BAN
CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
--------
|
ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
--------------------
|
Số:
42-CT/TW
|
Hà Nội, ngày 24 tháng 3 năm 2020
|
CHỈ THỊ
CỦA BAN BÍ THƯ
VỀ TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC PHÒNG NGỪA, ỨNG
PHÓ, KHẮC PHỤC HẬU QUẢ THIÊN TAI
Những năm gần đây, tình hình thiên
tai ở nước ta diễn biến ngày càng phức tạp, cực đoan, bất thường. Các vùng, miền
trong cả nước đã phải hứng chịu hầu hết các loại hình thiên tai (trừ sóng thần),
gây tổn thất nặng nề về người và tài sản (khoảng 1 - 1,5% GDP/năm), ảnh hưởng lớn
đến môi trường, đời sống, sản xuất của nhân dân và sự phát triển bền vững của đất
nước. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương lãnh đạo và tập trung chỉ đạo
nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt phòng ngừa, ứng phó; khắc phục hậu quả
thiên tai, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
từng bước được hoàn thiện; tổ chức bộ máy bước đầu được kiện toàn; chất lượng
công tác dự báo, cảnh báo thiên tai được cải thiện; vai trò của Mặt trận Tổ quốc,
đoàn thể nhân dân và các tầng lớp nhân dân ngày càng được phát huy, góp phần giảm
thiểu thiệt hại, từng bước xây dựng xã hội an toàn trước thiên tai.
Bên cạnh kết quả đạt được, công tác
phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai còn nhiều hạn chế, yếu kém.
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo còn chưa kịp thời, toàn diện, thiếu tầm nhìn chiến
lược, trách nhiệm chưa rõ ràng. Hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách
chưa đầy đủ, còn bất cập; nguồn lực đầu tư còn thấp so với yêu cầu. Công tác dự
báo, cảnh báo, theo dõi, giám sát, cơ sở dữ liệu, trang thiết bị và công cụ hỗ
trợ, khả năng chống chịu của công trình phòng, chống thiên tai còn nhiều bất cập.
Sự chủ động thích ứng của người dân còn hạn chế; ứng dụng khoa học công nghệ, hợp
tác quốc tế, công tác thông tin, tuyên truyền, đào tạo,
nâng cao nhận thức của người dân, năng lực cộng đồng chưa được chú trọng đúng mức.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên có cả
nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Sự
lãnh đạo, chỉ đạo có lúc, có nơi chưa kịp thời, kiên quyết; một số nơi cấp ủy,
tổ chức đảng, chính quyền chưa nhận thức được tầm quan trọng, tính phức tạp, khẩn
cấp của thiên tai, có lúc còn chủ quan, lơ là. Hiệu lực quản lý nhà nước còn
nhiều hạn chế. Thiếu nguồn lực để thực thi các chương trình, dự án, đề án; nhiều
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chưa quan tâm đến yêu cầu phòng
ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai. Công tác quản lý, phương thức tiếp
cận, nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong phòng ngừa, ứng phó, khắc
phục hậu quả thiên tai còn hạn chế; vai trò của Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân
dân và cộng đồng dân cư chưa được phát huy đầy đủ.
Trước xu thế biến đổi khí hậu, nước
biển dâng diễn ra nhanh và phức tạp, thiên tai ngày càng gia tăng, bất thường, cực
đoan, gây thiệt hại ngày càng nghiêm trọng, đặt ra yêu cầu công tác phòng ngừa,
ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai trong thời gian tới phải có sự chuyển biến
mạnh mẽ, toàn diện, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội nhằm giảm nhẹ thiệt hại, phát triển bền vững đất
nước. Ban Bí thư yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng quán triệt và thực hiện
nghiêm túc, có hiệu quả một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
1. Tăng cường sự
lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc
phục hậu quả thiên tai
- Các cấp ủy, tổ chức đảng cần xác định
công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai là nhiệm vụ quan trọng,
cấp bách, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Quán triệt sâu
sắc quan điểm chủ động phòng ngừa là chính, kết hợp với các biện pháp thích ứng
phù hợp, tôn trọng quy luật tự nhiên, thay đổi tư duy phát triển, bảo đảm phát
triển bền vững.
- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc
phân công, phân cấp, xác định rõ trách nhiệm, đặc biệt là người đứng đầu các cơ
quan, tổ chức, đơn vị trong công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả
thiên tai theo phương châm "bốn tại chỗ" (chỉ huy tại chỗ; lực lượng
tại chỗ; phương tiện, vật tư tại chỗ; hậu cần tại chỗ) gắn với xây dựng cộng đồng
an toàn.
- Chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo công
tác tuyên truyền, giáo dục về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước liên quan đến phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai, tạo sự
thống nhất trong các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền và toàn xã hội cả về nhận
thức và hành động trước tình hình và tác động tiêu cực ngày càng phức tạp của
thiên tai. Nâng cao kiến thức, năng lực cho lãnh đạo, cán bộ, đảng viên các cấp,
nhất là ở cơ sở có trách nhiệm thông tin, hướng dẫn kỹ năng nhận biết và cách
thức ứng phó thiên tai cho cộng đồng, đặc biệt là các đối tượng dễ bị tổn
thương.
2. Hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cơ chế, chính sách về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả
thiên tai
- Sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống
pháp luật liên quan theo hướng khắc phục các chồng chéo,
xung đột, bổ sung các quy định mới bảo đảm sự thống nhất, phù hợp, tạo môi trường
pháp lý đầy đủ, khả thi, thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ phòng ngừa, ứng
phó, khắc phục hậu quả thiên tai.
- Hoàn thiện cơ chế, thể chế để tăng
cường hiệu lực, hiệu quả trong công tác chỉ đạo, chỉ huy, điều hành phòng ngừa,
ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai; có chính sách đặc thù cho lực lượng làm
công tác này. Hoàn thiện cơ chế vận hành Quỹ phòng, chống thiên tai quốc gia, bảo
hiểm rủi ro thiên tai, dịch vụ dự báo, theo dõi, giám sát, đánh giá tác động rủi
ro thiên tai.
- Phải đặt yêu cầu phòng ngừa, ứng
phó, khắc phục hậu quả thiên tai ở vị trí quan trọng trong quy hoạch, kế hoạch,
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Điều chỉnh, lồng ghép nội dung phòng ngừa,
ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai vào quy hoạch, kế hoạch, chiến lược phát
triển của các ngành, địa phương theo hướng kết hợp đa mục
tiêu, hạn chế tối đa việc gia tăng rủi ro thiên tai, thích ứng với đặc điểm của
từng vùng, miền, nhất là vùng ven biển, các lưu vực sông liên tỉnh, xuyên biên
giới, khu vực đông dân cư và xu hướng biến đổi khí hậu, nước biển dâng.
3. Nâng cao năng
lực dự báo, cảnh báo, theo dõi, giám sát thiên tai bảo đảm kịp thời, đủ độ tin
cậy
- Chú trọng ưu tiên đầu tư cho công
tác nghiên cứu cơ bản về thiên tai, hệ thống dự báo khí tượng thủy văn, hệ thống
theo dõi, giám sát thiên tai chuyên dùng chuẩn hóa và hiện
đại. Tăng cường rà soát, cập nhật kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng, dự
báo dài hạn về thiên tai, nguồn nước, nhất là đối với các sông xuyên biên giới.
- Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy
chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật, cấp độ rủi ro thiên tai phù hợp
với đặc điểm thiên tai, điều kiện từng vùng, miền.
4. Huy động và sử
dụng hiệu quả nguồn lực cho phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai
- Đa dạng hóa việc huy động nguồn lực
và sử dụng hiệu quả nguồn lực theo phân cấp, đúng thẩm quyền. Bố trí nguồn chi
ngân sách thích đáng, kết hợp xã hội hóa các nguồn lực hợp pháp trong và ngoài
nước để chủ động phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai, nhất là các
loại hình thiên tai như bão mạnh, lũ lớn, lũ quét, sạt lở
đất, hạn hán, xâm nhập mặn. Phát huy vai trò, trách nhiệm của bộ máy quản lý
chuyên ngành trong việc huy động, quản lý và sử dụng nguồn lực. Kết hợp sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực trong nước và ODA để thực hiện chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chương trình tổng thể, dự án phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả
thiên tai.
- Hằng năm, ưu tiên bố trí ngân sách
tập trung xử lý dứt điểm các trọng điểm đê điều, nhất là các tuyến đê xung yếu
từ cấp III đến cấp đặc biệt, sạt lở bờ sông, bờ biển khu vực trọng yếu. Khẩn cấp
di dời dân cư vùng thiên tai gắn với sinh kế bền vững. Đầu tư, nâng cấp cơ sở vật
chất, trang thiết bị của cơ quan tham mưu phục vụ chỉ đạo điều hành ứng phó với
thiên tai các cấp, nhất là cơ quan chỉ đạo điều hành ở cấp quốc gia, cấp vùng
theo hướng hiện đại ngang tầm với các nước trong khu vực. Ưu tiên bố trí nguồn
lực phục vụ cho công tác điều tra cơ bản và triển khai các chương trình trọng
điểm cấp nhà nước về ứng dụng khoa học, công nghệ trong phòng ngừa, ứng phó, khắc
phục hậu quả thiên tai.
- Rà soát, sắp xếp thứ tự ưu tiên, từng
bước đầu tư xây dựng, nâng cao khả năng chống chịu thiên tai của hệ thống kết cấu
hạ tầng.
Đối với khu vực miền núi phía Bắc và
Bắc Trung Bộ, bảo đảm an toàn nơi ở cho đồng bào, tăng cường quản lý, kiểm
soát, không để người dân làm nhà lấn chiếm lòng sông, suối, khu vực rủi ro
thiên tai, giảm nguy cơ xảy ra sạt lở đất, lũ quét.
Đối với vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ, bảo đảm an toàn đê điều, hồ chứa.
Đối với vùng duyên hải miền Bắc, miền
Trung, nâng cao năng lực ứng phó với lũ lớn, bão mạnh và siêu bão, sạt lở bờ biển.
Đối với vùng Tây Nguyên, bảo đảm nguồn
nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt.
Đối với vùng Nam Bộ, chủ động ứng
phó, thích ứng với lũ lớn, hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở bờ
sông, bờ biển, sụt lún đất.
5. Nâng cao vai
trò, năng lực quản lý nhà nước trên cơ sở củng cố, kiện toàn lực lượng làm công
tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai từ Trung ương đến cơ sở
- Kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy
quản lý nhà nước về công tác này theo hướng tập trung, thống nhất, xác định rõ
chức năng, nhiệm vụ, khắc phục tình trạng phân tán, chồng chéo. Nâng tầm hoạt động
của cơ quan phòng, chống thiên tai các cấp theo hướng chuyên trách, trên cơ sở
sắp xếp lại tổ chức bộ máy hiện có, xây dựng đội ngũ cán bộ
chuyên nghiệp, có năng lực, trình độ, kỹ năng nghiệp vụ cao đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ trong tình hình mới. Chú trọng củng cố, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của lực lượng cứu hộ, cứu nạn ở Trung ương và lực lượng xung kích phòng, chống
thiên tai tại cơ sở.
- Phát huy vai trò nòng cốt của lực
lượng hiện có đang hoạt động tại các cấp để củng cố, kiện toàn, bổ sung nguồn lực,
trang thiết bị thiết yếu. Từng bước nâng cao năng lực, kỹ năng và các điều kiện
bảo đảm để thực thi kịp thời, xử lý linh hoạt các tình huống thiên tai theo
phương châm "bốn tại chỗ" phù hợp với các lĩnh vực của bộ, ngành,
vùng, miền và từng địa phương.
- Phân công trách nhiệm rõ ràng và
xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chuyên trách, quân đội,
công an, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần
chúng để phối hợp xây dựng các kế hoạch, phương án, kịch bản phòng ngừa, ứng
phó, khắc phục hậu quả thiên tai, bảo đảm tính khả thi, thiết thực, sát thực tiễn.
- Các bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm bảo đảm nguồn lực và các điều kiện
hoạt động cho cơ quan và lực lượng làm công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục
hậu quả thiên tai cùng cấp, đặc biệt là lực lượng xung kích ở cơ sở.
6. Phát triển
khoa học công nghệ và thúc đẩy hợp tác quốc tế về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục
hậu quả thiên tai
- Xác định phát triển khoa học công
nghệ là nhiệm vụ, giải pháp then chốt và hiệu quả trong phòng ngừa, ứng phó, khắc
phục hậu quả thiên tai. Ưu tiên cho nghiên cứu, sản xuất, trang bị công nghệ
quan trắc, theo dõi, giám sát, chỉ đạo điều hành, ứng phó với thiên tai. Tập
trung ứng dụng công nghệ viễn thám, tin học, tự động hóa,
vật liệu mới trong quản lý, khai thác, vận hành cơ sở dữ liệu, công cụ hỗ trợ
chỉ đạo điều hành. Tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp, cơ quan nghiên cứu đầu
tư cho khoa học công nghệ, hợp tác công - tư; có bộ phận nghiên cứu chuyên sâu,
mô phỏng, chuyển giao, ứng dụng khoa học, công nghệ vào phòng ngừa, ứng phó, khắc
phục hậu quả thiên tai.
- Thúc đẩy hợp tác, chia sẻ thông
tin, kinh nghiệm, nhất là với các nước thượng nguồn sông Hồng, sông Mê Công và
các quốc gia trong khu vực. Phối hợp với các tổ chức quốc tế trong hoàn thiện
khung khổ pháp lý và phát triển cơ sở dữ liệu về rủi ro
thiên tai. Nâng cao hiệu quả về hỗ trợ quốc tế, thực thi có hiệu quả các cam kết
quốc tế về phòng ngừa, ứng phó, giảm nhẹ rủi ro thiên tai mà Việt Nam tham gia.
7. Phát huy mạnh
mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và nhân dân
trong công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn
thể nhân dân phát huy vai trò tập hợp lực lượng, đặc biệt là lực lượng xung
kích tại cơ sở; đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, giáo dục cập nhật kiến thức, kỹ năng, nâng cao nhận
thức, năng lực, tính chủ động cho đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân
về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.
- Xây dựng kế hoạch, phương án phòng
ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai trong tổ chức của mình. Huy động và
phân bổ nguồn lực cứu trợ, hỗ trợ. Phối hợp với các cơ quan truyền thông giới
thiệu, nhân rộng các mô hình tốt, cách làm hay, gương điển hình trong công tác
này.
8. Tổ chức thực
hiện
- Các cấp ủy đảng, ban cán sự đảng, đảng
đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương tổ chức nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền
sâu rộng nội dung Chỉ thị tới cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân; xây dựng
chương trình, kế hoạch thực hiện Chỉ thị. Tổ chức kiểm tra, giám sát, khen thưởng,
biểu dương đối với những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc; kiểm điểm,
xem xét trách nhiệm đối với cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên để xảy ra thiệt hại
nặng nề về người và tài sản trong công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu
quả thiên tai.
- Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo, chỉ đạo
việc rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng ngừa, ứng
phó, khắc phục hậu quả thiên tai; bổ sung chi ngân sách cho lĩnh vực phòng ngừa,
ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.
- Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai, các bộ, ngành có liên quan và
các địa phương xây dựng kế hoạch thực hiện Chỉ thị; chỉ đạo hoàn thiện tổ chức
bộ máy, thực hiện tốt công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai
theo chức năng, nhiệm vụ được giao. Ban cán sự đảng Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn chỉ đạo việc xây dựng bộ chỉ số đánh giá năng lực lãnh đạo, điều hành
của cấp ủy, chính quyền địa phương đối với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc
phục hậu quả thiên tai.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn
thể nhân dân đẩy mạnh công tác vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia
các hoạt động phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai và giám sát việc
thực hiện Chỉ thị.
- Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì,
phối hợp với Ban cán sự đảng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các cơ
quan có liên quan tổ chức tuyên truyền việc triển khai thực hiện Chỉ thị.
- Ban cán sự đảng Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn chủ trì phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương theo dõi, kiểm
tra, đôn đốc, hằng năm báo cáo Ban Bí thư kết quả thực hiện Chỉ thị này.
Chỉ thị này phổ biến đến các chi bộ.
Nơi nhận:
- Các tỉnh ủy, thành ủy,
- Các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung
ương,
- Các đảng ủy đơn vị sự nghiệp Trung ương,
- Các đồng chí Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương,
- Lưu Văn phòng Trung ương Đảng.
|
T/M BAN BÍ THƯ
Trần Quốc Vượng
|