CHÍNH
PHỦ
---------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
----------
|
Số:
85/BC-CP
|
Hà
Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2009
|
CHỦ ĐỘNG NGĂN CHẶN SUY GIẢM KINH TẾ, ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ,
DUY TRÌ TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ HỢP LÝ, BỀN VỮNG, BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI
(Báo
cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XII do Phó Thủ tướng thường
trực Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng trình bày)
Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các đồng chí lão thành cách
mạng và các vị khách,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa đồng bào, đồng chí và các bạn,
Để chuẩn bị cho Kỳ họp này của
Quốc hội, Chính phủ đã gửi đến các vị đại biểu Quốc hội các báo cáo bổ sung về
tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước
năm 2008, việc triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch và
ngân sách nhà nước năm 2009 cùng với một số báo cáo chuyên đề khác. Trong báo
cáo này, thay mặt Thủ tướng Chính phủ, tôi xin trình bày một số vấn đề quan trọng
nổi lên qua việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2008, 5
tháng đầu năm 2009 và những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm chủ động ngăn chặn
suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp
lý, bền vững, bảo đảm an sinh xã hội.
I. VỀ TÌNH
HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM
2008
Tại Kỳ họp thứ 4 của Quốc hội,
tháng 10 năm 2008, Chính phủ đã báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2008 với
những số liệu ước tính, dựa trên kết quả thực hiện 9 tháng đầu năm và dự báo
các tháng cuối năm; trên cơ sở đó, đã đánh giá chung 3 năm đầu thực hiện kế hoạch
5 năm 2006 - 2010, nhận định các mặt mạnh, mặt yếu của tình hình kinh tế - xã hội,
phân tích các ưu điểm, khuyết điểm và rút ra bài học về sự chỉ đạo, điều hành.
Đến nay, qua số liệu cập nhật đến hết tháng 12, Chính phủ xin báo cáo Quốc hội
bổ sung về tình hình và kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2008.
Trong những tháng cuối năm 2008,
cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu nặng nề hơn và đã tác
động trực tiếp gây ra suy giảm kinh tế và ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống
kinh tế - xã hội nước ta. Sản xuất, kinh doanh, dịch vụ giảm sút; tiêu thụ sản
phẩm chậm, hàng hoá ứ đọng, kể cả các vật tư quan trọng, lương thực và nhiều
nông sản xuất khẩu có khối lượng lớn; việc làm, thu nhập và đời sống của người
lao động cũng bị giảm sút. Trước tình hình đó, Chính phủ đã chỉ đạo các cấp,
các ngành tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc các Kết luận của Bộ Chính
trị, các Nghị quyết của Quốc hội và của Chính phủ. Bên cạnh mục tiêu tiếp tục
kiềm chế lạm phát, Chính phủ đã chủ động áp dụng các giải pháp ngăn chặn suy giảm
kinh tế, duy trì mức tăng trưởng hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội.
Theo số liệu thực tế, trong số
25 chỉ tiêu chủ yếu của Kế hoạch năm 2008 có 3 chỉ tiêu đạt thấp hơn mức đã báo
cáo Quốc hội tại Kỳ họp trước, đó là: tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
(GDP), tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu và độ che phủ rừng; có 6 chỉ tiêu đạt tốt
hơn so với mức đã báo cáo Quốc hội, đó là: tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội,
tổng thu ngân sách nhà nước, chỉ số giá tiêu dùng, số địa phương đạt chuẩn
chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tuyển mới cao đẳng nghề và trung
cấp nghề, tỷ lệ hộ nghèo.
Kết quả thực hiện cả năm 2008
cũng cho thấy chúng ta đã đạt được 3 mục tiêu cơ bản của kế hoạch năm 2008, đó
là:
(1) Kiềm chế được lạm phát và giữ
vững ổn định kinh tế vĩ mô
Thu cân đối ngân sách nhà nước cả
năm 2008 vượt 29% dự toán, trong đó, thu nội địa vượt 21,4%, thu từ dầu thô vượt
35,4% và thu thuế xuất nhập khẩu vượt 41%. Tổng số chi ngân sách nhà nước vượt
24% dự toán. Các nhu cầu chi về đầu tư phát triển, chi về các sự nghiệp kinh tế
- xã hội, quốc phòng an ninh, quản lý hành chính nhà nước (kể cả việc tăng
lương theo lộ trình) và chi trả nợ được bảo đảm. Bội chi ngân sách nhà nước bằng
4,95 % GDP và giảm 700 tỷ đồng so với dự toán. Dư nợ Chính phủ và dư nợ nước
ngoài của quốc gia vẫn trong giới hạn cho phép.
Hoạt động tiền tệ, tín dụng đã
được điều hành chủ động hơn, đồng bộ, linh hoạt và theo sát với diễn biến của
tình hình thực tế. Tốc độ tăng trưởng tiền tệ, tín dụng được kiềm chế, chỉ bằng
½ tốc độ tăng của năm trước. Cán cân xuất - nhập khẩu được cải thiện, dự trữ
ngoại hối được bảo đảm. Cán cân thanh toán tổng thể thặng dư 191 triệu USD. Giá
tiêu dùng những tháng cuối năm 2008 giảm thấp so với các tháng trước, đưa chỉ số
tăng giá tiêu dùng tháng 12 năm 2008 so với tháng 12 năm 2007 xuống 19,89%, thấp
hơn so với số đã báo cáo Quốc hội (24%). Cũng đồng thời trong năm, giá xăng dầu
đã được chuyển hẳn sang điều hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý, giám
sát của Nhà nước.
(2) Tiếp tục duy trì được tốc độ
tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trong nước năm
2008 tăng 6,2%, thấp hơn so với mức đã báo cáo Quốc hội là 6,5 - 7% và thấp hơn
kế hoạch đầu năm là 7%. Trong bối cảnh hầu hết các nền kinh tế trên thế giới bị
suy giảm mạnh, thậm chí tăng trưởng âm, thì tốc độ tăng trưởng GDP của nước ta
đạt được như vậy là một cố gắng lớn, giữ được niềm tin của cộng đồng các nhà đầu
tư quốc tế và trong nước; đồng thời, đã tạo cho chúng ta thế và lực mới để vượt
qua suy thoái kinh tế trong năm 2009.
Giá trị sản xuất công nghiệp
liên tục giảm trong những tháng cuối năm do thị trường bị thu hẹp, nhưng cả năm
2008 vẫn đạt được mức tăng 13,9% (năm 2007 là 17,1%). Giá trị sản xuất ngành
nông, lâm, ngư nghiệp và thủy sản năm 2008 tăng 6% so với năm 2007, trong đó:
nông nghiệp tăng 6%, lâm nghiệp tăng 2,3% và thủy sản tăng 6,7%. Tổng sản lượng
thóc cả nước đạt 38,7 triệu tấn, tăng 2,83 triệu tấn so với năm 2007. Ngành
chăn nuôi có dấu hiệu hồi phục, sản lượng thịt hơi các loại đạt 3,8 triệu tấn,
tăng 15,82%. Tổng sản lượng khai thác thuỷ sản cả năm là 2,13 triệu tấn, tăng
2,9%. Sản lượng thủy sản cả năm đạt 4,6 triệu tấn, tăng gần 10%.
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán
lẻ tăng 31% so với năm 2007 (năm 2007 tăng 23,3% so với năm 2006). Khách du lịch
quốc tế đến Việt Nam cả năm đạt 4,23 triệu lượt người, tăng 0,16%. Dịch vụ vận
tải tiếp tục phát triển; dịch vụ bưu chính, viễn thông vẫn giữ được đà tăng trưởng
nhanh. Hạ tầng thông tin phát triển. Lần đầu tiên phóng thành công vệ tinh
(VINASAT) lên quỹ đạo. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 62,7 tỷ USD, tăng 29,1% so
với năm 2007.
Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so
với GDP đạt 41,3%, cao hơn số đã báo cáo Quốc hội (39%). Vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài tiếp tục tăng, tổng mức vốn giải ngân đạt 11,5 tỷ USD; tổng số vốn
đăng ký đạt 64 tỷ USD, tăng 229,8% so với năm 2007. Giải ngân vốn hỗ trợ phát
triển chính thức (ODA) cả năm 2008 đạt 2,2 tỷ USD, tăng 10%; mặc dù trong bối cảnh
suy giảm kinh tế thế giới nhưng nguồn vốn ODA cam kết trong năm 2009 gần 6 tỷ
USD, đạt mức cao nhất từ trước tới nay.
(3) An sinh xã hội được bảo đảm
Trong năm 2008, đặc biệt là những
tháng cuối năm, an sinh xã hội được đặc biệt quan tâm. Tỷ lệ hộ nghèo còn 12,1
- 12,5%. Giải quyết việc làm cho trên 1,6 triệu lượt người, bằng 95% kế hoạch cả
năm; xuất khẩu lao động đạt 87.000 người, vượt 2.000 người so với kế hoạch; tuyển
mới cao đẳng nghề và trung cấp nghề tăng nhanh (43%) chủ yếu do đẩy mạnh chính
sách cho vay ưu đãi đối với sinh viên, học sinh học nghề[1]. Tính chung cả năm 2008, ngân sách nhà nước đã chi trên 52
nghìn tỷ đồng cho các biện pháp an sinh xã hội, tương đương 13% tổng chi ngân
sách nhà nước. Dư nợ tín dụng ưu đãi của Ngân hàng Chính sách Xã hội cho các hộ
nghèo và các đối tượng chính sách vay đạt 53 nghìn tỷ đồng, tăng 50% so với năm
2007.
Đồng thời, kết thúc năm 2008, nền
kinh tế nước ta cũng đứng trước những khó khăn, tồn tại và thách thức lớn. Thị
trường trong nước và ngoài nước tiếp tục khó khăn, nhiều doanh nghiệp phải thu
hẹp hoặc ngừng hoạt động. Lạm phát cả năm vẫn ở mức cao, nhập siêu lớn, cán cân
thương mại và cán cân vãng lai vẫn thâm hụt. Hoạt động tiền tệ, tín dụng còn
nhiều khó khăn và rủi ro, tỷ lệ nợ xấu ngân hàng còn cao. Thị trường chứng
khoán hoạt động không ổn định, giảm sút nhiều. Thị trường bất động sản trầm lắng.
Hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều yếu kém. Công tác giải quyết việc làm và đời
sống nhân dân ở nhiều nơi còn khó khăn. Số người mất việc làm năm 2008 khoảng
667.000 người, 3.000 lao động từ nước ngoài phải về nước trước thời hạn. Còn
nhiều bức xúc về tình trạng ô nhiễm môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, trật
tự an toàn xã hội chưa được giải quyết tốt.
Nhìn tổng quát, kết quả thực hiện
các chỉ tiêu kế hoạch năm 2008 so với số liệu đã báo cáo Quốc hội tại kỳ họp
trước có một số thay đổi, nhưng về căn bản, chúng ta đã kiềm chế được lạm phát,
giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, chuyển mạnh
sang cơ chế giá thị trường, bảo đảm được an sinh xã hội và giữ vững an ninh, quốc
phòng, có bước chuẩn bị tích cực cho kế hoạch năm 2009. Những kết quả đó thể hiện
sự nỗ lực to lớn của các cấp, các ngành, của doanh nghiệp và của toàn dân. Tuy
nhiên, để khắc phục những mặt tồn tại, yếu kém đang đặt ra những yêu cầu và nhiệm
vụ khó khăn, phức tạp hơn cho công tác chỉ đạo điều hành trong thời gian tới.
II. KẾT QUẢ
TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ NHIỆM VỤ NĂM 2009 TRONG NHỮNG
THÁNG ĐẦU NĂM
Bước vào năm 2009, nền kinh tế
nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn và thách thức. Sự suy thoái ngày càng sâu của
kinh tế thế giới đã tác động tiêu cực đến thị trường hàng hoá xuất khẩu, thị
trường vốn và hoạt động du lịch của nước ta. Ở trong nước, lạm phát cao cùng với
suy giảm sản xuất công nghiệp và xây dựng cuối năm 2008 kéo dài sang những
tháng đầu năm 2009 đã làm trầm trọng thêm những khó khăn, yếu kém vốn có của nền
kinh tế nước ta.
Chính phủ luôn theo sát diễn biến
của tình hình, kịp thời báo cáo xin ý kiến Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng và Ủy ban Thường vụ Quốc hội để ban hành và tổ chức thực hiện các
chính sách và giải pháp đồng bộ nhằm phấn đấu hoàn thành toàn diện kế hoạch năm
2009; đồng thời, tập trung các biện pháp quyết liệt để sớm đưa nền kinh tế
thoát khỏi suy thoái, chăm lo tốt hơn đời sống của nhân dân.
Do chủ động và cơ bản dự báo được
tình hình nên ngay từ cuối năm 2008 và đầu tháng 1 năm nay, Chính phủ đã ban
hành 2 nghị quyết quan trọng về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm
kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội (Nghị quyết số 30)
và về điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân
sách nhà nước năm 2009 (Nghị quyết số 01). Các chỉ tiêu kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước đã được phân giao sớm cùng với nhiều cơ
chế, chính sách, biện pháp cụ thể đã được ban hành.
(1) Để ngăn chặn suy giảm kinh tế,
trong những tháng vừa qua, chúng ta đã triển khai thực hiện nhiều giải pháp nhằm
khơi dậy tối đa mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế, khích thích đầu tư và
tiêu dùng dân cư, phát triển thị trường trong nước, nâng cao sức cạnh tranh của
sản phẩm, của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.
Trong điều kiện kinh tế suy giảm,
đầu tư của khu vực dân doanh gặp khó khăn thì đầu tư của Nhà nước có vai trò dẫn
dắt, kích thích, tạo tiền đề và gây hiệu ứng lan toả cho đầu tư của các thành
phần kinh tế khác. Vì vậy, cần phải tập trung các nguồn vốn lớn từ ngân sách
nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA và vốn tín dụng phát triển để đầu
tư vào các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế nhằm giải toả nhanh các điểm tắc
nghẽn, giảm chi phí trung gian, tạo thuận lợi cho sản xuất và lưu thông hàng
hoá; đồng thời, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình giáo dục, y tế, văn
hoá, xã hội; tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn theo tinh
thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông
nghiệp, nông dân và nông thôn.
Với tinh thần đó, Chính phủ đã
chỉ đạo tạm hoãn thu hồi các khoản vốn đầu tư đã ứng trước của kế hoạch năm
2009 và tiếp tục cho tạm ứng thêm đối với các dự án cấp bách, có khả năng hoàn
thành trong năm 2009 và 2010; cho phép kéo dài thời gian giải ngân số vốn còn lại
của kế hoạch năm 2008 đến hết tháng 6 năm 2009.
Chính phủ đã kịp thời thực hiện
một số biện pháp miễn, giảm, giãn, điều chỉnh thuế suất và kéo dài thời gian nộp
thuế, phí cho một số đối tượng nhất định. Cho các doanh nghiệp gặp khó khăn tạm
thời được vay vốn hỗ trợ lao động mất việc làm, thanh toán tiền lương và bảo hiểm
xã hội.
Để tiếp tục tháo gỡ khó khăn về
vốn cho các doanh nghiệp, sau khi xin ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị và báo
cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, căn cứ quy định tại Điều 38 Luật Ngân hàng nhà
nước, Chính phủ đã triển khai gói kích thích kinh tế 17 nghìn tỷ đồng hỗ trợ 4%
lãi suất vay vốn ngân hàng cho các doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ
và vừa, không phân biệt thành phần kinh tế, vay đầu tư phát triển, duy trì sản
xuất, kinh doanh, giữ và tạo thêm việc làm; cho vay ưu đãi mua nông cụ, thu mua
lương thực, xây dựng hệ thống kho tạm trữ lúa gạo...; đồng thời, mở rộng hình
thức bảo lãnh vay vốn từ các ngân hàng thương mại.
Thường trực Chính phủ đã trực tiếp
làm việc với các tập đoàn và các tổng công ty lớn của Nhà nước, xem xét kế hoạch
kinh doanh của các doanh nghiệp; chỉ đạo các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án
công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, phát triển công nghiệp hỗ trợ,
nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh cao, có giá
trị gia tăng lớn, các dự án thu hút nhiều việc làm để thúc đẩy nhanh chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động; đồng thời, có cơ chế khuyến khích các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư các dự án, công trình có
quy mô lớn, công trình đầu tư hạ tầng quan trọng (cảng biển, điện, đường cao tốc,
thuỷ lợi, trường học, cơ sở y tế...).
Chính sách khuyến khích đầu tư
xây dựng nhà ở cho học sinh, sinh viên, cho công nhân ở các khu công nghiệp tập
trung, khu chế xuất, khu công nghệ cao và nhà ở giá thấp cho các đối tượng thu
nhập thấp cũng đã được triển khai thực hiện. Phấn đấu đến năm 2015 có khoảng
50% công nhân lao động tại các khu công nghiệp có nhu cầu được giải quyết chỗ ở;
60% học sinh, sinh viên có nhu cầu được thuê nhà ở tại các dự án nhà ở trên địa
bàn cả nước.
Nhiều đoàn công tác của các Bộ,
ngành đã về các địa phương kiểm tra, đôn đốc thực hiện các Nghị quyết của Đảng,
Quốc hội và của Chính phủ; cùng các ngành, các cấp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
trong sản xuất, kinh doanh, nhất là các khó khăn về vốn, về thị trường, về đất
đai, về thuế phí và các thủ tục hành chính; đồng thời, giám sát chặt chẽ việc
thực hiện các biện pháp kích cầu.
(2) Công tác bảo đảm an sinh xã
hội được đẩy mạnh nhằm giảm bớt khó khăn về đời sống, tạo việc làm và xoá đói
giảm nghèo bền vững
Cùng với việc tích cực triển
khai thực hiện các chính sách an sinh xã hội đã có, nhiều chính sách mới cũng
đã được ban hành như hỗ trợ kinh phí cho người nghèo ăn Tết, hỗ trợ đối với người
lao động mất việc làm do suy giảm kinh tế, hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở, hỗ trợ lãi
suất mua vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn, triển khai quỹ bảo hiểm thất
nghiệp, ban hành Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các
huyện nghèo, chính sách khuyến nông, khuyến ngư ở địa bàn khó khăn, Đề án đào tạo
nghề cho nông dân và lao động ở nông thôn, chính sách cán bộ cho các huyện
nghèo, điều chỉnh nâng mức lương đối với người hưởng lương hưu, bảo hiểm xã hội,
điều chỉnh tăng mức trợ cấp và phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng,
bộ đội, thanh niên xung phong, điều chỉnh lương tối thiểu chung áp dụng từ ngày
01 tháng 5 năm 2009, ban hành tiêu chí xây dựng nông thôn mới, Chương trình mục
tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu,....
Trong 4 tháng đầu năm, tổng chi
ngân sách nhà nước cho các chính sách an sinh xã hội khoảng 16,7 nghìn tỷ đồng,
tăng 8% so với cùng kỳ năm 2008. Riêng tiền hỗ trợ người nghèo ăn Tết Nguyên
đán Kỷ Sửu trên 1.700 tỷ đồng và trợ cấp khó khăn cho cán bộ có lương thấp trên
600 tỷ đồng. Ngoài ra, còn cấp không thu tiền trên 20 nghìn tấn gạo cứu đói
giáp hạt và hỗ trợ Tết Nguyên đán; ứng trước cho 61 huyện nghèo, mỗi huyện 25 tỷ
đồng để chủ động triển khai thực hiện các chính sách mới bổ sung. Tổng doanh số
cho vay ưu đãi các đối tượng chính sách xã hội trong quý I năm 2009, đạt trên
6,7 nghìn tỷ đồng, gấp hơn 2 lần so cùng kỳ năm trước.
Nhờ có quyết tâm cao của cả hệ
thống chính trị, sự nỗ lực và đồng thuận của toàn dân, nên mặc dù còn rất nhiều
khó khăn, nhưng tình hình kinh tế - xã hội nước ta trong những tháng đầu năm
nay đã chuyển biến theo chiều hướng tích cực.
(1) Sau nhiều tháng liên tục sụt
giảm, đến tháng 02 năm 2009, sản xuất công nghiệp bắt đầu tăng lên, cả quý I
tăng 2,1%, tháng 4 tiếp tục tăng 5,4% và tính chung 4 tháng đầu năm tăng 3,3%
so cùng kỳ năm 2008. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục tăng, dịch
bệnh được kiểm soát, thời tiết thuận lợi cho đánh bắt hải sản, một số thị trường
lớn về xuất khẩu nông sản được khai thông. GDP quý I tăng 3,1% so với cùng kỳ
năm trước và có khả năng tăng dần trong các tháng tiếp theo.
(2) Thị trường trong nước tiếp tục
được mở rộng, tổng mức lưu chuyển hàng hóa tăng 21,5% so với cùng kỳ năm trước.
Dịch vụ vận tải và dịch vụ du lịch, nhất là du lịch nội địa, vẫn tiếp tục phát
triển; lượng khách du lịch quốc tế đang tăng lên trong các tháng gần đây. Dịch
vụ viễn thông tiếp tục đà tăng trưởng cao.
(3) Cùng với các biện pháp kích
thích kinh tế đã được áp dụng, hầu hết doanh nghiệp khó khăn đã phục hồi sản xuất,
thu hút lao động trở lại làm việc. Trong quý I năm 2009 có trên 15 nghìn doanh
nghiệp đăng ký mới, tăng khoảng 22% so với cùng kỳ năm 2008. Tính đến hết tháng
4, cả nước có 21 nghìn doanh nghiệp đăng ký mới với số vốn đăng ký là 104,3
nghìn tỷ đồng. Nhiều người lao động mất việc đã có cơ hội tìm được việc làm mới.
Đầu tư trong nước đạt được kết quả khả quan, giải ngân vốn ngân sách nhà nước đạt
trên 30% kế hoạch cả năm, vốn trái phiếu Chính phủ đạt trên 46% kế hoạch. Đầu
tư nước ngoài tiếp tục tăng, trong 4 tháng đầu năm, tổng vốn đăng ký cấp mới và
tăng thêm đạt 6,4 tỷ USD, trong đó vốn tăng thêm của các dự án đang thực hiện
là 3,9 tỷ USD (tăng 28,6% so cùng kỳ năm 2008). Đây là tín hiệu tốt cho thời kỳ
phục hồi và phát triển sắp tới.
(4) Các cân đối kinh tế vĩ mô cơ
bản vẫn được giữ vững. Lãi suất đã quay về mức của thời kỳ kinh tế ổn định. Đến
giữa tháng 5, số dư tiền gửi huy động tăng 13,6% so với cuối năm 2008 và tổng
dư nợ tín dụng tăng 14,9%, cho vay hỗ trợ lãi suất gần 292 nghìn tỷ đồng. Tổng
thu ngân sách nhà nước 4 tháng đầu năm ước đạt 120,1 nghìn tỷ đồng, bằng
30,8% dự toán cả năm và bằng 82% cùng kỳ năm 2008. Chi ngân sách nhà nước đạt
28,2% kế hoạch cả năm, tăng 3,3% so cùng kỳ. Giá cả thị trường 4 tháng đầu năm
tương đối ổn định; so với tháng 12/2008, giá tiêu dùng tháng 4 tăng 1,68% (cùng
kỳ năm trước tăng 11,67%) và 4 tháng đầu năm tăng 13,14% so cùng kỳ năm 2008.
Thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản có dấu hiệu phục hồi.
(5) Các lĩnh vực văn hoá, xã hội,
khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, bảo
vệ môi trường,... tiếp tục được quan tâm chỉ đạo và có chuyển biến tốt. Ngành
giáo dục đã triển khai phong trào “xây dựng chương trình trường học thân thiện,
học sinh tích cực” cùng nhiều biện pháp khác, đã làm giảm 40% số học sinh bỏ học
so với cùng kỳ năm 2008. Các cơ sở dạy nghề, đại học, cao đẳng tiếp tục triển
khai việc đào tạo theo nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội. Ngành y tế đã có nhiều
cố gắng trong việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phát hiện sớm và có biện pháp
tích cực dập tắt các ổ bệnh dịch; đẩy mạnh công tác dân số và kế hoạch hoá gia
đình. Việc hỗ trợ kịp thời cho người nghèo và tổ chức nhiều hoạt động văn hoá,
vui chơi giải trí phong phú trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Sửu, kỷ niệm ngày giải
phóng miền Nam, chiến thắng Điện Biên Phủ và Quốc tế Lao động vừa qua đã tạo được
niềm phấn khởi trong nhân dân.
(6) Công tác cải cách hành
chính, phòng chống tham nhũng, đối ngoại, quốc phòng, an ninh... được khẩn
trương triển khai thực hiện và đạt được những kết quả tích cực. Chính trị - xã
hội ổn định; tạo được lòng tin của nhân dân và sự đồng thuận trong xã hội. Đã
hoàn thành các văn bản hướng dẫn, tổ chức triển khai nhiều nhiệm vụ cần thiết
nhằm bảo đảm thực hiện hiệu quả việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân
huyện, quận, phường từ ngày 25 tháng 4 năm 2009 theo Nghị quyết của Quốc hội.
Đã hoàn thành tốt cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở trong phạm vi cả nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được,
chúng ta cũng cần thấy hết những khó khăn, hạn chế cần sớm được khắc phục
(1) Sản xuất, kinh doanh trong
nước vẫn gặp nhiều khó khăn, GDP quý I chỉ tăng 3,1%, nhiều chỉ tiêu phát triển
của các ngành sản xuất, kinh doanh tuy đã tăng dần trong tháng 4, tháng 5 nhưng
vẫn đạt thấp hơn mục tiêu kế hoạch và thấp hơn so với cùng kỳ các năm trước.
(2) Suy thoái kinh tế thế giới
tiếp tục tác động tiêu cực đến thị trường xuất khẩu của nước ta; khuynh hướng bảo
hộ mậu dịch đang tăng lên. Cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta chưa được cải thiện
nhiều, năng lực cạnh tranh của hàng hoá còn thấp. Kim ngạch xuất khẩu 4 tháng đầu
năm chỉ đạt 18,64 tỷ USD, xấp xỉ cùng kỳ năm 2008.
(3) Cân đối ngân sách căng thẳng.
Sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nguồn thu ngân sách nhà nước bị co hẹp,
trong khi nhu cầu chi lại tăng lên, buộc phải có những biện pháp cân đối bổ
sung. Cán cân thanh toán tổng thể năm 2009 chưa vững chắc, có thể tác động bất
lợi tới các cân đối vĩ mô khác.
(4) Do ảnh hưởng của thiên tai,
dịch bệnh và những tác động do sản xuất bị thu hẹp, công tác giải quyết việc
làm và đời sống nhân dân ở nhiều vùng còn khó khăn. Các chế độ, chính sách an
sinh xã hội triển khai chậm, lúng túng và còn có hiện tượng tiêu cực.
(5) Tình hình an ninh trật tự, tội
phạm tại một số địa bàn còn phức tạp. Ô nhiễm môi trường, ách tắc giao thông và
vệ sinh an toàn thực phẩm, dịch bệnh vẫn đang là những vấn đề bức xúc của toàn
xã hội.
(6) Công tác chỉ đạo, điều hành
còn những yếu kém chưa được khắc phục, nhất là khâu tổ chức thực hiện. Kết quả
cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm còn thấp.
Nhiều vướng mắc về thủ tục hành chính và giải phóng mặt bằng chậm được khắc phục
vừa hạn chế tốc độ giải ngân và khả năng hấp thụ vốn đầu tư phát triển, vừa làm
tăng thêm tình trạng khiếu kiện về đền bù đất đai và tái định cư.
Kết quả thực hiện nhiệm vụ những
tháng đầu năm 2009 cho thấy, tuy còn rất nhiều khó khăn, nhưng nền kinh tế nước
ta đã bắt đầu có chuyển biến theo chiều hướng tích cực, có dấu hiệu đã ra khỏi
giai đoạn khó khăn nhất; chính trị - xã hội tiếp tục được ổn định, quốc phòng
an ninh được bảo đảm. Tình hình đó tạo ra những khả năng và điều kiện để đạt được
kết quả cao hơn trong thời gian tiếp theo.
III. TRỌNG
TÂM CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH NHẰM NGĂN CHẶN SUY GIẢM KINH TẾ, DUY TRÌ TĂNG TRƯỞNG, ỔN
ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI
Cuộc khủng hoảng kinh tế, tài
chính toàn cầu đang diễn biến phức tạp, khó lường và tiếp tục tác động tiêu cực
đến nước ta. Khó khăn của chúng ta còn nhiều, có mặt còn gay gắt hơn và chúng
ta cũng chưa thể lạc quan với những kết quả đạt được trong những tháng vừa qua.
Tại Kỳ họp trước của Quốc hội,
Chính phủ đã đề xuất 8 nhóm giải pháp chủ yếu để thực hiện thắng lợi kế hoạch
năm 2009. Các nhóm giải pháp đó đã được các ngành, các cấp triển khai thực hiện
trong những tháng qua và cũng có một số điểm cần bổ sung, sửa đổi mà Chính phủ
đã đề cập trong các Báo cáo gửi tới các vị đại biểu Quốc hội. Ở đây, tôi chỉ
xin nhấn mạnh một số nội dung lớn cần được quan tâm chỉ đạo:
1. Thực hiện có
hiệu quả các gói kích cầu đầu tư và tiêu dùng, tập trung ngăn chặn suy giảm
kinh tế, khôi phục đà tăng trưởng hợp lý
Sử dụng tốt các gói kích thích
kinh tế để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực của nền kinh
tế cả về cơ sở hạ tầng, cả về năng lực sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp
và cả về chất lượng nguồn nhân lực, tạo tiền đề xử lý tốt các "điểm nghẽn
phát triển".
Tập trung đầu tư để sớm đưa vào
vận hành các công trình giao thông, thuỷ lợi, hạ tầng nông thôn, điện năng, dầu
khí, phân bón, xi măng, các dự án khai thác khoáng sản,... trong năm 2009 và
năm 2010, góp phần bảo đảm an ninh lương thực, an ninh năng lượng, cung cấp đủ
vật tư, nguyên liệu cho sản xuất, xây dựng và hàng hoá cho tiêu dùng.
Mở rộng hình thức hỗ trợ lãi suất
vay vốn cố định nhằm giúp các doanh nghiệp tận dụng thời cơ giá thấp để đầu tư
trang thiết bị, công nghệ, tăng năng lực sản xuất; mở rộng bảo lãnh cho các
doanh nghiệp vay vốn nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền sản xuất hiện đại,
tạo tiền đề cho việc cơ cấu lại nền kinh tế, bảo đảm tăng trưởng bền vững.
Đẩy mạnh công tác quy hoạch,
thăm dò, khai thác tài nguyên, khoáng sản, chuẩn bị cho giai đoạn phục hồi kinh
tế và đẩy mạnh công nghiệp hoá. Khẩn trương chấn chỉnh công tác khai thác than
và các loại khoáng sản khác, bảo đảm sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm các nguồn
tài nguyên, khoáng sản, đặc biệt là các nguồn tài nguyên không tái tạo. Triển
khai thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị, hoàn chỉnh Quy hoạch phân vùng thăm
dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015 có tính đến năm
2025. Chỉ đạo Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam triển khai các dự án bô-xít
tại Tân Rai và Nhân Cơ, xử lý tốt các vấn đề về công nghệ, lao động nước ngoài,
hoàn thổ, trồng rừng, đền bù tái định cư; bảo đảm lợi ích trước mắt, lâu dài và
bền vững của đất nước, bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường
sinh thái, an ninh, quốc phòng.
Trong điều kiện cân đối ngân
sách năm 2009 khó khăn hơn so với những năm trước, để chuẩn bị cho giai đoạn phục
hồi và phát triển tiếp theo, ngoài gói kích thích kinh tế từ nguồn dự trữ ngoại
hối, Chính phủ đề nghị Quốc hội cho phát hành thêm 20 nghìn tỷ đồng trái phiếu
nhằm huy động nhiều hơn các nguồn lực trong dân để tạo thêm vốn cho đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, tạo thêm năng lực mới cho nền kinh tế.
Chính phủ sẽ chỉ đạo quyết liệt nhằm đẩy nhanh tiến độ xây dựng, giải ngân các
nguồn vốn đã ghi trong kế hoạch và phần vốn được bổ sung thêm.
Đẩy nhanh việc thực hiện chương
trình kiên cố hoá trường học, xây dựng các cơ sở y tế. Tăng cường đầu tư xây dựng
các trường chuyên nghiệp và dạy nghề, xây dựng nhà ở cho giáo viên, ký túc xá
cho học sinh, sinh viên. Mở rộng chương trình cho vay vốn tín dụng ưu đãi để học
tập. Khẩn trương triển khai thực hiện các chương trình đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao và cho các ngành kinh tế, xã hội trọng điểm, chương trình đào tạo
nghề cho lao động nông thôn. Xây dựng nhanh các bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh
và một số bệnh viện khu vực, bệnh viện chuyên sâu. Thực hiện một bước chương
trình "xây dựng nông thôn mới".
Bên cạnh việc tăng vốn đầu tư, cần
thắt chặt quản lý đầu tư xây dựng. Yêu cầu các Bộ và địa phương khẩn trương xử
lý những vướng mắc về thủ tục đầu tư, tạo bước đột phá trong công tác giải
phóng mặt bằng; hoàn thiện các quy định về lựa chọn nhà thầu theo hướng giao
quyền và tăng cường trách nhiệm của chủ đầu tư, của người quyết định đầu tư và
phát huy vai trò giám sát cộng đồng trong việc bảo đảm tiến độ và chất lượng
các công trình, dự án. Tăng cường công tác kiểm tra, kiên quyết không vì chủ
trương kích cầu mà buông lỏng quản lý, dễ dãi chấp nhận những dự án kém hiệu quả,
không có khả năng cạnh tranh, làm ô nhiễm môi trường, gây nguy cơ tăng lạm phát
trở lại.
2. Đẩy mạnh sản
xuất kinh doanh, phát triển thị trường trong nước, mở rộng thị trường xuất khẩu
Cùng với các biện pháp kích cầu,
cần tạo mọi điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, đặc biệt là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tiếp tục hỗ trợ sản xuất nông, lâm, thủy sản, trước hết
là hỗ trợ tiêu thụ hàng hoá nông sản nhằm duy trì sản xuất, giải quyết việc
làm, tăng thu nhập cho nông dân. Hỗ trợ đầu tư công nghệ sau thu hoạch (bảo quản,
chế biến) đối với ngành nông nghiệp. Khuyến khích, hỗ trợ sản xuất hàng tiêu
dùng nội địa, nhất là thực phẩm, đồ uống, hàng dệt may, thuốc chữa bệnh; ưu
tiên hỗ trợ ngành hàng sản xuất có lợi thế thay thế hàng nhập khẩu, sử dụng
nguyên liệu trong nước, sử dụng nhiều lao động.
Triển khai nhanh và hiệu quả việc
hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay ngắn hạn, trung hạn của các tổ chức, cá
nhân để đẩy nhanh đầu tư và phát triển sản xuất, kinh doanh, mua máy móc, thiết
bị, phương tiện, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở
trong khu vực nông thôn. Khuyến khích đổi mới công nghệ, hoàn thiện quản lý,
triệt để tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, nhằm hạ giá thành, phí lưu thông,
nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Sớm ban hành và thực
hiện Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, Chương trình quốc gia phát triển
công nghệ cao và Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia.
Tiếp tục cổ phần hoá doanh nghiệp
nhà nước theo Kết luận của Bộ Chính trị, lộ trình đã được phê duyệt; đồng thời,
xác định rõ thêm vai trò chủ sở hữu, tăng cường quản lý các doanh nghiệp sau cổ
phần hoá. Tiếp tục hoàn thiện mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước trong những
lĩnh vực then chốt nhất của nền kinh tế.
Tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc,
tạo điều kiện thuận lợi để thu hút, giải ngân nhanh vốn ODA. Chuẩn bị tốt các điều
kiện về quy hoạch, mặt bằng, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực (đặc biệt là nhân lực
chất lượng cao) để thu hút vốn FDI vào các ngành, lĩnh vực theo định hướng và
yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
Tổ chức chiến dịch quảng bá du lịch
trong nước và ngoài nước; xúc tiến mạnh mẽ du lịch trong nước. Đẩy nhanh việc
thực hiện các dự án du lịch quốc gia trọng điểm; tích cực chuẩn bị cho việc tổ
chức Năm du lịch quốc gia 2010. Hoàn thành đúng tiến độ các dự án phục vụ Đại lễ
1000 năm Thăng Long.
Đẩy mạnh chương trình xúc tiến
thương mại ở thị trường nội địa với các hoạt động chủ yếu là: vận động dùng
hàng Việt Nam; hỗ trợ năng lực cộng đồng doanh nghiệp tổ chức hội chợ hàng nông
sản, sản phẩm làng nghề cấp vùng, miền; tổ chức bán hàng Việt về nông thôn, các
khu công nghiệp; tổ chức phiên chợ hàng Việt cuối tuần tại các đô thị lớn; thực
hiện công tác thông tin tuyên truyền quảng bá hàng Việt Nam. Khuyến khích và hỗ
trợ các doanh nghiệp trong nước tổ chức lại hệ thống phân phối, tổ chức lại thị
trường, trước hết ưu tiên các mặt hàng thiết yếu (lương thực, xăng dầu, phân
bón, sắt thép, xi măng, thuốc chữa bệnh), hàng tiêu dùng, các loại hàng hoá có
khả năng thay thế hàng nhập khẩu.
Cơ cấu lại các mặt hàng xuất khẩu,
hướng vào các mặt hàng chế tạo, chế biến, phát triển các mặt hàng xuất khẩu mới.
Tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại ngoài nước ở cả 3 cấp: doanh nghiệp,
hiệp hội ngành hàng và Chính phủ nhằm mở thêm thị trường mới, chú ý khai thác
các khu vực ít bị tác động của suy thoái kinh tế. Tăng đầu tư ra nước ngoài, đặc
biệt là trong lĩnh vực dầu khí, năng lượng, khai khoáng và nông nghiệp.
Kiểm soát nhập khẩu chặt chẽ, chủ
yếu bằng các hàng rào kỹ thuật phù hợp với quy định của WTO. Chủ động ứng phó với
chính sách bảo hộ mậu dịch của các đối tác thương mại; nâng cao năng lực giải
quyết các vụ kiện thương mại quốc tế. Áp dụng các biện pháp đồng bộ để chống
buôn lậu, gian lận thương mại, tập trung vào các tuyến, địa bàn, mặt hàng trọng
điểm.
3. Chuyển chính
sách tài chính, tiền tệ từ thắt chặt sang thực hiện chính sách tài chính tích cực,
chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kích
thích tăng trưởng và phòng ngừa lạm phát
Do bị tác động bởi suy giảm kinh
tế nên thu ngân sách nhà nước bị co hẹp trong khi nhu cầu chi lại tăng lên, nhất
là chi cho kích cầu và an sinh xã hội. Để giữ nguyên tổng mức chi như Quốc hội
đã quyết định từ đầu năm, đề nghị Quốc hội cho phép tăng mức bội chi ngân sách
nhà nước năm 2009 lên không quá 8% GDP để bảo đảm các nhiệm vụ chi đã đề ra. Đồng
thời, thực hiện nghiêm chủ trương tiết kiệm chi tiêu ngân sách nhà nước ở tất cả
các cấp ngân sách.
Tại phiên họp này, Chính phủ
trình Quốc hội cho tiếp tục thực hiện một số điều chỉnh về thuế để tiếp tục thực
hiện chính sách "khoan sức dân", giúp các cơ sở sản xuất - kinh doanh
và người dân vượt qua khó khăn trong thời kỳ suy giảm kinh tế và chuẩn bị cho
giai đoạn phát triển tiếp theo.
Thực hiện nhất quán chủ trương
điều hành giá cả theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đối với các
mặt hàng: xăng dầu, điện, than, nước sạch, cước vận chuyển xe buýt... đồng thời,
có chính sách hỗ trợ đối tượng khó khăn khi thực hiện giá thị trường. Triển
khai các biện pháp tích cực và chủ động nhằm bình ổn thị trường, bảo đảm các
quy định về chất lượng hàng hóa và vệ sinh an toàn thực phẩm; xử lý nghiêm các
hành vi vi phạm pháp luật như kinh doanh trái phép, trốn lậu thuế, liên kết độc
quyền nhằm thao túng thị trường và giá cả.
Điều hành các công cụ chính sách
tiền tệ, lãi suất, tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu thị trường, phù hợp với mục
tiêu kích cầu, khuyến khích sản xuất, xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, ổn định
kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn hệ thống và ngăn ngừa lạm phát cao trở lại. Ngân
hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại nhà nước chủ động cân đối nguồn
vốn đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp mua hết lúa, gạo
và các nông sản, hàng hoá của nông dân phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng trong
nước.
Tiếp tục củng cố và tăng cường
các giải pháp quản lý Nhà nước cần thiết để nâng cao chất lượng phát triển của
thị trường hàng hoá, thị trường lao động, thị trường khoa học - công nghệ, thị
trường bất động sản và thị trường bảo hiểm, vốn, chứng khoán. Đẩy mạnh xã hội
hoá để tăng thêm tiềm lực tài chính đầu tư cho các lĩnh vực xã hội, nhất là giáo
dục và y tế.
4. Chăm lo đời
sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm
Triển khai nhanh các cơ chế,
chính sách đã ban hành, đặc biệt là Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền
vững đối với các huyện nghèo, Chương trình nhà ở xã hội, hỗ trợ nhà ở cho người
nghèo, Chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn, các chương trình khuyến
công, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, các chương trình tín dụng chính sách
xã hội.
Ban hành cơ chế, chính sách đủ mạnh
để khuyến khích doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đầu tư, giải quyết việc
làm ở nông thôn, phục vụ ngư dân ra biển, đảo. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và
ban hành mới một số chính sách cho phù hợp với tình hình thực tế và từng bước
hoàn thiện hệ thống các cơ chế, chính sách về an sinh xã hội, điều chỉnh các
chương trình 134, 135; ban hành chuẩn nghèo mới; điều chỉnh lương tối thiểu
chung và lương tối thiểu vùng của doanh nghiệp; chính sách trợ cấp mất sức lao
động... Khuyến khích doanh nghiệp hỗ trợ thiết thực cải thiện đời sống vật chất,
tinh thần cho người lao động, nhất là ở các khu công nghiệp tập trung và ở các
vùng dự án phải thu hồi đất.
Khẩn trương sửa đổi các quy định
và làm tốt công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, bảo đảm hài hoà lợi ích giữa
Nhà nước, người đang sử dụng đất và nhà đầu tư. Ủy ban nhân dân các cấp phối hợp
với các đoàn thể, tập trung giải quyết các khiếu kiện của công dân, nhất là về
đất đai theo đúng pháp luật và phù hợp với tình hình thực tế, không để khiếu kiện
kéo dài.
Chủ động lập phương án cụ thể,
chỉ đạo sâu sát việc phòng, chống thiên tai, dịch bệnh và tìm kiếm cứu nạn, giảm
đến mức thấp nhất thiệt hại về người và tài sản, không để dịch bệnh bùng phát
và lây lan. Ưu tiên bố trí đủ nguồn vốn, tăng cường dự trữ quốc gia về lương thực,
bảo đảm nguồn cứu trợ kịp thời, đúng đối tượng, đúng chính sách, hạn chế tối đa
việc thất thoát, lãng phí. Triển khai mạnh mẽ Chương trình mục tiêu quốc gia ứng
phó với biến đổi khí hậu.
Nhân tố quyết định hiệu quả của
chính sách an sinh xã hội là công tác tổ chức thực hiện ở cơ sở. Những thiếu
sót, tiêu cực trong việc thực hiện chương trình 134, 135, hỗ trợ xăng dầu đánh
bắt hải sản, hỗ trợ khắc phục hậu quả do thiên tai, dịch bệnh, hỗ trợ khắc phục
khó khăn trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Sửu vừa qua... cho thấy, công tác tổ chức
thực hiện tại cơ sở đang là khâu yếu, cần sớm được khắc phục. Đề nghị các cơ
quan, tổ chức thực hiện tốt các chế độ chính sách; các cấp uỷ Đảng, chính quyền
các cấp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, các vị đại biểu Quốc
hội tăng cường công tác kiểm tra, giám sát bảo đảm cho các chế độ, chính sách
được thực hiện đúng đắn.
5. Bám sát thực
tiễn, nâng cao năng lực chỉ đạo điều hành, tạo đồng thuận trong toàn xã hội để
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2009
Theo sát diễn biến tình hình
kinh tế thế giới và trong nước, làm tốt công tác dự báo và phân tích để có điều
chỉnh linh hoạt, kịp thời các chính sách và giải pháp. Chính phủ sử dụng các cơ
quan chức năng, tổ chức tư vấn, mở các diễn đàn (gồm các chuyên gia trong và
ngoài nước) nhằm thông tin về tình hình và các giải pháp ngăn chặn suy giảm
kinh tế thế giới; đánh giá, nhận xét và hiến kế về các giải pháp ngăn chặn suy
giảm kinh tế của Việt Nam.
Đề nghị Quốc hội uỷ quyền và
giao trách nhiệm cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ chủ động, linh hoạt
trong việc điều chỉnh chính sách và chỉ đạo điều hành giữa hai kỳ họp Quốc hội
nhằm có phản ứng chính sách kịp thời, chủ động ứng phó khi tình hình có đột biến.
Đề cao trách nhiệm của từng cơ
quan, tổ chức, trước hết là trách nhiệm của người đứng đầu trong việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ được giao. Phải có chương trình hành động thiết thực, toàn
diện; chỉ đạo có trọng tâm, trọng điểm, lựa chọn đúng khâu then chốt. Bộ trưởng,
Thủ trưởng các cơ quan Trung ương, địa phương phải hết sức quan tâm chỉ đạo
công tác xây dựng thể chế, chính sách; kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn
thực hiện các quyết định của cấp trên, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng nợ
đọng văn bản hướng dẫn để sớm đưa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
đi vào cuộc sống.
Tăng cường công tác phối hợp,
công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện. Thủ tướng tiếp tục phân công các Phó
Thủ tướng và các Bộ trưởng theo dõi từng nhóm biện pháp ngăn chặn suy giảm kinh
tế, tổ chức triển khai, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện ở tất cả các cấp, công
khai kết quả thực hiện theo định kỳ. Các Bộ trưởng và Chủ tịch tỉnh (trực tiếp
và phân công cấp phó) đi thực tế cơ sở hướng dẫn, kiểm tra, đối thoại, chỉ đạo
khắc phục các khó khăn, vướng mắc của cơ sở, tạo điều kiện để cơ sở triển khai
thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.
Chuyển hướng công tác thanh tra,
kiểm tra sang phục vụ nhiệm vụ trọng tâm đã xác định. Công tác thanh tra kiểm
tra phải góp phần thúc đẩy việc thực hiện các giải pháp ngăn chặn suy giảm,
thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, lấy lại đà tăng trưởng, giữ ổn định kinh tế vĩ
mô và thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội.
Yêu cầu từng Bộ, từng địa phương
lập danh mục theo dõi tổng hợp các cơ chế, chính sách đã ban hành gắn với công
việc, trách nhiệm của Bộ, ngành, địa phương mình; lập kế hoạch thực hiện từng
loại việc và định kỳ hàng tháng báo cáo với Chính phủ về kết quả thực hiện.
Làm tốt công tác tư tưởng, thông
tin tuyên truyền, nâng cao vai trò và trách nhiệm của các cơ quan thông tin,
báo chí, tạo sự đồng thuận trong việc thực hiện các chính sách, cơ chế và các
giải pháp điều hành. Định kỳ công bố công khai kết quả thực hiện các gói kích cầu.
Các Bộ, địa phương công khai chi tiết các công trình, dự án đầu tư xây dựng cơ
bản thuộc các nhóm giải pháp. Chính phủ, các Bộ và các địa phương mở chuyên mục
thông tin trên trang thông tin điện tử của mình phản ánh thông tin của các cơ
quan, đơn vị và người dân về tình hình thực hiện các cơ chế, chính sách ngăn chặn
suy giảm kinh tế ở địa phương, cơ sở.
Phát huy vai trò của Mặt trận,
đoàn thể, các phương tiện thông tin đại chúng trong việc vận động các tầng lớp
nhân dân tích cực ủng hộ, giám sát và tích cực thực hiện các giải pháp ngăn chặn
suy giảm kinh tế, khôi phục đà tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội.
Kính thưa Quốc hội,
Nhiệm vụ còn lại của năm 2009 là
hết sức khó khăn, nặng nề, đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm rất lớn của cả hệ thống
chính trị và của toàn dân. Bên cạnh các nhiệm vụ trọng tâm trên đây, chúng ta đồng
thời thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp về công tác đối
ngoại, đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh,... đã đề
ra trong các Nghị quyết của Đảng và của Quốc hội, trong đó có Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân và
nông thôn và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá X về một số nhiệm vụ giải pháp lớn nhằm tiếp tục thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng; chuẩn bị tốt các điều kiện để
xây dựng và thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách
nhà nước năm 2010, tạo tiền đề phát triển cao hơn, bền vững hơn vào các năm tiếp
theo.
Để tập trung sức xử lý tốt những
vấn đề then chốt, tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ trong điều hành thực hiện nhiệm
vụ kế hoạch năm 2009, Chính phủ trân trọng đề nghị Quốc hội:
Một là, quyết định nhiệm vụ trọng
tâm, cấp bách trong mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
năm 2009 là tập trung cao độ mọi nỗ lực ngăn chặn suy giảm kinh tế, phấn đấu
duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững, giữ vững ổn định kinh tế
vĩ mô, chủ động phòng ngừa lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an
ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trong đó, ngăn chặn
suy giảm kinh tế là mục tiêu ưu tiên hàng đầu [2].
Hai là, quyết định điều chỉnh chỉ
tiêu tăng trưởng GDP năm 2009 từ khoảng 6,5% xuống còn khoảng 5%; điều chỉnh chỉ
tiêu tỷ lệ bội chi ngân sách so với GDP từ 4,82% lên không quá 8%, Chính phủ sẽ
bám sát tình hình để điều hành và bố trí giảm dần trong các năm tiếp theo.
Ba là, cho phép điều chỉnh bổ
sung mức phát hành trái phiếu Chính phủ thêm 20.000 tỷ đồng; sửa đổi, bổ sung một
số chính sách về thuế thuộc thẩm quyền của Quốc hội (có Tờ trình riêng), sửa đổi
cơ chế, chính sách liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản, đấu thầu (có Tờ trình
riêng) và một số chính sách quan trọng khác trình Quốc hội tại kỳ họp này.
Bốn là, trên cơ sở các chỉ tiêu
và chính sách cơ bản đã được điều chỉnh, đề nghị Quốc hội uỷ quyền và giao
trách nhiệm cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ chủ động, linh hoạt
trong điều hành các chính sách, giải pháp thực hiện kế hoạch và ngân sách giữa
hai kỳ họp của Quốc hội, phấn đấu đạt được kết quả cao nhất.
Kính thưa Quốc hội,
Ý thức được trách nhiệm trước Đảng
và nhân dân, Chính phủ quyết tâm nâng cao năng lực điều hành, chỉ đạo tổ chức
thực hiện tốt các Nghị quyết của Quốc hội, phấn đấu thực hiện Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2009 ở mức cao nhất. Đề nghị Quốc hội
ủng hộ, tăng cường giám sát để công việc thực thi các chính sách, chế độ, biện
pháp được triển khai khẩn trương, đồng bộ và đạt hiệu quả cao ở tất cả các
ngành, các cấp. Chính phủ tin chắc rằng với nỗ lực của cả hệ thống chính trị và
sự đồng thuận của toàn xã hội, huy động tối đa sức mạnh nội lực, tận dụng tốt
nhất ngoại lực, nhất định chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi những mục tiêu và nhiệm
vụ đã đề ra.
Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội,
đồng chí, đồng bào và các bạn./.
|
TM.
CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG THƯỜNG TRỰC
Nguyễn Sinh Hùng
|
[1] Hiện có 1,2 triệu học sinh học nghề (chiếm 36% tổng số học
sinh học nghề) được vay ưu đãi…
[2] Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội năm 2009 được Quốc hội thông qua với mục tiêu tổng
quát là: Tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ
tăng trưởng hợp lý, bền vững, chủ động ngăn ngừa suy giảm, bảo đảm an sinh xã hội;
đẩy mạnh hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động và hiệu quả; giữ
vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội;
tạo điều kiện thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
2006 - 2010.