ỦY
BAN DÂN TỘC
*****
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******
|
|
Hà
Nội, ngày 29 tháng 11 năm 2006
|
BÁO CÁO TỔNG KẾT
THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH PHỐI HỢP HOẠT ĐỘNG ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC
VẬN ĐỘNG NÔNG DÂN CÁC DÂN TỘC PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VÙNG DÂN TỘC VÀ MIỀN
NÚI GIAI ĐOẠN 1999-2005
Nhằm
tạo ra sức mạnh tổng hợp trong công tác vận động nông dân các dân tộc góp phần
thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, ngày
21/05/1999 Ủy ban Dân tộc và Hội Nông dân Việt Nam ký kết Chương trình phối hợp
số 500/CTPH về “phối hợp hoạt động đẩy mạnh công tác vận động nông dân
các dân tộc phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi” giai
đoạn 1999-2005 với các nhiệm vụ chính sau:
1-
Phối hợp đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền nông dân các dân tộc thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phổ biến các tiến
bộ khoa học kỹ thuật, các kinh nghiệm và điển hình về sản xuất giỏi nhằm nâng
cao nhận thức phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc và miền núi.
2-
Phối hợp xây dựng kế hoạch, nội dung và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở
cho các xã khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa.
3-
Phối hợp vận động nông dân các dân tộc thi đua sản xuất, tham gia tích cực vào
công cuộc xoá đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc và miền
núi.
Sau 7
năm thực hiện, Chương trình phối hợp đã đạt được những kết quả nhất định. Để
đánh giá quá trình tổ chức thực hiện, xác định những tồn tại, nguyên nhân và
bài học kinh nghiệm; đồng thời xây dựng nội dung, biện pháp tiếp tục đẩy mạnh
việc thực hiện chương trình phối hợp trong thời gian tới, Ủy ban Dân tộc và TW
Hội Nông dân Việt Nam tổng kết thực hiện Chương trình như sau:
I.
CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
-
Ở Trung ương:
Nhận
rõ ý nghĩa và tác dụng to lớn của chương trình nên ngay sau khi ký kết Chương
trình phối hợp, Ủy ban Dân tộc và Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã xây dựng
văn bản hướng dẫn Ban Dân tộc và Hội Nông dân các tỉnh tổ chức ký kết chương
trình phối hợp; xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình phối hợp;
phân công Vụ Chính sách Dân tộc và Ban Dân tộc – miền núi làm cơ quan thường
trực, giúp Lãnh đạo hai cơ quan theo dõi, kiểm tra việc tổ chức thực hiện ở cơ
sở.
Thường
xuyên theo dõi, đôn đốc các địa phương báo cáo kết quả thực hiện. Định kỳ hàng
năm, hai bên tổ chức sơ kết đánh giá kết quả thực hiện chương trình phối hợp và
xây dựng kế hoạch chỉ đạo hoạt động năm sau; thường xuyên phối hợp kiểm tra
liên ngành đối với cơ sở. Đồng thời, từng cơ quan căn cứ vào chức năng, nhiệm
vụ của mình đã gắn việc thực hiện nhiệm vụ chính trị với việc thực hiện các mục
tiêu của chương trình, chú trọng lồng ghép nội dung của chương trình với các
chương trình phối hợp khác nhằm tạo sức mạnh tổng hợp giúp nông dân các dân tộc
thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
-
Ở địa phương:
Căn cứ
vào mục tiêu, nội dung của Chương trình phối hợp, hướng dẫn Liên tịch của cơ
quan Trung ương; căn cứ vào điều kiện thực tế của mỗi địa phương, Ban Dân tộc
và Hội Nông dân tỉnh xây dựng kế hoạch, chương trình hành động giữa hai ngành,
tổ chức triển khai thực hiện các nội dung Chương trình phối hợp.
Hội
Nông dân các tỉnh phổ biến quán triệt đến cán bộ Hội cơ sở đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân thực hiện tốt nội dung, mục tiêu
chương trình đề ra
Hàng
năm các địa phương đều sơ kết rút kinh nghiệm, bổ sung nội dung, biện pháp hoạt
động năm sau và kịp thời biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành
tích xuất sắc; tuyên truyền phổ biến các mô hình nông dân sản xuất giỏi, kinh
nghiệm tốt ở địa phương, nên đã thúc đẩy và nâng cao hiệu quả thực hiện chương
trình phối hợp.
II.
KẾT QUẢ THỰC HIỆN:
1.
Công tác tuyên truyền:
Bám
sát đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước hai ngành đã tổ chức phối hợp các
hoat động tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nông dân các dân tộc về các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đặc biệt là các chủ trương chính sách về
công tác dân tộc và phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc, miền núi như:
Nghi quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng (khóa IX) “về công tác dân
tộc”, Chương trình 135, Quyết định 134 của Thủ tướng Chính phủ gắn với các Nghị
quyết, chương trình phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc, miền núi của các
địa phương.
Bằng
nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến như: Hai ngành phối hợp in ấn các tài
liệu về chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước đưa xuống cơ sở; phối hợp với Đài
phát thanh và Truyền hình của tỉnh xây dựng các chương trình phát thanh, phim
phóng sự để phổ biến, tuyên truyền thông qua các công trình được đầu tư xây
dựng, những mô hình sản xuất kinh doanh giỏi, những gương “người tốt, việc tốt”
của nông dân các dân tộc. Đặc biệt thông qua hình tuyên truyền miệng tại các
buổi sinh hoạt chi hội, câu lạc bộ nông dân, các thôn bản các cụm dân cư… lồng
ghép tuyên truyền với các hoạt động chuyển giao khoa học kỹ thuật, sinh hoạt
văn hóa cộng đồng. Giáo dục truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc anh em chung
sống trên địa bàn, cùng nhau thực hiện tốt qui ước thôn bản, phát triển kinh tế
- xã hội và xây dựng đời sống văn hóa. Phân tích cho đồng bào hiểu rõ sự quan
tâm của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào các dân tộc, nhất là các xã đặc biệt
khó khăn, vùng sâu, vùng xa từ đó làm rõ âm mưu “diễn biến hòa bình” của các
thế lực chống phá Đảng và chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.
Các
địa phương đã căn cứ đặc điểm truyền thống văn hóa của từng vùng, từng tộc
người để có các hình thức tuyên truyền phù hợp. Cụ thể như:
Tỉnh
Bình thuận, Ban dân tộc đã phối hợp với Hội nông dân tổ chức tuyên truyền các
chính sách, pháp luật thông quan kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, các cuộc
thi hội diễn văn nghệ, thể thao tết Katê, Ramưwan cho đồng bào Chăm, tết Đầu
lúa cho đồng bào dân tộc K’Ho, Rắc lây… Ban Dân tộc và Hội Nông dân tỉnh Quảng
Ninh đã phối hợp với Sở Tư pháp tổ chức tư vấn trợ giúp pháp lý miễn phí cho
hơn 1.000 lượt nông dân các dân tộc thiểu số. Tỉnh Cao Bằng đã tổ chức vận động
gần 7.200 đồng bào dân tộc H’Mông, Dao thực hiện tốt quy ước nếp sống văn hóa,
phát 2.500 tờ gấp, 26 băng video phổ biến khoa học ký thuật về trồng trọt, chăn
nuôi bằng tiếng H’Mông…
Nhìn
chung công tác tuyên truyền, giáo dục đã góp phần nâng cao nhận thức của dồng
bào các dân tộc về sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và tính ưu việt của chế độ
ta, động viên cổ vũ tinh thần tự lực, tự cường dân tộc, vượt qua khó khăn, thử
thách, phát triển kinh tế – xã hội nông thôn vùng dân tộc và miền núi.
2.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở cho các xã miền núi, vùng đồng bào dân
tộc:
Trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, 2 cơ quan đã phối hợp mở các lớp tập
huấn cho cán bộ cấp xã về chính sách của Đảng, Nhà nước đối với miền núi và
vùng đồng bào dân tộc; các chuyên đề về công tác định canh, định cư, công tác
tôn giáo, chống di cư tự do, Chương trình 135, Chương trình 134, xây dựng các
mô hình xã điểm; tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ công tác Dân tộc, công tác
xóa đói giảm nghèo cho các trưởng thôn, bản, trưởng ngành các xã.
Sau 7
năm thực hiện Chương trình phối hợp, Ủy ban Dân tộc và Trung ương Hội Nông dân
Việt Nam cùng các địa phương tổ chức được 19 lớp tập huấn nâng cao năng lực cho
1.560 cán bộ hội Nông dân các cấp làm công tác xóa đói giảm nghèo, trong đó có
49 cán bộ Hội cấp tỉnh, 306 cán bộ Hội cấp huyện, 1.205 cán bộ Hội cơ sở ở các
xã đặc biệt khó khăn. Ngoài ra 2 cơ quan còn phối hợp tổ chức các lớp phổ biến
kiến thức về pháp luật, bảo vệ môi trường cho cán bộ Hội Nông dân cơ sở.
Ở địa
phương, các cấp Hội rất coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt
là cán bộ Hội cấp cơ sở nhằm để trang bị nghiệp vụ công tác Hội, nhất là kiến
thức, kỹ năng vận động nông dân cho cán bộ Hội. Theo báo cáo của Hội Nông dân
các tỉnh vùng dân tộc và miền núi, riêng năm 2004: cấp tỉnh đã mở được 154 lớp
tập huấn, bồi dưỡng cho 10.967 cán bộ; cấp huyện mở được 546 lớp tập huấn cho
39.312 lượt cán bộ Hội ở cơ sở.
Công
tác phối hợp đào tạo, tập huấn cán bộ cơ sở các xã miền núi, vùng đồng bào dân
tộc của hai ngành đã góp phần tạo một bước chuyển biến tích cực về nhận thức
của cán bộ cơ sở đối với các chương trình được đầu tư tại xã, từ đó nâng cao ý
thức trách nhiệm của họ vào các chương trình phát triển kinh tế – xã hội thông
qua việc tham gia đóng góp ý kiến, công sức và vận động bà con tham gia đóng
góp, giám sát các công trình dược đầu tư tại xã, giúp cho chương trình đầu tư
mang lạ lợi ích cao nhất, phát huy được vai trò làm chủ của nhân dân. Khi hiểu
rõ và nắm được chính sách, các cán bộ cơ sở đã tích cực phổ biến chủ trương,
đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước để người dân hiểu và tin tưởng vào
đường lối, chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Đảng, Nhà nước, của đại
phương chống được âm mưu chia rẽ khối “đại đoàn kết dân tộc” của các thế lực
thù địch.
3.
Công tác vận động nông dân các dân tộc thi đua sản xuất , tham gia tích cực vào
công cuộc xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế – xã hội khu vực miền núi và
vùng đồng bào dân tộc:
Cùng
với các chương trình đầu tư phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước việc tuyên
truyền, vận động nông dân tích cực tham gia công tác xóa đói giảm nghèo, xây
dựng cơ sở hạ tầng nông thôn miền núi và vùng đồng bào các dân tộc là nội dung
quan trọng được 2 cơ quan đã quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức nông dân
thực hiện.
Căn cứ
vào nguồn kinh phí Nhà nước cấp qua các Chương trình 135, Quyết định 134..và
tình hình thực tế ở mỗi địa phương, 2 cơ quan đã tham mưu cho cấp ủy, chính
quyền địa phương giao cho Hội Nông dân vận động hội viên, nông dân tham gia xây
dựng công trình, làm những phần việc thủ công, đơn giản như san nền, khai thác,
vận chuyển vật tư xây dựng xây dựng công trình. ở một số nơi Hội Nông dân nhận
trực tiếp thi công toàn bộ tuyến đường giao thông nông thôn, thực hiện nguyên
tắc của Chương trình “xã có công trình, dân có việc làm”. Trên cơ sở đó nâng
cao ý thức, trách nhiệm của người dân về bảo vệ công trình xây dựng được Nhà
nước đầu tư. Theo báo cáo tổng kết Chương trình phối hợp của các địa phương,
sau 7 năm thực hiện các chương trình phát triển kinh tế – xã hội ở các miền núi
và vùng đồng bào dân tộc đã huy động nhân dân đóng góp công lao động, vật tư
xây dựng công trình trị giá hàng trăm tỷ đồng.
Ban
Dân tộc và Hội Nông dân tỉnh phối hợp cùng sở Nông nghiệp - PTNT tổ chức phát
động phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau
xóa đói giảm nghèo. Phong trào đã thu hút được đông đảo nông dân vùng dân tộc
và miền núi tham gia thực hiện, ở nhiều địa phương, 2 ngành đã tổ chức nhiều
Hội nghị biểu dương đại biểu nông dân các dân tộc thiểu số sản xuất, kinh doanh
giỏi ở các địa phương.
Phối
hợp vận động nông dân thực hiện Chương trình định canh, định cư và vùng kinh tế
mới; xây dựng các mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; tổ chức các
lớp tập huấn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho vùng dân tộc miền núi.
Ngoài
ra, hai ngành đã tổ chức các đoàn đi kiểm tra, giám sát các chương trình, dự án
phát triển kinh tế - xã hội tại các xã đặc biệt khó khăn, các xã có chương
trình 135, 134…gặp gỡ, đối thoại với các hộ dân tộc thiểu số nghèo tìm ra
nguyên nhân nghèo đói của các hộ gia đình, từ đó tham mưu cho cấp ủy Đảng,
chính quyền có những giải pháp hữu hiệu giúp đỡ cho các hộ thóat nghèo bền vững.
Hưởng
ứng cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư" do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động, 2 ngành đã phối hợp tổ chức
giao lưu văn nghệ, thể thao, tuyên truyền nông dân gìn giữ và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc.
Ủy ban
Dân tộc phối hợp với Trung ương Hội phối hợp xây dựng mô hình xóa đói giảm
nghèo ở vùng tộc người Rục (dân tộc Chứt) xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa, tỉnh
Quảng Bình nhằm giúp cho đồng bào tiếp cận với tiến bộ khoa học – kỹ thuật,
cách làm ăn và phương pháp áp dụng những tiến bộ hoa học kỹ thuật mới vào sản
xuất nông, lâm nghiệp, nâng cao thu nhập. Tổng kinh phí thực hiện dự án là
198.000.000 đồng, qua việc tổ chức thực hiện dự án, hai ngành đã phối hợp với
các cơ quan thông tin đại chúng ở tỉnh tuyên truyền phổ biến giáo dục nâng cao
nhận thức cho nông dân về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát
triển nông nghiệp, nông thôn, về xoá đói giảm nghèo; về cách làm ăn và kinh
nghiệm của những nông dân sản xuất kinh doanh giỏi; giới thiệu những tiến bộ
khoa học - kỹ thuật, công nghệ và phương pháp thâm canh mới cho nông dân; tổ
chức 3 lớp tập huấn khuyến nông cho 157 nông dân nghèo, nội dung tập huấn chủ
yếu giới thiệu kỹ thuật trồng và thâm canh các loại cây trồng, phương pháp chăm
sóc, phòng, trị dịch bệnh cho gia súc, gia cầm; Hỗ trợ vật chất và hướng dẫn kỹ
thuật cho 62 hộ nông dân là đồng bào tộc người Rục xây dựng 3 loại mô hình
trình diễn, gồm: Nuôi bò, nuôi dê sinh sản và thâm canh ngô lai; xây dựng 2 Câu
lạc bộ nông dân với 80 thành viên tham gia, dự án đã trang bị tủ đựng sách, các
tài liệu hướng dẫn hoạt động Câu lạc bộ, tài liệu phổ biến các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước; các gương điển hình sản xuất, kinh doanh giỏi
trong đồng bào các dân tộc, sách kỹ thuật sản xuất nông nghiệp. Câu lạc bộ sinh
hoạt định kỳ hàng tháng, nội dung sinh hoạt phong phú linh hoạt tuỳ theo yêu
cầu của sản xuất và đời sống của nông dân trong từng thời gian nhằm phổ biến
tiến bộ kỹ thuật; hướng dẫn quản lý, sử dụng vốn phát triển sản xuất; cung cấp
thông tin về thị trường giá cả, phổ biến, giáo dục pháp luật, kiến thức chăm
sóc sức khoẻ, bảo vệ môi trường... Câu lạc bộ nông dân còn là nơi để hội viên
và nông dân gặp gỡ thăm hỏi và trao đổi kinh nghiệm làm ăn để giúp nhau xoá
đói, giảm nghèo.
Cùng
với việc thành lập các Câu lạc bộ nông dân, trên địa bàn xã đã thành lập được
10 nhóm hộ nông dân hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, mỗi nhóm có từ 7-20
người, sinh hoạt theo chuyên đề như: Nhóm nuôi bò, nhóm nuôi dê, nhóm trồng
lúa, trồng ngô, trồng đậu tương... Trưởng nhóm kiêm khuyến nông viên hướng dẫn
các nhóm viên theo phương thức “cầm tay chỉ việc”, thực hành ngay
tại ruộng, nương hoặc chuồng trại. Đến nay, đời sống nhân dân được cải thiện
một bước, tỷ lệ hộ đói nghèo tại 4 thôn bản đồng bào Rục giảm từ 95% xuống còn
70%. Tình trạng đồng bào trở về hang đá sinh sống đã được khắc phục.
Qua
việc tổ chức vận động nông dân các dân tộc thi đua sản xuất, tích cực thực hiện
xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc và miền núi,
trình độ cán bộ cơ sở đã được nâng cao về nhận thức chính trị, kiến thức chuyên
môn và trình độ quản lý, nâng cao hiệu quả trong hoạt động thực tiễn; nâng cao
vị thế trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
III.
ĐÁNH GIÁ CHUNG
1/
Ưu điểm: Chương trình “phối hợp đẩy mạnh công tác vận động
nông dân các dân tộc phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc và miền núi giai
đoạn 1999-2005” đã được cơ quan Dân tộc và cơ quan Hội nông dân các cấp
nghiêm túc quán triệt, triển khai và tổ chức thực hiện. Trên cơ sở bám sát các
mục tiêu, nội dung của Chương trình và thực tế tình hình thực tiễn, từng địa
phương đã xác định rõ nội dung, hình thức và phương pháp tổ chức hoạt động phù
hợp.
Qua 7
năm thực hiện chương trình đã góp phần hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh
tế – xã hội vùng dân tộc và miền núi. Các nội dung của chương trình đều được 2
cơ quan ở các địa phương triển khai thực hiện một cách tích cực và có hiệu quả.
Việc trao đổi thông tin, nắm bắt tình hình tham mưu cho các cấp ủy, chính quyền
địa phương đề ra các chủ trương, biện pháp chỉ đạo và thực hiện công tác kiểm
tra, giám sát, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ, nông dân đã được nâng lên một
bước. Qua đó cũng góp phần củng cố lòng tin của đồng bào các dân tộc với Đảng,
với Nhà nước, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Cùng
với nỗ lực của các cấp, các ngành 2 bên đã phối hợp góp phần nâng cao nhận thức
của đồng bào các dân tộc, cùng với cơ chế, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân
của Đảng và Nhà nước đã giúp cho kinh tế – xã hội vùng dân tộc và miền núi từng
bước phát triển; góp phần làm giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó
khăn.
Các
địa phương thực hiện có hiệu quả Chương trình phối hợp điển hình là Hội Nông
dân và Ban Dân tộc tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Quảng Bình, Quảng Nam….
2/
Tồn tại:
- Hiệu
quả tổ chức thực hiện chương trình phối hợp chưa đồng đều, việc quán triệt và
tổ chức ký kết chương trình phối hợp của một số nơi còn chậm hoặc còn chung
chung, chưa xác định rõ nội dung, biện pháp để tổ chức thực hiện một cách cụ
thể, phù hợp.
- Công
tác kiểm tra, chỉ đạo điểm chưa được coi trọng đúng mức; chưa kịp thời phát
hiện, bồi dưỡng những điển hình tiên tiến, khen thưởng những tập thể, cá nhân
tiêu biểu để khích lệ việc tổ chức thực hiện chương trình ở cơ sở.
- Một
số nơi chưa xác định rõ cơ chế phối hợp, chưa phân công trách nhiệm một cách cụ
thể nên chưa phát huy hết thế mạnh của mỗi bên; chưa lồng ghép các mục tiêu và
nội dung của chương trình với các chương trình, các cuộc vận động khác để nâng
cao hiệu quả tổ chức thực hiện ở từng địa phương.
- Còn
thiếu các mô hình chỉ đạo điểm thực hiện chương trình phối hợp để 2 cơ quan
nghiên cứu, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm và nhân rộng.
- Công
tác sơ kết, tổng kết, đánh giá của Chương trình từ Trung ương đến các địa
phương còn chậm, đã làm hạn chế hiệu quả của Chương trình.
3/
Nguyên nhân:
- Sự
chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện Chương trình từ cơ quan Trung ương đến các địa
phương chưa liên tục, chưa kịp thời, chưa có những chủ trương, biện pháp tích
cực để thúc đẩy việc tổ chức thực hiện chương trình ở cơ sở.
- Nội
dung phối hợp có liên quan đến nhiều ngành, nhiều chương trình khác nhưng chưa
tạo ra được cơ chế phối hợp chung hoặc sự lồng ghép để tạo ra sức mạnh tổng hợp
trong tổ chức thực hiện.
- Ở
một số địa phương, cán bộ các cơ quan Dân tộc và Hội Nông dân chưa nhận thức
đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của chương trình phối hợp, do đó chưa đầu tư
đúng mức, chưa năng động sáng tạo trong hướng dẫn chỉ đạo cũng như tổ chức thực
hiện.
- Kinh
phí cho các hoat động phối hợp hạn hẹp, nên việc triển khai các nội dung của
Chương trình phối hợp còn gặp nhiều khó khăn.
4-
Một số kinh nghiệm:
- Hai
cơ quan cần tạo ra sự thống nhất cao về nhận thức và trách nhiệm của từng cấp,
từng cán bộ, đảng viên về công tác dân tộc, về nhiệm vụ của Hội Nông dân nói
chung và chương trình phối hợp nói riêng. Từ đó thể hiện trách nhiệm của từng
cơ quan đối với nhiệm vụ nâng cao dân trí, đảm bảo dân sinh, phát huy dân chủ
của nông dân các dân tộc thiểu số.
- Trên
cơ sở chức năng nhiệm vụ của từng cơ quan, chủ động sáng tạo phát huy thế mạnh
về tổ chức, con người và chuyên môn, nghiệp vụ để triển khai thực hiện hiệu quả
các mục tiêu của Chương trình phối hợp.
-
Chương trình phối hợp liên quan tới nhiều ngành, nhiều lĩnh vực do đó cần phải
phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành có liên quan trên cơ sở chức năng,
nhiệm vụ của từng ngành để có sự hỗ trợ, phối hợp cả trong lãnh đạo, chỉ đạo và
tổ chức thực hiện ở từng địa phương.
- Việc
thực hiện Chương trình phối hợp ở từng địa phương phải bám sát sự lãnh đạo của
cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương; biết lồng ghép việc thực hiện các mục tiêu
của Chương trình phối hợp với việc thực hiện các nhiệm vụ, các phong trào của
địa phương và nhiệm vụ của từng ngành.
IV.
KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT:
Việc
phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc và miền núi là nhiệm vụ của các cấp,
các ngành nhằm động viên, khơi dậy tiềm năng, sức mạnh trong đồng bào các dân
tộc. Đây là nhiệm vụ khó khăn, lâu dài cần sức mạnh tổng hợp của các cấp, các
ngành, đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và đời sống cho đồng bào
các dân tộc nhất là các xã đặc biệt khó khăn.
Qua
những kết quả đạt được đã khẳng định Chương trình phối hợp giữa hai ngành là
cần thiết, phát huy được điều kiện và khả năng của mỗi bên, tạo ra sức mạnh
trong công tác vận động nông dân thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà
nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, đạt được kết quả bước
đầu quan trọng, được các cấp ủy Đảng và đồng bào các dân tộc ghi nhận.
Ủy ban
Dân tộc, Hội Nông dân Việt Nam cần tiếp tục ký kết và thực hiện Chương trình
phối hợp giai đoạn 2006-2010 làm cơ sở cho 2 ngành ở địa phương phối hợp tổ
chức thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, trong đó tập trung
vào những nội dung chính sau:
1-
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nông dân miền núi và vùng
đồng bào dân tộc tích cực tham gia thực hiện các chủ trương chính sách của
Đảng, Nhà nước, các chương trình phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương.
2- Xây
dựng cơ chế phối hợp cho 2 ngành ở địa phương tổ chức thực hiện có hiệu quả
chương trình phát triển kinh tế xã - xã hội.
3-
Hàng năm 2 bên dành một khoản kinh phí trực tiếp cùng địa phương xây dựng một
số mô hình chỉ đạo điểm (cấp xã) ở các vùng miền về thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng, Nhà nước
4- Kịp
thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nông dân các dân tộc thiểu số và giải
quyết kịp thời các vụ việc bức xúc phát sinh, đảm bảo an ninh nông thôn vùng
dân tộc miền núi.
5-
Tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương, tổng kết đánh giá, tham
mưu đề xuất với Đảng, Nhà nước điều chỉnh, bổ chính sách dân tộc cho phù hợp
giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.