BỘ
VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
-----
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-----
|
Số:
79/2008/CT-BVHTTDL
|
Hà
Nội, ngày 8 tháng 9 năm 2008
|
CHỈ THỊ
VỀ
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC PHÁP CHẾ NGÀNH VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
Thời gian qua, công tác pháp chế
ngành văn hoá, thể thao và du lịch đã có những đóng góp tích cực trong việc duy
trì và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước của toàn ngành. Các hoạt động xây dựng
và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, kiểm
tra việc thực hiện pháp luật, công tác rà soát, hệ thống hoá và kiểm tra văn bản
quy phạm pháp luật đã được tổ chức, triển khai tương đối toàn diện. Đến nay, đã
có sáu luật, hai pháp lệnh và hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật khác về các
lĩnh vực văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch được các cơ quan có thẩm
quyền ban hành. Hệ thống pháp luật về quản lý ngành ngày càng được hoàn thiện.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã được triển khai bằng nhiều hình thức
thích hợp để đưa các văn bản vào cuộc sống.
Tuy nhiên, công tác pháp chế của
ngành vẫn còn có những hạn chế. Một số văn bản chậm được ban hành; sự phối hợp
giữa các cơ quan, đơn vị trong việc soạn thảo văn bản chưa chặt chẽ; công tác
rà soát, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật
chưa được thực hiện thường xuyên; đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác pháp
chế còn thiếu những cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn cao. Sự quan tâm đến
công tác pháp chế trong một số cán bộ lãnh đạo và sự hiểu biết về pháp luật của
một số cán bộ, công chức trong các cơ quan thuộc Bộ và các Sở Văn hoá, Thể thao
và Du lịch chưa tương xứng với yêu cầu không ngừng tăng cường pháp chế trong quản
lý Nhà nước. Những hạn chế nêu trên, nếu không được khắc phục kịp thời sẽ ảnh
hưởng đến việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của toàn ngành.
Để phát huy những kết quả đã đạt
được, kịp thời khắc phục những hạn chế trong công tác pháp chế nhằm phát huy tốt
vai trò giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý các hoạt động văn hoá, gia đình, thể dục,
thể thao và du lịch bằng pháp luật trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch chỉ thị:
1. Về nhận thức:
Cán bộ, công chức, viên chức
trong toàn ngành cần nâng cao nhận thức về việc Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật, từ đó thấy rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác pháp chế trong việc
triển khai nhiệm vụ quản lý Nhà nước của ngành.
Tiếp tục củng cố các tổ chức
pháp chế, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác pháp chế hiện
có tại các cơ quan, đơn vị. Đối với các cơ quan, đơn vị chưa có tổ chức pháp chế
hoặc chưa bố trí cán bộ, công chức làm công tác pháp chế chuyên trách hoặc kiêm
nhiệm phải bố trí, phân công cán bộ, công chức làm công tác pháp chế theo quy định
của Nghị định số 122/2004/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2004 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương và doanh nghiệp nhà nước phù hợp với thực tế tại cơ quan, đơn
vị mình.
2. Về công tác xây dựng pháp
luật:
a. Cơ quan, đơn vị được giao chủ
trì tổ chức soạn thảo văn bản quy phạm pháp
luật phải bảo đảm tiến độ soạn thảo; tuân thủ các quy định về trình tự,
thủ tục soạn thảo, thẩm định và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trường hợp
đặc biệt không thể thực hiện đúng chương trình xây dựng pháp luật hàng năm thì
phải thông báo cho Vụ Pháp chế và Văn phòng biết rõ lý do để báo cáo Bộ trưởng;
b. Khi lập Ban soạn thảo, Tổ
biên tập phải có thành viên của Vụ Pháp chế; đối với các dự thảo có nội dung
liên quan đến cải cách hành chính thì phải có thành viên của Bộ phận tham mưu
chuyên trách giúp việc về cải cách hành chính tham gia; phải tổ chức khảo sát,
đánh giá tình hình thực tiễn, tham khảo, nghiên cứu các quy định có liên quan
cũng như thông lệ quốc tế về lĩnh vực văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và
du lịch, bảo đảm tính thống nhất với các quy định pháp luật hiện hành;
c. Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan, đơn vị soạn
thảo, khi trình Lãnh đạo Bộ ký ban hành hoặc ký trình Thủ tướng Chính phủ phải
kèm theo văn bản góp ý kiến hoặc văn bản thẩm định của Vụ Pháp chế;
d. Vụ Pháp chế là đầu mối tham
mưu giúp Bộ trưởng tham gia góp ý kiến các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do các Bộ, ngành, địa
phương gửi lấy ý kiến. Các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm phối hợp với Vụ Pháp
chế trong việc tham gia góp ý kiến dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của
mình.
3. Về công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật:
a. Cơ quan, đơn vị được giao chủ
trì soạn thảo văn bản chủ động chủ trì, phối hợp với Vụ Pháp chế tổ chức phổ biến
khi văn bản đó được ban hành nhằm nâng cao sự hiểu biết pháp luật của cán bộ,
công chức và đối tượng điều chỉnh của văn bản, tạo cơ sở cho việc tuân thủ các
quy định của pháp luật trong hoạt động quản lý ngành. Việc phổ biến văn bản
trong các cơ quan, đơn vị phải được thực hiện thường xuyên bằng nhiều hình thức,
biện pháp thích hợp với các đối tượng khác nhau, trong đó, chú trọng bồi dưỡng
để nâng cao kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức làm công tác tham mưu quản
lý nhà nước. Cơ quan, đơn vị chưa có tủ sách pháp luật cần phải xây dựng tủ
sách; cơ quan, đơn vị đã có tủ sách pháp luật phải kịp thời bổ sung sách mới để
đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, tra cứu và áp dụng pháp luật của cán bộ, công chức,
viên chức và người lao động trong cơ quan, đơn vị;
b. Hội đồng phối hợp công tác phổ
biến giáo dục pháp luật của Bộ có trách nhiệm tổ chức phối hợp giữa các cơ
quan, đơn vị trong việc phổ biến, giáo dục pháp luật;
c. Báo Văn hoá và các cơ quan
báo chí khác của ngành mở chuyên mục phổ biến, giáo dục pháp luật; kịp thời đưa
tin, đăng tải các văn bản quy phạm pháp luật
mới ban hành, kể cả các điều ước quốc tế về văn hoá, gia đình, thể dục, thể
thao và du lịch mà Việt Nam là thành viên để tuyên truyền sâu rộng các văn bản
đó;
d. Vụ Pháp chế có trách nhiệm:
- Chủ trì, tổ chức xây dựng
chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật cho từng giai đoạn và kế hoạch phổ biến,
giáo dục pháp luật hàng năm của Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch; phối hợp với Vụ
Đào tạo đưa kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật vào trong chương trình đào tạo
của các trường đại học, cao đẳng về văn hoá, thể thao và du lịch;
- Theo dõi việc phổ biến,
giáo dục pháp luật trong các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, các Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch; tham mưu giúp Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật
của Bộ tổ chức điều phối việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho các cơ quan, đơn
vị thuộc Bộ và các Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch; chủ trì phối hợp với các cơ
quan trong việc giải đáp pháp luật cho các cơ quan, đơn vị trong ngành và các
doanh nghiệp.
4. Về công tác rà soát, hệ thống
hoá và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật:
a. Cơ quan, đơn vị có chức năng
tham mưu quản lý phải xác định công tác rà soát, hệ thống hoá các quy định của
pháp luật liên quan đến việc tham mưu quản lý của đơn vị mình và công tác kiểm
tra việc thực thi các văn bản quy phạm pháp luật ngành, lĩnh vực mình phụ trách
là việc làm thường xuyên. Hàng năm phải có kế hoạch tổ chức, rà soát hệ thống
hoá, kiểm tra văn bản theo kế hoạch hoặc theo yêu cầu đột xuất của Bộ Văn hoá,
Thể thao và Du lịch và Bộ Tư pháp;
b. Vụ Pháp chế chủ trì, phối hợp
với các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ và các Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch triển
khai việc kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật
do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương ban hành về văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và
du lịch nhằm phát hiện và kiến nghị xử lý văn bản có sai sót hoặc không còn phù
hợp với thực tế để đảm bảo tính khả thi, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật
về văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch;
c. Văn phòng phối hợp với Trung
tâm Công nghệ thông tin xây dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật của ngành lên trang thông
tin điện tử (Website) của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch để đáp ứng nhu cầu
tra cứu văn bản của mọi đối tượng.
5. Vụ Kế hoạch, Tài chính
và Văn phòng Bộ có trách nhiệm bố trí kinh phí cho hoạt động pháp chế của các
cơ quan, đơn vị thuộc Bộ trong ngân sách hàng năm của Bộ theo quy định.
6. Vụ Tổ chức cán bộ và Vụ
Đào tạo có trách nhiệm phối hợp với Vụ Pháp chế xây dựng và trình Bộ trưởng
phương án kiện toàn và tăng cường cán bộ pháp chế, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ pháp chế trong toàn ngành; lựa chọn, bồi dưỡng cán bộ có phẩm chất đạo đức
tốt và nghiệp vụ pháp lý giỏi để đáp ứng nhiệm vụ công tác pháp chế trước mắt
và lâu dài.
7. Yêu cầu các cơ quan,
đơn vị thuộc Bộ, các Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch nghiêm túc thực hiện Chỉ
thị này. Vụ Pháp chế có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện
Chỉ thị và hàng năm báo cáo Bộ trưởng.
Chỉ thị này có hiệu lực sau 15
ngày, kể từ ngày đăng Công báo./.
Nơi nhận:
- Thủ tướng Chính phủ;
- Phó Thủ tướng CP Nguyễn Thiện Nhân;
- Bộ Nội Vụ;
- Bộ Tư Pháp;
- Bộ trưởng và các Thứ trưởng Bộ VHTTDL;
- HĐND, UBND các tỉnh, TP trực thuộc TW;
- Các Sở VHTTDL;
- Các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ VHTTDL;
- Cục Kiểm tra VBQPPL, Bộ Tư pháp;
- Công báo, Website Chính phủ;
- Lưu: VT, Vụ PC, TTH (450).
|
BỘ
TRƯỞNG
Hoàng Tuấn Anh
|