ tay hoặc bỏ phiếu kín theo
quyết định của hội nghị.
Người tự ứng cử, người được đề cử
hoặc đại diện tổ chức, cơ quan, đơn vị có người được đề cử được mời dự hội nghị
này.
Điều 33
Căn cứ vào danh sách người tự ứng
cử, người được đề cử và kết quả Hội nghị cử tri quy định tại Điều
32 của Luật này, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hội
nghị hiệp thương thoả thuận với đại diện các tổ chức thành viên để lập danh
sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Đại diện Hội đồng
bầu cử được mời dự hội nghị này.
Điều 34
Chậm nhất là ba mươi ngày trước
ngày bầu cử, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải gửi đến Hội
đồng bầu cử danh sách và hồ sơ của những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân. Hồ sơ gồm có:
1- Đơn ứng cử;
2- Giấy chứng nhận của Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú về quyền ứng cử theo quy định tại Điều 2 của Luật này;
3- Tiểu sử tóm tắt của người ứng
cử.
Khi nhận các giấy tờ trên, Hội đồng
bầu cử phải cấp giấy biên nhận.
Điều 35
Chậm nhất là hai mươi ngày trước
ngày bầu cử, Hội đồng bầu cử công bố danh sách những người ứng cử theo từng đơn
vị bầu cử. Tổ bầu cử phải niêm yết danh sách những người ứng cử theo công bố của
Hội đồng bầu cử ở các khu vực bỏ phiếu.
Điều 36
Số người ứng cử đại biểu Hội đồng
nhân dân ở mỗi đơn vị bầu cử phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó.
Điều 37
Kể từ ngày công bố danh sách những
người ứng cử, công dân có quyền khiếu nại với Ban bầu cử về những sai sót có
liên quan đến người ứng cử, Ban bầu cử phải ghi vào sổ và phải giải quyết những
khiếu nại đó chậm nhất là bảy ngày.
Nếu người khiếu nại không đồng ý
với kết quả giải quyết của Ban bầu cử thì có quyền khiếu nại với Hội đồng bầu cử.
Quyết định của Hội đồng bầu cử là quyết định cuối cùng.
Điều 38
Người có tên trong danh sách ứng
cử đại biểu Hội đồng nhân dân đã được công bố có quyền vận động bầu cử thông
qua việc gặp gỡ, tiếp xúc với cử tri theo quy định của pháp luật và báo cáo với
cử tri dự kiến việc thực hiện trách nhiệm của người đại biểu nếu được bầu làm đại
biểu Hội đồng nhân dân.
Việc gặp gỡ, tiếp xúc cử tri do
Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn tổ chức.
Chương 6:
TRÌNH TỰ BẦU CỬ
Điều 39
Cuộc bỏ phiếu bắt đầu vào lúc bảy
giờ và kết thúc vào lúc mười chín giờ cùng ngày. Tuỳ tình hình địa phương, Tổ bầu
cử có thể quyết định bắt đầu cuộc bỏ phiếu sớm hơn và kết thúc muộn hơn giờ quy
định, nhưng không được bắt đầu trước năm giờ và kết thúc quá hai mươi giờ cùng
ngày. Khu vực bỏ phiếu nào đã có một trăm phần trăm số cử tri đi bầu thì Tổ bầu
cử đó có thể kết thúc cuộc bỏ phiếu sớm hơn.
Trước khi bỏ phiếu, Tổ bầu cử phải
kiểm tra hòm phiếu trước sự chứng kiến của cử tri.
Điều 40
Mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu
bầu cho mỗi cấp Hội đồng nhân dân.
Cử tri phải tự mình đi bầu,
không được nhờ người khác bầu thay, trừ trường hợp quy định tại Điều
41 của Luật này.
Điều 41
Cử tri không thể tự viết được
phiếu bầu thì có thể nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu. Người
viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri. Nếu vì tàn tật không tự bỏ
phiếu được thì cử tri có thể nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Trong trường hợp cử tri ốm đau,
già yếu, tàn tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử có thể tổ chức
hòm phiếu phụ mang đến chỗ ở của cử tri để cử tri nhận phiếu và bầu.
Điều 42
Khi cử tri viết phiếu, không ai
được xem, kể cả nhân viên Tổ bầu cử.
Nếu viết hỏng, cử tri có quyền đổi
phiếu bầu khác.
Điều 43
Mọi người đều phải tuân theo nội
quy của phòng bỏ phiếu. Không ai được tuyên truyền vận động cho người ứng cử tại
phòng bỏ phiếu.
Điều 44
Khi hết giờ bỏ phiếu, nếu còn cử
tri có mặt tại phòng bỏ phiếu mà chưa kịp bỏ phiếu thì chỉ sau khi số cử tri này
bỏ phiếu xong, Tổ bầu cử mới được tuyên bố kết thúc cuộc bỏ phiếu.
Điều 45
Trong ngày bầu cử, cuộc bỏ phiếu
phải tiến hành liên tục. Nếu có trường hợp bất ngờ làm gián đoạn cuộc bỏ phiếu
thì Tổ bầu cử phải lập tức niêm phong giấy tờ và hòm phiếu, kịp thời báo cáo
cho Ban bầu cử biết đồng thời phải có những biện pháp cần thiết để cuộc bỏ phiếu
được tiếp tục.
Trong trường hợp đặc biệt cần
hoãn ngày bỏ phiếu hoặc bỏ phiếu sớm hơn ngày quy định thì Tổ bầu cử phải kịp
thời báo cáo Ban bầu cử biết để đề nghị Hội đồng bầu cử xem xét, quyết định.
Chương 7:
KẾT QUẢ BẦU CỬ
Mục 1:VIỆC KIỂM
PHIẾU
Điều 46
Việc kiểm phiếu phải được tiến
hành tại phòng bỏ phiếu ngay sau khi cuộc bỏ phiếu kết thúc.
Trước khi mở hòm phiếu, Tổ bầu cử
phải thống kê, lập biên bản, niêm phong số phiếu bầu không sử dụng đến và phải
mời hai cử tri không phải là người ứng cử có mặt tại đó chứng kiến việc kiểm
phiếu.
Người ứng cử, đại diện cơ quan,
tổ chức, đơn vị có người ứng cử có quyền chứng kiến việc kiểm phiếu và khiếu nại
về việc kiểm phiếu. Các phóng viên báo chí, điện ảnh, nhiếp ảnh, truyền hình,
phát thanh được chứng kiến việc kiểm phiếu.
Điều 47
Những phiếu sau đây là không hợp
lệ:
1- Phiếu không phải là phiếu
theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát ra;
2- Phiếu không có dấu của Tổ bầu
cử;
3- Phiếu đề số người được bầu
quá số đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu;
4- Phiếu gạch xoá hết tên những
người ứng cử;
5- Phiếu ghi tên người ngoài
danh sách ứng cử.
Điều 48
Nếu có phiếu nào nghi là không hợp
lệ thì Tổ trưởng Tổ bầu cử phải đưa ra toàn Tổ giải quyết.
Tổ bầu cử không được xoá hoặc chữa
các tên ghi trên phiếu bầu.
Điều 49
Những khiếu nại tại chỗ về việc
kiểm phiếu do Tổ bầu cử tiếp nhận, giải quyết và ghi rõ cách giải quyết vào
biên bản. Nếu Tổ bầu cử không giải quyết được thì phải báo cáo Ban bầu cử giải
quyết.
Điều 50
Kiểm phiếu xong, Tổ bầu cử phải
lập biên bản ghi rõ:
- Tổng số cử tri của khu vực bỏ
phiếu;
- Số cử tri đã tham gia bỏ phiếu;
- Số phiếu phát ra;
- Số phiếu thu vào;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng
cử;
- Những khiếu nại đã nhận được,
những khiếu nại đã giải quyết và cách giải quyết, những khiếu nại chuyển lên
Ban bầu cử giải quyết.
Biên bản kiểm phiếu làm thành ba
bản, có chữ ký của Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký Tổ bầu cử và hai cử tri được mời
chứng kiến việc kiểm phiếu để gửi đến Ban bầu cử, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn.
Mục 2: KẾT QUẢ
BẦU CỬ Ở ĐƠN VỊ BẦU CỬ
Điều 51
Sau khi nhận được biên bản kiểm
phiếu của các Tổ bầu cử, Ban bầu cử kiểm tra các biên bản đó và lập biên bản
xác định kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử của mình.
Biên bản phải ghi rõ:
- Số đại biểu Hội đồng nhân dân
được ấn định cho đơn vị bầu cử;
- Số người ứng cử;
- Tổng số cử tri trong đơn vị bầu
cử;
- Số cử tri đã tham gia bỏ phiếu,
tỉ lệ so với tổng số cử tri;
- Số phiếu phát ra;
- Số phiếu thu vào;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng
cử;
- Danh sách những người trúng cử;
- Những khiếu nại do Tổ bầu cử
đã giải quyết; những khiếu nại do Ban bầu cử giải quyết; những khiếu nại báo
cáo lên Hội đồng bầu cử giải quyết.
Biên bản làm thành bốn bản, có
chữ ký của Trưởng ban, Phó Trưởng ban và Thư ký ban bầu cử để gửi đến Hội đồng
bầu cử, Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam cùng cấp. Đối với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân xã, phường,
thị trấn thì biên bản được gửi đến Hội đồng bầu cử, Chủ tịch Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp.
Điều 52
Những người ứng cử được quá nửa
số phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu hơn thì trúng cử. Trong trường hợp có nhiều
người được số phiếu bằng nhau và đạt quá nửa số phiếu hợp lệ thì Hội đồng bầu cử
xét, quyết định người trúng cử theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cùng cấp và của Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử đó.
Mục 3: VIỆC BẦU
CỬ THÊM VÀ BẦU CỬ LẠI
Điều 53
Trong cuộc bầu cử đầu tiên, nếu
số người trúng cử chưa đủ hai phần ba số đại biểu đã quy định cho đơn vị bầu cử
thì Ban bầu cử phải ghi rõ vào biên bản xác định kết quả bầu cử và báo cáo ngay
cho Hội đồng bầu cử quyết định ngày bầu cử thêm số đại biểu còn thiếu. Việc bầu
cử thêm phải được tiến hành chậm nhất là mười lăm ngày sau ngày bầu cử đầu
tiên.
Trong cuộc bầu cử thêm, cử tri
chỉ chọn bầu trong danh sách những người đã ứng cử lần đầu nhưng không trúng cử.
Nếu bầu cử thêm mà vẫn chưa đủ số đại biểu thì không tổ chức bầu cử thêm lần thứ
hai.
Điều 54
Ở đơn vị bầu cử nào, nếu số cử
tri đi bầu chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách thì Ban bầu cử phải
ghi rõ vào biên bản và báo cáo ngay cho Hội đồng bầu cử. Hội đồng bầu cử quyết
định ngày bầu cử lại, chậm nhất là mười lăm ngày sau ngày bầu cử đầu tiên.
Trong cuộc bầu cử lại, cử tri chỉ
chọn bầu trong danh sách những người đã ứng cử lần đầu. Nếu bầu cử lại mà số cử
tri đi bầu vẫn chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách thì không tổ chức
bầu cử lại lần thứ hai.
Điều 55
Uỷ ban thường vụ Quốc hội huỷ bỏ
cuộc bầu cử ở đơn vị bầu cử có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng theo đề nghị
của Chính phủ và quyết định ngày bầu cử lại ở đơn vị bầu cử đó.
Điều 56
Việc bầu cử thêm hoặc bầu cử lại
căn cứ vào danh sách cử tri đã lập trong cuộc bầu cử đầu tiên và theo quy định
của Luật này.
Mục 4: TỔNG KẾT
BẦU CỬ
Điều 57
Sau khi nhận và kiểm tra biên bản
xác định kết quả bầu cử của các Ban bầu cử và giải quyết những khiếu nại, Hội đồng
bầu cử làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị
hành chính của mình.
Biên bản tổng kết phải ghi rõ:
- Tổng số đại biểu ấn định cho Hội
đồng nhân dân cấp đó;
- Tổng số người ứng cử;
- Số lượng đơn vị bầu cử, khu vực
bỏ phiếu;
- Tổng số cử tri;
- Số cử tri đã tham gia bỏ phiếu,
tỷ lệ so với tổng số cử tri;
- Số phiếu phát ra;
- Số phiếu thu vào;
- Số phiếu hợp lệ;
- Số phiếu không hợp lệ;
- Số phiếu bầu cho mỗi người ứng
cử;
- Danh sách những người trúng cử;
- Những việc quan trọng đã xảy
ra và cách giải quyết.
Biên bản làm thành sáu bản, có
chữ ký của Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Thư ký Hội đồng bầu cử để gửi Hội đồng
nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp và cấp
trên trực tiếp. Biên bản bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương được gửi đến Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Uỷ ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Điều 58
Hội đồng bầu cử công bố kết quả
bầu cử, chậm nhất:
- Năm ngày sau ngày bầu cử đối với
cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn;
- Bảy ngày sau ngày bầu cử đối với
cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân huyện miền xuôi, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh;
- Mười ngày sau ngày bầu cử đối
với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân huyện miền núi và hải đảo, tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương; mười lăm ngày đối với các tỉnh miền núi.
Chương 8:
VIỆC BẦU CỬ BỔ SUNG HỘI
ĐỒNG NHÂN DÂN
Điều 59
Trong nhiệm kỳ, nếu đơn vị bầu cử
nào khuyết đại biểu Hội đồng nhân dân thì có thể tổ chức bầu cử bổ sung theo thể
thức bầu cử được quy định tại Luật này.
Điều 60
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết
định việc bầu cử bổ sung và công bố ngày bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương quyết định việc bầu cử bổ sung và công bố ngày
bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, xã, phường, thị trấn.
Ngày bầu cử bổ sung đại biểu Hội
đồng nhân dân phải được công bố chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày bầu cử.
Điều 61
Chậm nhất là hai mươi ngày trước
ngày bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào thì Uỷ ban nhân dân, Thường
trực Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp ấy
thành lập Hội đồng bầu cử bổ sung từ ba đến năm người và chậm nhất là mười lăm
ngày trước ngày bầu cử bổ sung, thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử bổ sung một Ban bầu
cử bổ sung từ ba đến năm người gồm đại diện các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội.
Hội đồng bầu cử bổ sung và Ban bầu
cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn do Uỷ ban nhân dân,
Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cùng cấp thành lập. Số lượng thành viên, thành phần, thời gian thành lập Hội đồng
bầu cử bổ sung và Ban bầu cử bổ sung theo quy định tại Điều này.
Hội đồng bầu cử bổ sung bầu Chủ
tịch và Thư ký.
Ban bầu cử bổ sung bầu Trưởng
ban và Thư ký.
Điều 62
Chậm nhất là mười ngày trước
ngày bầu cử bổ sung, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn thành lập ở mỗi khu vực
bỏ phiếu một Tổ bầu cử bổ sung từ năm đến bảy người gồm đại diện các tổ chức xã
hội và tập thể cử tri.
Tổ bầu cử bổ sung bầu Tổ trưởng,
Tổ phó và Thư ký.
Điều 63
Các tổ chức phụ trách bầu cử bổ
sung thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các
tổ chức phụ trách bầu cử quy định tại Luật này.
Điều 64
Danh sách cử tri do Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn lập và niêm yết chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày
bầu cử bổ sung.
Điều 65
Chậm nhất là mười lăm ngày trước
ngày bầu cử bổ sung đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào thì Ban thường trực Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp ấy tổ chức hội nghị hiệp thương để lựa chọn,
giới thiệu, lập danh sách người ứng cử.
Danh sách những người ứng cử đại
biểu Hội đồng nhân dân ở đơn vị khuyết đại biểu do Hội đồng bầu cử bổ sung công
bố chậm nhất là mười ngày trước ngày bầu cử.
Điều 66
Những khiếu nại, tố cáo về công
tác bầu cử bổ sung được giải quyết theo quy định của Luật này.
Chương 9:
XỬ LÝ NHỮNG VI PHẠM VỀ
LUẬT BẦU CỬ
Điều 67
Người dùng các thủ đoạn lừa gạt,
mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại việc bầu cử, ứng cử đại biểu Hội đồng nhân
dân của công dân; người có trách nhiệm trong công tác bầu cử mà giả mạo giấy tờ,
gian lận phiếu bầu hoặc dùng thủ đoạn khác làm sai lệch kết quả bầu cử, thì tuỳ
mức độ mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 68
Mọi người có quyền tố cáo những
việc làm trái pháp luật trong bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân. Người cản trở
hoặc trả thù người tố cáo thì tuỳ mức độ mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chương
10:
ĐIỀU KHỎAN THI HÀNH
Điều 69
Luật này thay thế Luật bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân ngày 30 tháng 6 năm 1989.
Những quy định trước đây trái với
Luật này đều bãi bỏ.
Điều 70
Chính phủ quy định chi tiết thi
hành Luật này.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ năm thông qua ngày 21 tháng 6
năm 1994.
|
Chủ
tịch Quốc hội
Nông Đức Mạnh
(Đã ký)
|