CHÍNH PHỦ
---------
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 85/BC-CP
|
Hà Nội, ngày 31 tháng 5 năm 2008
|
BÁO CÁO GIẢI TRÌNH VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN
CỦA
THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG
(tại
Kỳ họp thứ ba, Quốc hội khoá XII)
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa đồng bào cả nước,
Thay mặt Chính phủ, tôi chân
thành cảm ơn các vị đại biểu Quốc hội, đồng chí, đồng bào, các cơ quan thông
tin đại chúng đã bày tỏ sự nhất trí với báo cáo của Chính phủ về kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững.
Nhiều vị đại biểu Quốc hội đã phân tích sâu sắc thêm thực trạng tình hình và
nguyên nhân, chỉ rõ thêm nhiệm vụ và nêu thêm những biện pháp cụ thể. Một số ý
kiến đề nghị làm rõ trách nhiệm của từng thành viên Chính phủ trong quản lý
điều hành; yêu cầu Chính phủ trình bày rõ thêm cơ sở của việc điều chỉnh chỉ
tiêu tăng trưởng và lạm phát; tiết kiệm chi tiêu ngân sách, cắt giảm đầu tư
công, nâng cao hiệu quả đầu tư; giảm nhập siêu; chính sách tiền tệ và quản lý
ngân hàng thương mại; làm rõ việc các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà
nước đầu tư kinh doanh ngoài chức năng chính; việc bảo đảm an ninh lương thực
và cải thiện đời sống nông dân; điều hành giá cả các mặt hàng thiết yếu; việc
bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội cho người nghèo, người lao động và cán bộ, nhân
viên có thu nhập thấp; cải cách hành chính và chống tham nhũng...
Chính phủ xin trân trọng tiếp thu những ý kiến rất xác đáng của các vị
đại biểu Quốc hội, của đồng chí, đồng bào. Chính phủ sẽ nỗ lực phấn đấu cao
nhất để thực hiện có kết quả các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp mà Quốc hội
thông qua.
Tại kỳ họp này đã có 132 đại
biểu Quốc hội gửi 297 chất vấn đến Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nhiều
thành viên Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các thành viên Chính phủ
theo chức năng, nhiệm vụ được giao trả lời bằng văn bản tất cả các chất vấn và
gần 2 ngày qua đã có 5 vị Bộ trưởng trực tiếp trả lời chất vấn của các vị đại
biểu Quốc hội tại hội trường. Thay mặt Chính phủ, tôi xin báo cáo giải trình
thêm về một số vấn đề mà nhiều vị đại biểu Quốc hội và đồng chí, đồng bào cả
nước quan tâm, chất vấn.
I. MỘT SỐ
NÉT CHÍNH VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI THÁNG 5 VÀ 5 THÁNG ĐẦU NĂM
Kinh tế tháng 5 tiếp tục đà phát
triển khá, một số lĩnh vực có tiến bộ. Vụ lúa Đông Xuân phía Nam thu hoạch tăng
cả về năng suất (3,7%) và sản lượng (5,8%); lúa Đông Xuân phía Bắc đang phát
triển tốt; diện tích cây lương thực và rau màu cả nước tăng khá so với cùng kỳ
năm trước. Đàn lợn giảm 3% do dịch tai xanh, nhưng đàn bò đã tăng 3%, đàn gia
cầm tăng 6%. Sản lượng thuỷ sản tháng 5 tăng 8,1% so với cùng kỳ. Giá trị sản
lượng công nghiệp tháng 5 tăng khoảng 3,4% so với tháng 4, tính chung 5 tháng
đầu năm tăng 16,4% so với cùng kỳ năm 2007. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp
tục tăng cao; có 130 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký trên 7,4 tỷ
USD, đưa tổng số dự án được cấp phép 5 tháng đầu năm nay lên 324 dự án, với
tổng số vốn đăng ký đạt 14,7 tỷ USD, tăng 160% so với 5 tháng đầu năm 2007. Giá
trị xuất khẩu 5 tháng của hầu hết mặt hàng đều tăng, tổng kim ngạch ước đạt
23,4 tỷ USD, tăng 27,2% so với cùng kỳ. Nhập khẩu tháng 5 ước giảm trên 200
triệu USD so với tháng 4, nên nhập siêu tháng 5 là 55,3%, tuy vẫn cao nhưng đã
giảm so với mức nhập siêu tháng 4 (64,7%). Dịch vụ, du lịch cũng đạt mức tăng
khá, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ 5 tháng tăng 29,7% so với
cùng kỳ.
Các hoạt động khoa học công
nghệ, văn hoá xã hội, xoá đói giảm nghèo tiếp tục được triển khai theo đúng
tiến độ chương trình, kế hoạch cả năm.
Quốc phòng, an ninh được giữ
vững. Trật tự an toàn xã hội tiếp tục ổn định.
Bên cạnh những kết quả đạt được,
tình hình kinh tế - xã hội vẫn nổi lên 2 vấn đề lớn; một là, giá tiêu
dùng tăng cao, làm cho đời sống của người nghèo, người có thu nhập thấp khó
khăn, thiếu đói ở một số địa phương tăng lên; hai là, nhập siêu vẫn còn
lớn, đe doạ sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Về giá cả thị trường trong nước:
hầu hết giá các nhóm hàng hoá và dịch vụ tháng 5 đã giảm nhẹ hoặc chỉ tăng ở
mức 0,3% đến dưới 2%, riêng giá lương thực tăng đột biến tới 22,19%, làm cho
giá tiêu dùng tháng 5 tăng cao trở lại (3,91%) sau 2 tháng đã giảm nhẹ (tháng
3: 2,99%, tháng 4: 2,2%) và giá tiêu dùng 5 tháng tăng 19,09% so với cùng kỳ.
Giá lương thực tăng cao chủ yếu do giá lương thực thế giới tăng mạnh, kéo theo
giá trong nước tăng lên; ngoài ra, những thông tin thất thiệt và hiện tượng đầu
cơ trong những ngày cuối tháng 4 ở một số địa phương cũng góp phần làm giá
lương thực tăng đột biến.
Về tình hình thiếu đói: theo báo
cáo của các địa phương, tính đến ngày 21 tháng 5 năm 2008, cả nước có 181.600 hộ thiếu đói, với
766.900 nhân khẩu, chiếm 1,6% số hộ, 1,5% số nhân khẩu nông nghiệp cả nước, gấp
2 lần so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là do hậu quả của bão lũ cuối năm 2007,
của rét đậm, rét hại kéo dài đầu năm 2008 và nay đang là thời điểm giáp hạt. Đã
chuyển 23 nghìn tấn lương thực và 9,3 tỷ đồng tới các hộ thiếu đói. Chính phủ
sẽ tiếp tục theo dõi sát tình hình này, tập trung đẩy nhanh việc hỗ trợ khắc phục
hậu quả thiên tai, khôi phục sản xuất kết hợp với hỗ trợ thiết thực, kiên quyết
không để người dân nào bị đói.
Bằng những nỗ lực của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, tình hình kinh tế - xã hội nước ta trong 5 tháng đầu năm
tuy còn rất nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung vẫn ổn định, một số mặt đạt được
kết quả khá. Những kết quả của 5 tháng đầu năm nay tạo thêm cho chúng ta lòng
tin để phấn đấu thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ
mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng
bền vững.
II. VỀ
ĐIỀU CHỈNH CHỈ TIÊU TĂNG TRƯỞNG GDP VÀ CHỈ SỐ LẠM PHÁT NĂM 2008
1. Về điều chỉnh
chỉ tiêu tăng trưởng GDP
Như đã báo cáo trước Quốc hội,
tình hình kinh tế - xã hội 5 tháng đầu năm cho thấy, việc thực hiện chỉ tiêu tăng
trưởng GDP từ 8,5 - 9% và phấn đấu cao hơn đã đề ra trong Kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm 2008 là không hiện thực. Trên cơ sở đánh giá tình
hình thực tế, Chính phủ đề nghị Quốc hội xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tăng
trưởng GDP năm 2008 là khoảng 7%. Đa số ý kiến của các đại biểu Quốc hội đồng
tình với việc điều chỉnh này, nhưng kiến nghị làm rõ căn cứ xác định mức điều
chỉnh cụ thể; một số ý kiến đề nghị giữ nguyên chỉ tiêu đã đề ra từ đầu năm.
Chính phủ xin trình bày thêm như sau:
- Tăng trưởng GDP là một chỉ
tiêu tổng hợp, đo lường kết quả phát triển kinh tế trong kỳ kế hoạch. Đây là
chỉ tiêu định hướng, nhưng là căn cứ quan trọng để xác định chính sách, phân bổ
nguồn lực và để tính toán các chỉ tiêu khác trong kế hoạch phát triển, do vậy
là cơ sở quan trọng trong điều hành kinh tế - xã hội của đất nước.
- Thực hiện nhiệm vụ ưu tiên
hàng đầu là kiềm chế lạm phát, chúng ta phải áp dụng chính sách tiền tệ thắt
chặt (hạn chế mức tăng của tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng);
rà soát điều chỉnh đầu tư công, đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và tiết kiệm
chi tiêu ngân sách; dành thêm ngân sách cho các nhiệm vụ an sinh xã hội. Những
biện pháp này làm giảm nguồn lực cho tăng trưởng. Ngoài ra, do giá cả thị
trường thế giới tăng cao làm chi phí đầu vào tăng lên trong khi giá đầu ra chưa
tăng tương ứng; kinh tế của các đối tác thương mại chính của Việt Nam suy giảm
làm cho xuất khẩu của ta gặp khó khăn, đầu tư gián tiếp từ nước ngoài có phần
giảm sút..., cũng làm giảm mức tăng trưởng. Mặc dù GDP quý I tăng 7,4% nhưng
tốc độ tăng đã chậm lại và thấp hơn nhiều so với nhiệm vụ kế hoạch. Từ tình
hình trên, việc giảm tốc độ tăng trưởng là một yêu cầu thực tế và cần thiết.
- Để xác định cụ thể chỉ tiêu
tăng trưởng năm 2008 theo tinh thần kiềm chế lạm phát và duy trì tăng trưởng
bền vững, Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Viện Nghiên cứu Quản lý kinh
tế trung ương) phối hợp với một số cơ quan trong nước và tổ chức quốc tế tính
toán các khả năng tăng trưởng theo 3 phương án. Kết quả: mức tăng trưởng theo
phương án cơ bản là 7,2%, phương án cao là 7,6% và phương án thấp là 6,7%.
Sau khi cân nhắc các mặt, Chính
phủ kiến nghị Quốc hội xem xét chấp nhận mức tăng GDP năm 2008 khoảng 7%. Mức
tăng này cũng tương đương với dự báo của một số tổ chức quốc tế về tốc độ tăng trưởng
của kinh tế nước ta năm 2008 và phù hợp với xu thế giảm chỉ tiêu tăng trưởng ở nhiều
nước trên thế giới từ 0,5 đến 2% trước tình hình lạm phát và giá cả thế giới
tăng cao như hiện nay.
Điều quan trọng, như Chính phủ đã
báo cáo Quốc hội tại phiên khai mạc kỳ họp này là: trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta phải thường xuyên theo dõi tình hình, cập
nhật đầy đủ thông tin, bình tĩnh, thận trọng, phân tích, đánh giá để có phản
ứng chính sách thích hợp nhằm hạn chế tối đa những tác động tiêu cực do những khó
khăn mới nẩy sinh; mặt khác, phải nhanh nhạy tận dụng có hiệu quả thời cơ mới
xuất hiện để phát huy tốt tiềm năng tăng trưởng của đất nước.
2. Về xác định
chỉ số lạm phát năm 2008
Khi thảo luận về tình hình và
chỉ tiêu lạm phát năm 2008, nhiều đại biểu đặt ra hai vấn đề lớn: một là,
tại sao cùng chịu tác động của thiên tai dịch bệnh, của tăng giá dầu mỏ, tăng
giá lương thực, giá các nguyên liệu khác… nhưng lạm phát ở Việt Nam lại cao hơn
so với nhiều nước khác; hai là, vì sao Chính phủ đề nghị: tích cực
phấn đấu kiềm chế lạm phát và tốc độ tăng giá; bằng các giải pháp tổng hợp đưa
tốc độ tăng giá tiêu dùng theo hướng giảm dần mà không xác định con số cụ
thể. Đây là những câu hỏi quan trọng và rất xác đáng.
- Về những nguyên nhân lạm phát
và lạm phát ở nước ta cao hơn nhiều nước, Chính phủ đã báo cáo Quốc hội tại
phiên khai mạc kỳ họp này. Tôi xin trình bày thêm như sau:
Một là, do đầu tư kém
hiệu quả, làm cho sức cạnh tranh của sản phẩm và của nền kinh tế thấp. Đây là
nguyên nhân sâu xa gây lạm phát và đã tồn tại nhiều năm nhưng chậm được khắc
phục.
Hai là, giá lương thực
thực phẩm có tác động rất lớn, rất trực tiếp đến chỉ số giá tiêu dùng ở nước
ta. Do thu nhập bình quân đầu người và mức sống thấp nên khoản chi mua lương
thực, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn trong tiêu dùng của đa số dân cư. Nhóm hàng
này chiếm tới 42,85% cơ cấu hàng hoá tính chỉ số giá tiêu dùng và có tốc độ
tăng giá cao nhất, liên tục trong những năm gần đây. Từ năm 2004 đến nay, nhóm
hàng này đã quyết định từ 50 đến 80% mức tăng giá tiêu dùng (1), chưa kể đến
việc giá lương thực thực phẩm tăng còn là tác nhân kích giá các hàng hoá và
dịch vụ khác tăng theo. Tháng 5 năm 2008, giá tiêu dùng tăng 3,91%, nguyên nhân
chính là giá lương thực tăng đến 22,19%, cao nhất từ trước đến nay, trong khi
giá hầu hết các mặt hàng khác đều có mức tăng thấp hơn tháng 4 năm 2008 (2).
Ba là, kim ngạch nhập
khẩu nước ta gần bằng 90% GDP nên sự biến động của giá thị trường thế giới tác
động đến giá trong nước sâu rộng hơn. Những năm gần đây, giá nhiều mặt hàng
trên thị trường thế giới tăng mạnh, nhiều mặt hàng có tốc độ tăng rất cao lại
là những mặt hàng ta nhập khẩu với khối lượng lớn. Tình hình đó gây ra hiện
tượng "nhập khẩu lạm phát". Mặt khác, trong khi nhiều nước trong khu
vực đã điều chỉnh tăng giá nội tệ so với đồng đô la Mỹ, việc đồng Việt Nam mất giá so với đồng đô la Mỹ tuy có tạo thuận lợi cho xuất khẩu nhưng cũng làm cho tình
trạng nhập khẩu lạm phát được khuyếch đại thêm lên.
Bốn là, trong quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, chúng ta đã chủ động điều chỉnh giá một
số mặt hàng nhà nước còn trực tiếp quản lý. Đây là việc làm cần thiết, được
thực hiện có lộ trình, từng bước góp phần bỏ bù lỗ, xoá bao cấp qua giá. Mặc dù
mức giá mới nói chung vẫn còn thấp so với giá thị trường thế giới nhưng mỗi lần
điều chỉnh như vậy đều làm cho giá thị trường trong nước tăng lên.
Năm là, từ năm 2003 đến
nay, chúng ta liên tục điều chỉnh lương hàng năm với mức tăng tối thiểu là 20%.
Việc tăng lương là cần thiết, chúng ta đã kiên quyết làm tuy biết rằng tăng
lương cũng làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên, tạo sức ép và gây tâm
lý tăng giá.
- Về xác định chỉ số lạm phát
trong năm 2008
Lạm phát ở nước ta, ngoài những
nguyên nhân thuộc chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ và những nguyên nhân
nội sinh khác, còn phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố bên ngoài: giá lương thực
thế giới đang tăng cao kéo theo giá trong nước tăng lên, đây là việc khó tránh,
không chỉ đối với các nước nhập khẩu mà ngay cả đối với nước xuất khẩu như nước
ta; thiên tai dịch bệnh còn diễn biến bất thường; giá xăng dầu, giá đồng đô la
Mỹ đang biến động mạnh, rất khó dự báo; ngoài ra, yếu tố tâm lý cũng tác động
đến việc hình thành mặt bằng giá nước ta. Các yếu tố này đang diễn biến phức
tạp và tác động đan xen trong khi thời gian đến cuối năm chỉ còn 7 tháng, rất
khó có đủ căn cứ vững chắc để trình Quốc hội con số cụ thể về tốc độ tăng giá.
Vì vậy, Chính phủ đề nghị Quốc hội chấp nhận mục tiêu kiềm chế lạm phát trong
năm 2008 là: “tích cực phấn đấu kiềm chế lạm phát và tốc độ tăng giá; bằng
các biện pháp tổng hợp, đưa tốc độ tăng giá tiêu dùng theo hướng giảm dần”
tạo cơ sở để đưa tốc độ tăng giá xuống một con số trong vài năm tới.
Có thể nói, chúng
ta không thể giảm nhanh lạm phát chỉ với những nỗ lực chủ quan, mặt khác để
tránh những tác động bất lợi khác cho nền kinh tế cũng không nên giảm lạm phát
một cách đột ngột (3). Kinh nghiệm chống lạm phát của các nước và nước ta trong
những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ trước cho thấy, để đưa lạm phát xuống thấp
cần phải có thời gian.
Ngoài ra, như đã
nêu ở trên, do mức cung và lượng cầu nhiều mặt hàng thay đổi có tính thời vụ,
theo các quy luật vận động riêng, nên biến động giá cả các tháng, các quý có
thể khác nhau, không hẳn tháng sau thấp hơn tháng trước. Trong điều kiện
đó, khuynh hướng vận động của giá là quan trọng nhất. Phải làm cho tốc độ tăng
giá tiêu dùng giảm dần xuống. Đây là yêu cầu cấp thiết và có tính khả thi.
Với những phân tích nêu trên,
xin Quốc hội xem xét chấp nhận đề nghị này của Chính phủ.
Còn về chỉ tiêu giảm nghèo và
các chỉ tiêu khác, xin kiến nghị Quốc hội giao Chính phủ căn cứ vào tình hình
tăng trưởng và kiềm chế lạm phát để phấn đấu đạt mức cao nhất có thể.
III. VỀ
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NHIỀU VỊ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ ĐỒNG BÀO CẢ NƯỚC QUAN TÂM, CHẤT VẤN
1.
Về rà soát, sắp xếp lại các dự án đầu tư
Để kiềm chế lạm
phát, Chính phủ chỉ đạo thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp, trong đó có việc rà
soát, điều chỉnh đầu tư công, đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ và đầu tư
của doanh nghiệp nhà nước; thực hiện triệt để tiết kiệm chi thường xuyên từ
nguồn ngân sách. Các đại biểu Quốc hội đều đồng tình với chủ trương này và đề
nghị Chính phủ phải chỉ đạo thực hiện một cách kiên quyết. Xin báo cáo Quốc hội
như sau:
- Về sắp xếp
lại các dự án đầu tư công
Thông thường, khi
giá vật tư, thiết bị tăng cao, Chính phủ thường phải cấp bổ sung vốn để bù đắp
phần trượt giá, điều chỉnh tăng vốn cho các dự án, công trình đầu tư từ nguồn
ngân sách. Năm nay, giá vật tư, thiết bị tăng mạnh hơn các năm trước, nhưng
Chính phủ chỉ đạo giữ nguyên tổng
mức vốn đầu tư đã phân bổ từ đầu năm, đồng thời, yêu cầu rà
soát, cắt giảm, đình hoãn các dự án, công trình chậm hoàn
thành, kém hiệu quả, tập trung vốn cho các công trình, dự án hiệu quả, có khả
năng hoàn thành sớm trong năm 2008, 2009. Đây là một việc khó, nhưng các Bộ,
ngành và địa phương đã thể hiện quyết tâm thực hiện chủ trương này. Đến ngày 28
tháng 5 năm 2008, đã có 28 Bộ, ngành, cơ
quan Trung ương, 43 địa phương và 8 tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước báo
cáo về số công trình, dự án đình hoãn, ngừng triển khai và giãn tiến độ thực
hiện trong kế hoạch năm 2008 là 995 dự án với tổng số vốn đầu tư từ nguồn ngân
sách nhà nước là 3.983 tỷ đồng, bằng 7,8% tổng số vốn đầu tư thuộc ngân sách
nhà nước. Các đơn vị, địa phương đang tiếp tục rà soát với tinh thần tích cực,
khẩn trương. Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư đôn đốc, kiểm tra để bảo đảm chấp hành
nghiêm chỉ đạo của Chính phủ.
- Về các công
trình, dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ
Chính phủ chủ
trương kiên quyết rà soát để đình hoãn các dự án, công trình tuy đã có trong
danh mục sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ nhưng chưa chuẩn bị xong thủ tục đầu
tư theo quy định. Theo tinh thần trên, sau khi rà soát, tổng mức vốn đầu tư từ
nguồn vốn trái phiếu Chính phủ dự kiến cắt giảm là trên 9.000 tỷ đồng, bằng
khoảng 25% kế hoạch năm 2008 (4). Đồng thời, Chính phủ cho phép giải ngân khối
lượng hoàn thành vượt mức kế hoạch của các dự án có tiến độ thi công nhanh và
xem xét bổ sung vốn đối với các dự án có tiến độ vượt kế hoạch, các công trình
có hiệu quả và các công trình trọng điểm về kinh tế - xã hội.
- Về hiệu quả
đầu tư
Một số ý kiến đại biểu nhận xét, tình trạng đầu tư kém hiệu quả đã có từ
những năm trước đây, hệ số ICOR (5) tăng cao, đề nghị Chính phủ làm rõ nguyên nhân
và các giải pháp khắc phục.
Theo một số tính
toán, giai đoạn 2002 - 2007, hệ số ICOR của Việt
Nam khoảng từ 4,5 - 5,3; như vậy, để làm ra một đồng GDP cần khoảng 4,5 đến 5,3
đồng vốn đầu tư. Hệ số ICOR của nước ta cao hơn một số nước ở giai đoạn phát
triển tương đương (6) do những nguyên nhân chủ yếu là:
Những bất cập
trong công tác quy hoạch và những yếu kém trong quản lý nên đầu tư còn dàn
trải, nhiều công trình kéo dài chậm đưa vào sử dụng, tình trạng lãng phí, thất
thoát còn lớn, hiệu quả đầu tư thấp. Tăng trưởng ở nước ta chủ yếu vẫn là theo
chiều rộng, tỷ lệ đóng góp của vốn vào tăng trưởng có xu hướng tăng, đóng góp
của lao động có xu hướng giảm dần, đóng góp của các nhân tố tổng hợp như tiến
bộ kỹ thuật và công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, quản lý còn thấp.
Thời gian qua, vốn
đầu tư vào các lĩnh vực hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn, vùng sâu vùng
xa, tuy còn thấp xa so với yêu cầu nhưng vẫn chiếm một tỷ trọng lớn. Đây là
việc làm hết sức cần thiết, thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với
nông dân và đồng bào vùng khó khăn, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Những
công trình này đã góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá, cải thiện
điều kiện ăn ở và đi lại của nhân dân, nhưng trong ngắn hạn chưa tạo ra nhanh
và nhiều giá trị gia tăng cho nền kinh tế.
Để nâng cao hiệu
quả đầu tư, Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó
tập trung vào các biện pháp chủ yếu như: kiểm soát chặt chẽ đầu tư từ nguồn
ngân sách và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện hệ thống thể chế;
nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và chất lượng thẩm định; đề cao trách
nhiệm của chủ đầu tư và người ra quyết định đầu tư; tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát của các cơ quan chức năng và của xã hội.
2.
Về tiết kiệm chi thường xuyên từ nguồn ngân sách
Chính phủ đã chỉ
đạo rõ việc tiết kiệm 10% chi thường xuyên trong 8 tháng còn lại của năm 2008
ngoài phần tiết kiệm 10% theo kế hoạch từ đầu năm và đã có nghị quyết riêng về
vấn đề này. Bộ Tài chính đã có hướng dẫn cụ thể. Theo báo cáo, số tiết kiệm
được dự kiến khoảng 2.700 tỷ đồng.
Thủ tướng Chính
phủ đã giao Bộ Tài chính tiếp tục kiểm tra để bảo đảm thực hiện nghiêm chủ trương
này.
3.
Về hoạt động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước
Sau một quá trình
sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước, hiện nay cả nước có 8 tập
đoàn kinh tế, 96 tổng công ty nhà nước. Các tập đoàn, tổng công ty chủ yếu hoạt
động theo hình thức công ty mẹ - công ty con, trong đó 74% công ty con là công
ty cổ phần, đa sở hữu. Theo báo cáo của Bộ Tài chính (trên cơ sở báo cáo của 76
tập đoàn, tổng công ty) (7), kết quả sản
xuất kinh doanh năm 2007 của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước so với năm
2006 đạt khá: hầu hết tập đoàn, tổng công ty sản xuất kinh doanh có lãi (8).
Tổng vốn chủ sở hữu là 377 nghìn tỷ đồng, tăng 18% chủ yếu được bổ sung từ lợi
nhuận. Tổng tài sản năm 2007 tăng 26%; tổng doanh thu tăng 24%; tổng lợi nhuận
tăng 23%; tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu đạt 17% (năm 2006 là
16%). Giá trị sản lượng hàng hóa, dịch vụ chiếm 40% GDP, đóng góp 28,8% tổng thu
nội địa (không kể thu dầu thô và thuế xuất nhập khẩu).
Tuy hiệu quả sản
xuất kinh doanh và sức cạnh tranh còn thấp, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước
đã góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm cân đối cung cầu,
bình ổn giá cả một số mặt hàng thiết yếu; thực hiện các dự án đầu tư phát triển
hạ tầng mà khả năng thu hồi vốn chậm và các nhiệm vụ công ích ở các vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Một số doanh nghiệp xây dựng được thương
hiệu có uy tín trên thị trường; đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị và xây dựng
được đội ngũ lao động kỹ thuật cao; đảm nhiệm được nhiều công việc trước đây vẫn
phải thuê hoặc mua của nước ngoài.
Thời gian gần đây,
có một số ý kiến lo ngại về tình hình huy động vốn của các tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước và việc một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước đầu tư
nhiều vào kinh doanh bất động sản, chứng khoán và tài chính, ngân hàng, là
những lĩnh vực không thuộc ngành nghề chính.
Theo báo cáo của
Bộ Tài chính, tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007, tổng số vốn huy động (bao gồm
vốn vay trong nước, vay nước ngoài, vay ngắn hạn, dài hạn và các khoản nợ phải
trả khác) của 76 tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 514 nghìn tỷ đồng, gấp 1,36
lần vốn chủ sở hữu. Xét về tổng thể là vẫn bảo đảm an toàn về tài chính. Một số
doanh nghiệp có mức huy động cao hơn, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính chủ trì
kiểm tra, đánh giá đúng thực trạng để có giải pháp thích hợp với từng trường
hợp.
Cũng tính đến ngày
31 tháng 12 năm 2007 có 13 tập đoàn, tổng công ty đầu tư vào các quỹ đầu tư
chứng khoán và quỹ đầu tư tài chính với tổng giá trị 1.061 tỷ đồng, bằng 0,31%
vốn chủ sở hữu và bằng 0,13% tổng giá trị tài sản của các doanh nghiệp này. Có
19 tập đoàn, tổng công ty góp vốn thành lập ngân hàng thương mại cổ phần với
tổng giá trị đầu tư 4.426 tỷ đồng, bằng 1,3% vốn chủ sở hữu và bằng 0,55% tổng
giá trị tài sản. Có 13 tập đoàn, tổng công ty nhà nước góp vốn thành lập 15
công ty chứng khoán với tổng giá trị đầu tư
420 tỷ đồng, bằng 0,12% vốn chủ sở hữu và bằng 0,05% tổng giá trị tài sản. Có
18 tập đoàn, tổng công ty nhà nước góp vốn đầu tư vào lĩnh vực bất động sản với
tổng giá trị đầu tư 1.463 tỷ đồng, bằng 0,43% vốn chủ sở hữu và 0,18% tổng giá
trị tài sản của chính các doanh nghiệp này. Xét chung, tổng vốn đầu tư vào 3
lĩnh vực trên là 7.370 tỷ đồng, là con số không nhỏ nhưng không cao so với vốn
chủ sở hữu và tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp.
Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ nhận thức rõ rằng, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước hiện đang hoạt
động trong các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, nắm giữ một khối lượng lớn
tài sản quốc gia, chiếm tỷ trọng cao nợ nước ngoài và nợ các ngân hàng trong
nước của khối doanh nghiệp; hiệu quả hoạt động của các tập đoàn và tổng công ty
nhà nước có ảnh hưởng rất lớn, trực tiếp đến ổn định kinh tế vĩ mô, chất lượng
và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Vì thế, hoạt động của khối doanh nghiệp này
cần phải được giám sát chặt chẽ, đánh giá một cách đầy đủ, nghiêm túc, minh
bạch thông qua kiểm toán độc lập, tin cậy nhằm nắm chắc thực trạng, có giải
pháp kịp thời, phù hợp để khắc phục các yếu kém, nâng cao trách nhiệm và hiệu
quả hoạt động của các doanh nghiệp này trong công cuộc phát triển đất nước.
Điều quan trọng là
phải khẩn trương xác định rõ hơn các nội dung cụ thể về vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước, mà lực lượng quan trọng là doanh nghiệp nhà nước, để tránh sự
mâu thuẫn, thậm chí tự mâu thuẫn khi sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước
trong quá trình thực hiện đường lối của Đảng, đó là: "Phát triển nền kinh
tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân" (9) và "hình thành
một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham
gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh
doanh chính, chuyên môn hoá cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế
quốc dân..." (10).
Chính phủ đang chỉ
đạo chuẩn bị sơ kết việc thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế và xây dựng nghị
định về tập đoàn kinh tế nhà nước. Trước mắt, kiểm soát chặt chẽ việc các tập
đoàn, tổng công ty nhà nước đầu tư vào kinh doanh chứng khoán, ngân hàng, bất
động sản. Đồng thời đẩy mạnh việc sắp xếp đổi mới doanh
nghiệp nhà nước theo kế hoạch đã đề ra, trong đó biện pháp cơ bản là thực hiện
có hiệu quả công tác cổ phần hoá, hình thành đa sở hữu trong doanh nghiệp nhà
nước, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động, tăng cường sự giám sát của cổ
đông và xã hội, làm cho doanh nghiệp nhà nước thực hiện tốt nhất vai trò, vị
trí quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
nước ta. Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố, với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà nước phải tập trung
chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ này.
4.
Về các giải pháp giảm nhập siêu
Là một nước đang phát triển
hướng đến mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhập siêu là bình thường nếu
ở một tỷ lệ hợp lý. Tuy nhiên tỷ lệ nhập siêu 4 tháng đầu năm nay ở mức 64,7%
là quá cao, làm ảnh hưởng xấu đến cán cân thanh toán quốc tế và ổn định kinh tế
vĩ mô. Vì vậy, Chính phủ coi việc giảm nhập siêu là một mục tiêu quan trọng,
trong đó biện pháp cơ bản, chủ yếu là tăng mạnh xuất khẩu đồng thời kiểm soát
chặt chẽ nhập khẩu.
Mặc dù thị trường, giá cả thế
giới biến động mạnh, xuất khẩu 5 tháng đầu năm tăng 27,2% so với 22% cùng kỳ
năm 2007. Nếu chúng ta tiếp tục thực hiện tốt các giải pháp tháo gỡ khó khăn để
đẩy mạnh xuất khẩu, dự kiến xuất khẩu cả năm 2008 có thể tăng khoảng 26% (kế
hoạch là 20 - 22%). Đây là mục tiêu rất cao, phải nỗ lực phấn đấu mới đạt được.
Trong 4 tháng đầu năm nay, kim
ngạch nhập khẩu của hầu hết các nhóm hàng đều tăng so với cùng kỳ 2007. Ngoài
nguyên nhân do giá nhập khẩu tăng, nhiều mặt hàng được nhập khẩu với số lượng
rất lớn (11). Cùng với việc thực hiện chính sách tài
chính, tiền tệ chặt chẽ làm giảm cầu trong một số lĩnh vực, Chính phủ đã chỉ
đạo các ngành chức năng tập trung rà soát và bằng các biện pháp thích hợp, cả
về thuế, hàng rào kỹ thuật... để hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng không thiết
yếu, những hàng hoá trong nước có thể thay thế được... Theo số liệu ban đầu,
nhập khẩu tháng 5 giảm trên 200 triệu USD so với tháng 4. Nhờ xuất khẩu tăng
cao, nhập khẩu giảm nên tỷ lệ nhập siêu tháng 5 là 55,3%, tuy vẫn còn cao nhưng
đã giảm so với tháng 4 (64,7%).
Chính phủ chủ trương tiếp tục
thực hiện có hiệu quả các biện pháp đồng bộ để đẩy mạnh xuất khẩu và hạn chế
nhập khẩu, bảo đảm đủ các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và tiêu dùng, phấn
đấu đưa tỷ lệ nhập siêu giảm xuống bằng mức năm 2007 (là khoảng 30%). Để thực
hiện tốt chỉ tiêu vĩ mô quan trọng này, góp phần bảo đảm ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội đất nước, các doanh nghiệp cần chủ động cân đối nhu cầu và
tiến độ nhập khẩu; tích cực khai thác, sử dụng hàng hoá trong nước đã sản xuất
được, kiên quyết chống thất thoát, triệt để tiết kiệm nguyên nhiên liệu, năng
lượng. Chính phủ yêu cầu các cơ quan, đơn vị và kêu gọi mọi người hưởng ứng, tự
giác thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, dành thêm tài lực vào
phát triển sản xuất kinh doanh, thiết thực góp phần đưa đất nước vượt qua khó
khăn để ổn định và phát triển.
5.
Chủ trương điều hành giá cả, bảo đảm an ninh lương thực và cải thiện đời sống
nông dân
Giá cả và điều hành giá là chủ đề được nhiều đại biểu Quốc hội và cử tri
quan tâm. Một trong những nội dung cốt lõi của quá trình
đổi mới ở nước ta là thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
trong đó bao gồm lĩnh vực giá cả. Thực hiện quản lý giá theo nguyên tắc thị
trường trước hết là xoá bỏ bao cấp qua giá, giá cả hàng hoá cơ bản do quan hệ
cung cầu quyết định. Nhà nước điều tiết thị trường, giá cả chủ yếu bằng các
công cụ kinh tế vĩ mô. Nhà nước chỉ kiểm soát giá các hàng hoá và dịch vụ độc
quyền kinh doanh nhưng tiến tới thực hiện nguyên tắc không bù lỗ.
Những năm trước
đây Chính phủ đã xác định lộ trình thực hiện giá thị trường đối với những mặt
hàng thuộc danh mục Nhà nước trực tiếp quản lý giá. Theo đó, sẽ điều chỉnh tăng
với bước đi hợp lý để đến hết năm 2008 cơ bản sẽ áp dụng giá thị trường đối với
các hàng hoá và dịch vụ thuộc danh mục này. Tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khoá XII
đã quyết nghị về một trong những nhiệm vụ năm 2008 là: xây dựng và công bố
lộ trình thực hiện giá thị trường đối với các hàng hoá và dịch vụ Nhà nước còn
kiểm soát việc định giá.
Tuy nhiên, những
tháng cuối năm 2007 và đầu năm 2008, lạm phát tăng cao, để ưu tiên cho mục tiêu kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh
xã hội, Chính phủ đã chủ trương chưa điều chỉnh tăng giá điện, xăng dầu, than,
nước sinh hoạt, cước vận chuyển máy bay, tàu hoả, xe buýt đến hết tháng 6 năm
2008 và sẽ căn cứ vào tình hình lạm phát và biến động trên thị trường để
có phương án xử lý tổng thể, thích hợp cả về thời gian và mức
độ đối với từng loại, từng nhóm sản phẩm, với phương châm Nhà nước, doanh nghiệp
và người tiêu dùng cùng chia sẻ lợi ích, cùng gánh vác trách nhiệm, Nhà nước sẽ
hỗ trợ thích hợp cho những đối tượng có nhiều khó khăn. Chính phủ không chủ
trương tăng giá đồng loạt các mặt hàng nói trên sau tháng 6.
Trong khi kiên trì
chủ trương thực hiện cơ chế giá thị trường, việc điều hành giá sẽ theo định
hướng sau đây:
- Đối với các mặt
hàng do Nhà nước trực tiếp quản lý giá, việc điều chỉnh giá phải căn cứ vào kết
quả chống lạm phát, tác động của việc điều chỉnh giá đến giá cả thị trường và
đời sống nhân dân. Trường hợp cần điều chỉnh, phải xác định bước đi và lộ trình
phù hợp.
Riêng đối với mặt
hàng xăng dầu, do giá đang tăng cao và biến động rất phức tạp, với giá bán hiện
tại mức bù lỗ là rất lớn (12). Trong tình hình lạm phát hiện nay, việc xử lý
giá xăng dầu cần được cân nhắc cẩn trọng dựa trên khả năng bù lỗ của ngân sách;
kết quả kiềm chế lạm phát và tác động của điều chỉnh giá xăng dầu đến giá các
mặt hàng khác, có tính đến việc hỗ trợ thích hợp cho những đối tượng gặp khó
khăn. Trước hết, các doanh nghiệp nhập khẩu xăng dầu phải bảo đảm đủ nguồn
hàng, triệt để tiết kiệm chi phí, kiên trì phương châm lấy lúc lãi bù lúc lỗ,
không chạy theo sự thay đổi nhất thời của thị trường. Áp dụng các biện pháp
mạnh để chống đầu cơ và buôn lậu xăng dầu qua biên giới.
- Về điều hành giá
lương thực, như đã trình bày ở trên, ở nước ta, lương thực thực phẩm là nhóm
hàng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu hàng hoá tính chỉ số giá tiêu dùng, lại
chịu tác động mạnh, trực tiếp từ giá lương thực của thị trường thế giới. Trong
bối cảnh hiện nay, kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu, việc điều
hành giá lương thực càng trở nên rất quan trọng.
Chúng ta đã thực
hiện cơ chế giá thị trường đối với mặt hàng lương thực từ rất sớm. Đây là một
bước tiến lớn của công cuộc đổi mới. Việc điều tiết giá lương thực chủ yếu tác
động vào quan hệ cung cầu thông qua việc đẩy mạnh sản xuất tăng nguồn hàng,
điều tiết hoạt động xuất khẩu, tổ chức cung ứng lương thực trong nước.
Năm nay, tổng sản
lượng lúa dự kiến đạt 36,3 đến 36,5 triệu tấn, bảo đảm cân đối đủ cho tiêu dùng
trong nước và còn lại một khối lượng lúa hàng hoá khoảng từ 8,3 đến 8,5 triệu
tấn, tương đương 4,1 đến 4,2 triệu tấn gạo để xuất khẩu.
Chính phủ chủ
trương việc điều hành xuất khẩu gạo trước hết phải bảo đảm an ninh lương thực
quốc gia trong mọi tình huống, giữ giá gạo trong nước ở mức hợp lý, tiêu thụ
hết lúa hàng hoá với giá có lợi cho người trồng lúa và xuất khẩu gạo với số
lượng và tiến độ thích hợp.
Trong 19 năm qua
kể từ năm 1989, nước ta đã xuất khẩu gần 60 triệu tấn gạo, bình quân mỗi năm
trên 3 triệu tấn. Trong 10 năm gần đây lượng gạo xuất khẩu hàng năm đã tăng
lên, đạt trên 4 triệu tấn/năm, riêng năm 2007 xuất khẩu trên 4,5 triệu tấn. Từ
đầu năm nay, trước những diễn biến phức tạp của thiên tai, dịch bệnh trong
nước, Chính phủ đã quy định lượng gạo xuất khẩu cả năm 2008 ở mức 3,5 đến 4
triệu tấn với tiến độ ký kết và giao hàng thích hợp. Đồng thời, giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ
Công Thương căn cứ tình hình thực tế mùa màng đề xuất điều chỉnh số lượng và
tiến độ xuất khẩu trong những tháng cuối năm. 4 tháng đầu năm nay, sau
khi cân đối đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước, sản lượng lúa hàng hoá còn lại
khoảng 5 triệu tấn (tương đương với 2,5 triệu tấn gạo) (13). 5 tháng đầu
năm chúng ta vẫn duy trì tiến độ xuất khẩu phù hợp, lượng gạo xuất khẩu đạt
trên 2,1 triệu tấn, kim ngạch đạt 1,17 tỷ USD, tăng 12,9% về lượng và 94% về
giá trị so với cùng kỳ năm trước.
Ở nước ta trên 90%
sản lượng lúa hàng hoá được sản xuất ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhiều năm trước
đây, khi giá lúa còn ở mức thấp, Chính phủ định hướng điều hành giá mua lúa,
bảo đảm người trồng lúa sau khi trừ chi phí còn lãi khoảng 40%. Định hướng này
đã được chấp nhận rộng rãi. Những năm gần đây, mặc dù chi phí sản xuất và giá
cả nhiều hàng hoá và dịch vụ tăng cao, nhưng tỷ lệ lãi của người trồng lúa vẫn
được nâng lên và cần được tiếp tục duy trì ở mức thoả đáng. Vụ Đông Xuân năm
nay, các chi phí đầu vào tăng mạnh nhưng giá bán lúa tăng cao hơn nên tỷ lệ lãi
sau khi trừ chi phí đạt trên 85% (14), tăng đáng kể so với vụ Đông Xuân năm
ngoái (70%).
Mặc dù vậy, nhìn
chung, đời sống của nông dân vẫn còn nhiều khó khăn và nông dân vẫn là đối
tượng được hưởng lợi ít hơn so với nhiều đối tượng khác trong quá trình phát
triển. Tuy nhiên, việc nâng cao đời sống nông dân không thể chỉ dựa vào việc
tăng giá hàng nông sản, nhất là tăng giá lúa. Chính phủ đang chỉ đạo chuẩn bị
tốt Đề án nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó sẽ đề xuất và chỉ đạo thực
hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao hơn nữa đời sống cho nông dân trong
những năm tới.
Cùng với điều hành
xuất khẩu gạo, tổ chức tốt việc cung ứng gạo trong nước là một yếu tố quan
trọng để bảo đảm an ninh lương thực và kiềm chế lạm phát. Việc để xảy ra thiếu gạo, sốt giá cục bộ trong mấy
ngày cuối tháng 4 vừa qua ở một số địa phương là hoàn toàn không đáng có, trong
lúc gạo hàng hoá còn lớn, mùa màng đang thu hoạch với năng suất và sản lượng
cao. Nguyên nhân chủ yếu là do đầu cơ, các cơ quan chức năng trên địa
bàn đã không theo sát tình hình để phát hiện sớm và có biện pháp xử lý kịp
thời.
Một trong những
biện pháp quan trọng để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia bền vững là phải
tăng cường hơn nữa công tác quản lý sử dụng đất nông nghiệp, nhất là đất trồng
lúa. Chính phủ đang tích cực chỉ đạo triển khai thực hiện các Nghị quyết của
Quốc hội khoá XI về quy hoạch tổng thể và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2006 -
2010) của cả nước, thực hiện mục tiêu đến năm 2010 giữ diện tích đất trồng lúa
là 3,86 triệu ha, trong đó đất lúa 2 vụ trở lên là 3,3 triệu ha. Chỉ đạo khẩn
trương rà soát, kiểm tra việc thực hiện để có sự điều chỉnh và hạn chế nghiêm
ngặt việc chuyển đất trồng lúa sang sử dụng vào mục đích khác. Cùng với việc
tăng cường quản lý đất trồng lúa theo các quy định của pháp luật, Chính phủ sẽ
nghiên cứu ban hành cơ chế chính sách phù hợp, bảo đảm lợi ích kinh tế thoả
đáng cho người trồng lúa.
- Để bình ổn giá cả, quan trọng nhất là phải đẩy mạnh sản xuất nhằm tăng
nguồn cung cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, bảo đảm cân đối cung cầu
trong phạm vi toàn quốc cũng như trên từng địa bàn, không để xẩy ra mất cân đối
cục bộ. Chính phủ giao trách nhiệm cho các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, các
hiệp hội ngành hàng đề cao vai trò và trách nhiệm của mình trong việc tổ chức hệ
thống phân phối, tăng cường kiểm tra hoạt động của mạng lưới bán lẻ và đại lý bán
lẻ của mình, thực hiện bán đúng giá theo hợp đồng cung ứng, tiêu thụ hoặc hợp
đồng đại lý.
6.
Thực hiện tốt công tác thông tin thị trường, chủ động ngăn chặn đầu cơ nâng giá
Thông tin có tác
động rất nhanh, rất mạnh đến thị trường giá cả. Thông tin không chính xác sẽ
gây nên những bất ổn trên thị trường, làm thiệt hại cho người dân, và trong
tình hình hiện nay sẽ tạo thêm những khó khăn cho việc kiềm chế lạm phát, như
trường hợp sốt giá gạo cuối tháng tư vừa qua. Tình trạng này có nguyên nhân từ
công tác tổ chức thông tin. Chính phủ đã có quy định về cung cấp thông tin,
nhưng việc thực hiện thời gian qua chưa tốt. Để chấn chỉnh tình hình này, Chính
phủ yêu cầu:
Các cơ quan quản
lý nhà nước phải chủ động cung cấp thông tin chính thức cho nhân dân và các
phương tiện thông tin đại chúng về tình hình kinh tế - xã hội, về quan hệ cung
cầu, về thị trường, giá cả để nhân dân, doanh nghiệp hiểu rõ tình hình, chủ
động ứng xử thích hợp.
Phải thiết lập hệ thống thông tin báo cáo thông
suốt từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới, phối
hợp chặt chẽ để khi xuất hiện những thông tin không chính xác trong dư
luận phải kịp thời xử lý, điều chỉnh, định hướng đúng nhằm ngăn chặn những tác động bất lợi tới sự ổn định của thị trường, giá
cả.
Các cơ quan thông
tin đại chúng phải đưa tin chính xác và chịu trách nhiệm về các thông tin được
đăng tải; không đưa những thông tin làm ảnh hưởng xấu đến thị trường giá cả,
bất lợi cho việc kiềm chế lạm phát, gây thiệt hại cho người dân; đồng thời,
phải có trách nhiệm tham gia tuyên truyền về chính sách và hoạt động điều hành
thị trường của Chính phủ.
Chính phủ khuyến
nghị nhân dân tin tưởng vào thông tin chính thức của các cơ quan nhà nước, hết
sức thận trọng trước những thông tin không rõ nguồn gốc. Chính phủ giao các cơ
quan chức năng và chính quyền địa phương thực hiện kiểm tra và xử lý nghiêm
việc đưa những thông tin sai lệch gây mất ổn định thị trường và những trường
hợp tung tin sai lạc để trục lợi.
Tăng cường công
tác quản lý thị trường, áp dụng các biện pháp mạnh nhằm ngăn chặn và xử lý
nghiêm các trường hợp buôn lậu, nhất là buôn lậu xăng dầu, than, khoáng sản qua
biên giới.
7.
Bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội
Bảo đảm an sinh xã
hội vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu của phát triển bền vững. Trong nhiều năm
qua, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế, Đảng và Nhà nước ta luôn quan
tâm xây dựng và thực hiện các chính sách về an sinh xã hội, trong đó đặc biệt
chăm lo đến việc làm, thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, xoá đói giảm
nghèo, trợ giúp gia đình chính sách, người có công, người gặp khó khăn.
Đến nay chúng ta
đã xây dựng được một hệ thống chính sách an sinh xã hội với nhiều chương trình,
dự án, giải pháp và đã mang lại kết quả rất tích cực, nhất là về xoá đói giảm
nghèo, được nhân dân đồng tình và quốc tế đánh giá cao. Gần đây trước tình hình
thiên tai dịch bệnh xảy ra nhiều, lạm phát tăng cao, Chính phủ đã ban hành thêm
một số chính sách nhằm trợ giúp cấp bách người nghèo và các đối tượng khó khăn.
Để bảo đảm an sinh
xã hội trong thời gian tới, nhiệm vụ trọng tâm là phải tập trung thực hiện tốt các chính sách đã ban hành, trước hết là ưu tiên bố trí đủ nguồn vốn, xây dựng cơ
chế thực thi và kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện, bảo đảm nguồn hỗ trợ của Nhà
nước đến đúng đối tượng, không để thất thoát, lãng phí. Báo cáo mới đây của các
đoàn kiểm tra do Bộ Tài chính chủ trì về tình hình sử dụng kinh phí và lương
thực hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai năm 2007 tại 8 tỉnh trọng điểm cho
thấy, nhìn chung các địa phương tập trung chỉ đạo thực hiện chặt chẽ, chưa phát
hiện thất thoát tiêu cực. Tuy nhiên công tác cứu trợ triển khai còn chậm, việc
nắm tình hình, báo cáo thiệt hại có nơi chưa sát thực, việc tổ chức hỗ trợ ở
một số nơi chưa đúng đối tượng.
Cùng với việc thực
hiện tốt chính sách đã ban hành, phải kịp thời sửa đổi bổ sung cho phù hợp với
tình hình thực tế. Đồng thời tiếp tục nghiên cứu ban hành mới nhằm hoàn thiện
các cơ chế chính sách về an sinh xã hội. Trong kỳ họp này, các vị đại biểu Quốc hội đồng tình với các biện pháp bảo đảm an sinh xã
hội nêu trong báo cáo của Chính phủ và góp nhiều ý kiến thiết thực nhằm giải
quyết tốt hơn nữa về an sinh xã hội (15). Các đề nghị cụ thể này, Chính phủ xin
tiếp thu để có xử lý cụ thể và tiếp tục hoàn thiện một cách cơ bản, bao quát
được hết và giải quyết tốt hơn những vấn đề đặt ra về an sinh xã hội.
Về sửa đổi chuẩn
nghèo, từ năm 1993 - 2006, chúng ta đã 5 lần điều chỉnh cho phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội của đất nước và từng bước tiếp cận với chuẩn nghèo quốc
tế. Sau mỗi lần điều chỉnh, số hộ được hưởng
chính sách trợ giúp tăng thêm. Chúng ta đang áp dụng chuẩn nghèo ban hành từ
năm 2005 (16). Trước tình hình thiên tai dịch bệnh và giá cả tăng cao,
nhiều đại biểu quan tâm đến việc điều chỉnh chuẩn nghèo, Chính phủ cũng đã nhận
thấy đây là việc làm cần thiết và đã chỉ đạo triển khai việc điều chỉnh như đã
báo cáo trước Quốc hội tại phiên khai mạc. Hiện nay Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội đã trình các phương án điều chỉnh chuẩn nghèo, có tính đến mức tăng
thu nhập bình quân của cả nước và tình hình lạm phát hiện nay. Việc điều chỉnh
chuẩn nghèo chỉ có ý nghĩa nếu trên cơ sở chuẩn mới, các địa phương tiến hành
điều tra nghiêm túc, chính xác tỷ lệ hộ nghèo, đề ra và thực hiện các chương
trình hành động giảm nghèo có hiệu quả, bảo đảm giảm nghèo bền vững.
Về tiền lương
và đời sống: tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà mỗi cá nhân, mỗi
nhóm dân cư có thể có những cảm nhận khác nhau về tác động của các đợt tăng
lương đến đời sống trong tình hình lạm phát hiện nay. Theo số liệu tính toán,
từ năm 2003 đến nay, qua 5 lần điều chỉnh, mức lương trung bình của công chức,
viên chức đã tăng lên 2,38 lần trong khi giá tiêu dùng tăng 70,22% (17); các
chính sách trợ cấp xã hội khác cũng được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, những tháng
cuối năm 2007 và đầu năm 2008, do giá tiêu dùng, nhất là giá lương thực, thực phẩm
tăng, thực hiện kết luận của Bộ Chính trị (18), Chính phủ đang chỉ đạo chuẩn bị
các điều kiện cần thiết để điều chỉnh tăng lương theo lộ trình thích hợp cho
cán bộ, nhân viên khu vực hành chính sự nghiệp, cán bộ, chiến sĩ các lực lượng
vũ trang, người lao động làm việc trong các doanh nghiệp và mở rộng trợ cấp cho
các đối tượng chính sách nhằm khắc phục tác động tiêu cực của lạm phát.
8.
Về tăng cường tổ chức thực hiện và trách nhiệm của các thành viên Chính phủ
Báo cáo của Chính
phủ về phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã
hội và tăng trưởng bền vững đã nhận được sự chia sẻ và đồng tình của Quốc hội.
Nhưng tổ chức thực hiện như thế nào là vấn đề được nhiều vị đại biểu Quốc hội,
đồng chí, đồng bào quan tâm, thậm chí không ít ý kiến băn khoăn lo lắng. Đây
cũng là mối quan tâm, lo lắng của Chính phủ và mỗi thành viên Chính phủ. Trong
thực tế điều hành kinh tế - xã hội, không ít trường hợp có khoảng cách giữa nói
và làm, giữa chủ trương chính sách với việc thực hiện chủ trương chính sách đó
trong thực tiễn. Nếu không đủ quyết tâm, chỉ đạo không quyết liệt, hành động
không khẩn trương và đồng bộ, không thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ,
kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện thì dù mục
tiêu có đúng, giải pháp có tốt cũng không đạt được kết quả như mong muốn. Hơn
nữa, trong nhóm giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, có những
giải pháp có thể gây tác động trái chiều, rất dễ phát sinh lúng túng trong tổ
chức thực hiện. Phương hướng tuy đúng nhưng liều lượng các giải pháp không hợp
lý, có thể làm xuất hiện các khó khăn mới. Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu
chống lạm phát, đòi hỏi sự nỗ lực rất cao của cả hệ thống chính trị và sự ủng
hộ của toàn dân. Với trách nhiệm của mình, Chính phủ đang tập trung chỉ đạo
khẩn trương triển khai đồng bộ các giải pháp, trên một số mặt công việc đã có
kết quả bước đầu. Chính phủ sẽ rất coi trọng công tác kiểm tra, nắm chắc tình
hình, kịp thời xử lý những vấn đề mới nẩy sinh nhằm thực hiện có kết quả các
nhiệm vụ mà Quốc hội thông qua tại kỳ họp này, tạo ra sự chuyển biến tích cực
trên từng công việc cụ thể, qua từng thời gian.
Giá cả thị trường
và kinh tế thế giới còn biến động rất khó lường, những yếu tố tác động xấu đến
kinh tế trong nước còn nhiều. Trong khi kiên trì thực hiện các nhóm giải pháp
nhằm thực hiện mục tiêu ưu tiên là kiềm chế lạm phát, Chính phủ đã tính đến các
tình huống khác nhau và đang giám sát chặt chẽ các cân đối vĩ mô quan trọng
nhất, nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời các tình huống phức tạp có thể xẩy ra.
Thưa các vị đại
biểu Quốc hội,
Giá cả tăng cao
làm cho đời sống của đại bộ phận dân số nước ta vốn đang thấp lại khó khăn
thêm, nhất là những người nghèo, người lao động có thu nhập thấp. Mỗi gia đình,
mỗi người đang phải giảm bớt chi tiêu, vất vả lo toan cho cuộc sống hàng ngày.
Chính phủ thấu hiểu, chia sẻ với đồng bào và càng thấy rõ hơn trách nhiệm của
mình, càng phải ra sức phấn đấu quyết liệt để kiềm chế lạm phát.
Những biến động
vừa qua giúp Chính phủ nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn tính phức tạp trong
quản lý một nền kinh tế đang chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan
liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện
toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; càng thấy rõ hơn những bất cập, yếu
kém của mình; mỗi thành viên Chính phủ cũng có thêm những bài học mới, kinh
nghiệm mới.
Chính phủ nhận
thức rằng: thái độ nhận khuyết điểm tích cực và có trách nhiệm nhất là nhìn
thẳng vào sự thật, nhìn thẳng vào những bất cập, yếu kém của mình với tinh thần
thực sự cầu thị, kiên quyết khắc phục khuyết điểm, đồng thời phát huy ưu điểm,
khẩn trương hành động với trách nhiệm cao nhất để đem lại những kết quả thiết
thực trong cuộc sống. Việc Quốc hội đồng tình với báo cáo của Chính phủ đã tạo
thêm niềm tin và quyết tâm của Chính phủ trong việc thực hiện các mục tiêu
nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra.
Nhân dân ta, đất
nước ta đã từng đương đầu với những khó khăn thách thức lớn, từng đương đầu với
lạm phát cao trong nhiều năm, nhưng nhờ cả nước đồng tâm hiệp lực, chúng ta đã
vượt lên, đưa đất nước phát triển mạnh mẽ, đạt được những thành tựu to lớn
trong hơn 20 năm qua.
Ngày nay, mặc dù
đang gặp những khó khăn trước mắt, nhưng thế và lực của ta đã mạnh hơn rất
nhiều, tiềm năng tăng trưởng của nước ta còn lớn. Phát huy truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, với sự ủng hộ của đồng
bào cả nước, sự hỗ trợ, giám sát của Quốc hội trên tinh thần cộng đồng trách
nhiệm, Chính phủ tin tưởng rằng chúng ta sẽ thực hiện có kết quả mục tiêu phấn
đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng
trưởng bền vững, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục tạo lập các cơ sở,
tiền đề cho sự phát triển bền vững vào những năm sau.
Xin chúc sức khoẻ
các vị đại biểu Quốc hội, đồng chí, đồng bào.
Xin cảm ơn Quốc
hội.
|
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng
|
(1) Cụ thể là: năm 2004, giá lương
thực, thực phẩm tăng 15,6% trong khi giá tiêu dùng tăng 9,5% so với tháng 12
năm trước; năm 2005, giá lương thực, thực phẩm tăng 10,8% trong khi giá tiêu dùng
tăng 8,4%; năm 2006, giá lương thực, thực phẩm tăng 7,9%, giá tiêu dùng tăng
6,6%. Đặc biệt, năm 2007 và 5 tháng năm 2008, giá lương thực, thực phẩm tăng
mạnh kéo theo giá tiêu dùng các thời kỳ này tăng cao. Năm 2007, giá lương thực,
thực phẩm tăng 18,92%, giá tiêu dùng tăng 12,63%; 5 tháng đầu năm 2008, giá
lương thực tăng 52,88%, giá tiêu dùng tăng 15,96% so với tháng 12 năm 2007.
Như vậy, giá lương thực thực phẩm tăng tác động rất lớn đến chỉ số giá tiêu
dùng.
(2) Theo tính toán trên mặt bằng
giá tháng 5, nếu giá lương thực chỉ tăng ở mức bằng tháng 4 là 6,11% thì chỉ số
tăng giá tháng 5 sẽ là 2,08% và 5 tháng là 13,9%.
(3) Muốn kéo nhanh lạm phát xuống
thấp, cần đưa giá lương thực xuống thấp, việc này có thể làm được bằng đánh
thuế cao xuất khẩu gạo hoặc giảm mạnh lượng xuất khẩu, nhưng như vậy sẽ làm
giảm kim ngạch xuất khẩu, tăng nhập siêu, ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống
nông dân, không khuyến khích người trồng lúa, ảnh hưởng đến an ninh lương thực.
Cũng tương tự như vậy, việc cắt giảm đầu tư là rất cần thiết để giảm lạm phát, nhưng
nếu cắt giảm đầu tư quá mức sẽ gây mất nhiều việc làm, tạo thêm những phức tạp
về an sinh xã hội; thắt chặt tiền tệ thái quá có thể ảnh hưởng đến tính thanh
khoản của nền kinh tế và hoạt động của các ngân hàng, dễ dẫn đến những rối loạn
không đáng có.
(4) Tại kỳ họp thứ
2, Chính phủ đã trình Quốc hội phương án phát hành vốn trái phiếu Chính phủ trong
kế hoạch năm 2008 là 37.000 tỷ đồng.
(5) Hệ số ICOR (tiếng
Anh là Incremental Capital Output Ratio) là hệ số gia tăng của vốn đầu tư toàn
xã hội so với tăng trưởng kinh tế. ICOR = Vốn đầu tư trong kỳ/GDP tăng thêm. Hệ
số ICOR phản ánh, để có một đồng tăng trưởng kinh tế thì cần bao nhiêu
vốn đầu tư hoặc để tăng thêm một đơn vị GDP đòi hỏi phải tăng thêm bao nhiêu
đơn vị vốn đầu tư; trên cơ sở đó, có thể dự kiến được nhu cầu vốn đầu tư của xã
hội cần phải huy động để có thể đạt một tốc độ tăng trưởng kinh tế nhất định.
(6) Hệ số ICOR của
Hàn Quốc giai đoạn 1961 - 1980 là 3,0; Đài Loan (1961 - 1980): 2,7; Indonesia
(1981 - 1995): 3,7; Thái Lan (1981 - 1995): 4,1; Malaysia (1981 - 1995): 4,6; Trung
Quốc (2001 - 2006): 4,0. Thời kỳ 2004 - 2007, hệ số ICOR của Indonesia: 4,2 -
4,5; Thái Lan: 3,9 - 5,5; Malaysia: 3,5 - 4,7.
(7) Không kể 4 ngân
hàng thương mại nhà nước, 1 tập đoàn và 4 tổng công ty đã hoàn thành cổ phần
hóa; tổng công ty kinh doanh vốn nhà nước hoạt động theo cơ chế riêng và một số
tổng công ty chưa có báo cáo tài chính.
(8) Có 5 tổng công
ty thua lỗ là: Tổng công ty Dâu tằm tơ, Tổng công ty Muối, Tổng công ty miền Trung,
Tổng công ty Sông Hồng, Tổng công ty Đường thuỷ.
(9) Nghị quyết Đại
hội X của Đảng.
(10) Nghị quyết Hội
nghị Trung ương ba, Khóa IX của Đảng.
(11) Nhất là sắt thép
(tăng 106% và bằng lượng nhập cả năm 2007), ô tô dưới 12 chỗ ngồi tăng 12 lần;
linh kiện, phụ tùng ô tô, xe gắn máy tăng từ 2 - 4 lần, nhập khẩu vàng tăng gấp
8 lần so với cùng kỳ.
(12) Nếu lấy bình quân
giá dầu thô thế giới nửa tháng gần đây (128 USD/thùng) và giữ ổn định giá bán
trong nước như hiện nay thì mức lỗ cả năm ước là 40.600 tỷ đồng, nếu lấy giá
bình quân 5 ngày gần đây, từ 23 - 27 tháng 5 là 132 USD/thùng thì mức lỗ cả năm
ước khoảng 44.800 tỷ đồng.
(13) Sản lượng lúa
đưa vào cân đối nguồn cung (cho 2 tháng cuối năm 2007 và 4 tháng đầu năm 2008) là
19,8 triệu tấn, sau khi trừ tiêu dùng trong nước 6 tháng khoảng 14,8 triệu tấn.
(14) So với vụ Đông
Xuân năm trước, ở vùng đồng bằng sông Cửu Long chi phí thuốc sâu tăng 49,2%,
chi phí bơm tưới tăng 66,3%, phân bón tuỳ theo từng loại tăng từ 41,7 - 360%,
giá công lao động tăng 31,4%. Mỗi kg thóc ở đồng bằng sông Cửu Long nông dân
lãi khoảng 2.000 - 2.500 đồng.
(15) như: đề nghị kéo
dài thời gian việc thực hiện Chương trình 134 đến năm 2010; chống tái nghèo,
xây dựng chuẩn nghèo mới; sắp xếp ổn định dân cư, trong đó có dân di cư tự do;
hỗ trợ đất sản xuất cho đồng bào Khơ-me; tăng mức hỗ trợ khắc phục hậu quả
thiên tai, dịch bệnh trong đó tăng nguồn hỗ trợ từ ngân sách trung ương; vấn đề
học sinh bỏ học khi chuyển từ trường bán công sang tư thục; chế độ đối với cán
bộ cơ sở, trong đó có vấn đề biên chế bác sĩ cấp xã; tạo việc làm mới phải đi
liền với giải quyết thất nghiệp; hỗ trợ sản xuất đời sống của đồng bào địa
phương từ nguồn cổ phần hoá công trình thuỷ điện trên địa bàn; chú trọng đào
tạo con em đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là bậc mầm non; quan tâm đến cuộc
sống công nhân lao động trong các khu công nghiệp tập trung; hỗ trợ doanh nghiệp
trong việc đào tạo và đào tạo lại công nhân; cơ chế đặc thù xoá nghèo cho 58
huyện nghèo nhất nước.
(16) Chuẩn nghèo ban
hành năm 2005 được áp dụng
cho giai đoạn 2006 - 2010. Theo chuẩn này thì hộ nghèo là
những hộ có thu nhập bình quân dưới 200 nghìn đồng/người/tháng đối với khu vực
nông thôn và dưới 260 nghìn đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị.
(17) Năm 2003 giá tiêu
dùng tăng 3%; trong đó giá lương thực, thực phẩm tăng 2,8%. Các năm khác lần lượt: 2004 là 9,5% và 15,6%; 2005 là 8,4% và 10,8%; 2006
là 6,6% và 7,9%; năm 2007 là 12,63% và 18,92%; 5 tháng đầu năm 2008 là 15,96%
và 26,56%.
(18) Kết luận số 22-KL/TW
của Bộ Chính trị ngày 04 tháng 4 năm 2008 về một số vấn đề về kinh tế - xã hội
quý I năm 2008 cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, có ghi “Điều chỉnh lộ trình
tăng lương sớm hơn theo đề án để giảm bớt khó khăn cho cán bộ, công nhân viên
khu vực hành chính sự nghiệp, chiến sĩ các lực lượng vũ trang và công nhân sản
xuất trong các doanh nghiệp”.