ỦY
BAN NHÂN DÂN
TỈNH THÁI BÌNH
--------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
|
Số:
67/BC-UBND
|
Thái
Bình, ngày 11 tháng 07 năm 2013
|
BÁO CÁO
TÌNH
HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM VÀ MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CHỦ YẾU
6 THÁNG CUỐI NĂM 2013
I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM.
Sáu tháng đầu năm 2013, trong điều
kiện khó khăn chung của cả nước và ảnh hưởng nặng nề của cơn bão số 8 năm 2012;
được sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sát sao của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy
ban nhân dân tỉnh, sự nỗ lực, cố gắng của các cấp, các ngành và nhân dân trong
tỉnh nên tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh duy trì ổn định và tăng trưởng, an
sinh xã hội được đảm bảo, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ
vững.
1. Về phát triển kinh tế.
Tổng sản phẩm GDP (theo giá so
sánh) ước đạt 6.855,5 tỷ đồng, bằng 46% kế hoạch, tăng 6,16% so với cùng kỳ năm
trước. Tổng giá trị sản xuất ước đạt 14.179,1 tỷ đồng, tăng 8,16%; trong đó:
sản xuất nông, lâm, thủy sản giảm 0,54%, sản xuất công nghiệp - xây dựng tăng
12,15% (công nghiệp tăng 8,9%, xây dựng tăng 26,6%), dịch vụ tăng 10,05% so với
cùng kỳ năm 2012.
1.1. Sản xuất nông, lâm, thủy
sản và xây dựng nông thôn mới.
Do bị ảnh hưởng nặng nề của cơn bão
số 8 năm 2012 nên giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản 6 tháng đầu năm giảm so
với cùng kỳ năm trước. Tổng giá trị sản xuất toàn ngành ước đạt 3.671 tỷ đồng,
bằng 52,1% kế hoạch, giảm 0,54%.
Sản xuất vụ đông 2012 - 2013 bị
thiệt hại nặng do hậu quả cơn bão số 8 năm 2012 nên diện tích chỉ đạt 29.647
ha, giảm 6.525 ha so với năm trước, trong đó có 6.000 ha được phục hồi sau bão;
giá trị đạt 684,4 tỷ đồng, giảm 155,5 tỷ đồng (giảm 18,2%). Diện tích cây màu
xuân đạt 12.521 ha, giảm 399 ha; lúa xuân đạt 80.466 ha, giảm 678 ha so với năm
trước (chủ yếu do thực hiện dồn điền đổi thửa, chỉnh trang đồng ruộng), trong
đó lúa ngắn ngày chiếm 95,78%, lúa chất lượng cao chiếm 31,22% (tăng 1.253 ha
so với vụ xuân năm trước). Lúa xuân năm nay tốt đồng đều, năng suất ước đạt
72,51 tạ/ha, tăng 0,89 tạ/ha so với năm trước. Diện tích cây màu hè đạt 6.730
ha, vượt 1.130 ha so với kế hoạch và gấp 2 lần (tăng 3.365ha) so với năm 2012.
Giá trị sản xuất trồng trọt đạt 2.055,7 tỷ đồng, bằng 60,5% kế hoạch, giảm
6,11% so với cùng kỳ năm trước. Việc xây dựng và phát triển các cánh đồng mẫu
đạt kết quả tích cực (ngoài 7 cánh đồng mẫu theo chỉ đạo của tỉnh, các địa
phương đã xây dựng thêm 40 cánh đồng mẫu với tổng diện tích 2.400 ha).
Ủy ban nhân dân tỉnh đã sửa đổi bổ
sung chính sách hỗ trợ mua máy nông nghiệp; ban hành chính sách hỗ trợ gieo sạ
lúa, cây vụ đông, cây vụ hè; quyết định hỗ trợ kinh phí mua khoai tây giống,
thuốc trừ cỏ, diệt chuột vụ xuân, mua vắcxin phòng bệnh ở đàn lợn và phòng
chống dịch lợn tai xanh... Tổng kinh phí hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp 6
tháng đầu năm là 42,3 tỷ đồng.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát
triển ổn định, Ủy ban nhân dân tỉnh công bố dịch tai xanh trên đàn lợn ở một số
địa phương, chỉ đạo triển khai đồng bộ các biện pháp phòng chống dịch bệnh gia
súc, gia cầm nên dịch chỉ phát sinh ở diện hẹp và nhanh chóng được khống chế,
không ảnh hưởng lớn đến phát triển chăn nuôi. Trong những tháng đầu năm, giá
thực phẩm giảm mạnh trong khi giá thức ăn chăn nuôi tăng cao đã ảnh hưởng đến việc
tái đàn gia súc, gia cầm. Đến 01/4/2013, tổng đàn trâu bò đạt 52.233 con, giảm
5,31%; đàn lợn 1,032 triệu con, tăng 0,74%; đàn gia cầm 10,9 triệu con, tăng
4,91% so với cùng kỳ năm 2012. Toàn tỉnh hiện có 690 trang trại đạt tiêu chuẩn,
trong đó 53 trang trại chăn nuôi quy mô lớn, tăng thêm 11 trang trại so với
cùng kỳ 2012. Giá trị sản xuất chăn nuôi 6 tháng ước đạt 1.045 tỷ đồng, bằng
44,9% kế hoạch, tăng 6,23% so với cùng kỳ năm trước.
Nuôi trồng thủy sản đạt 14,5 nghìn
ha, tăng 3,1% so với cùng kỳ; trong đó: diện tích nuôi ngao 2.318 ha, tăng 639
ha, nuôi tôm sú đạt 3.147 ha (tương đương năm 2012). Sản lượng nuôi trồng thủy
sản 6 tháng đầu năm ước đạt 46.112 tấn, tăng 14,67% (riêng sản lượng ngao đạt
28,8 nghìn tấn, tăng 23,9%). Sản xuất giống thủy sản đạt kết quả khá tốt, nhất
là sản xuất ngao giống (đạt 540 triệu ngao giống, gấp hơn 2 lần so với cùng
kỳ). Sản lượng khai thác thủy sản 6 tháng ước đạt 28.005 tấn, tăng 15,84% so với
cùng kỳ năm trước. Giá trị sản xuất ước đạt 456,2 tỷ đồng, bằng 42,2% kế hoạch,
tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2012.
Để chủ động phòng, chống cơn bão số
02, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã kịp thời chỉ đạo các cấp, các ngành, các
địa phương, đơn vị khẩn trương triển khai thực hiện các biện pháp phòng, chống
bão, đồng thời thành lập các đoàn công tác của tỉnh đi kiểm tra, chỉ đạo, đôn
đốc các địa phương triển khai, đối phó với bão nhằm giảm thiểu thiệt hại đối
với sản xuất và đời sống của nhân dân.
Tập trung chỉ đạo thực hiện chính
sách hỗ trợ các hộ gia đình di chuyển chỗ ở từ vùng xung yếu ngoài để vào khu tái
định cư thuộc xã Đông Long, huyện Tiền Hải và xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Phụ. Đã
tạm ứng (02 đợt) và cấp bổ sung về ngân sách 02 huyện để thanh toán hỗ trợ cho
các hộ dân là 46,834 tỷ đồng, bằng 80,3% tổng kinh phí dự kiến hỗ trợ theo đề
án; đến nay đã có 176 hộ gia đình được giao đất ở tại khu tái định cư (xã Quỳnh
Lâm: 66 hộ/109 hộ, xã Đông Long: 110 hộ/158 hộ).
Công tác quản lý đất đai và bảo vệ
môi trường được tăng cường. Đã hoàn thành tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự
thảo Luật Đất đai (sửa đổi); thống kê đất đai năm 2012 và Quy hoạch sử dụng đất
đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 - 2015) của tỉnh. Xây dựng
Chương trình hành động của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Trung ương
6 (khóa XI) về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai. Ủy ban nhân
dân tỉnh quyết định phân bổ chỉ tiêu và chỉ đạo hoàn thành quy hoạch sử dụng
đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất kỳ đầu 5 năm (2011 - 2015) của các
huyện, thành phố; đẩy mạnh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Chỉ đạo giải quyết kịp thời, hoàn thành
công tác đo đạc, lập bản đồ địa chính ở các địa phương thực hiện dự án VLAP; đã
lập 239.415 hồ sơ cấp giấy chứng nhận, vượt 12,7% kế hoạch và cấp 43.419 giấy
chứng nhận, đạt 39,05% hồ sơ đã lập; quyết liệt xử lý vướng mắc, tồn tại trong
giải phóng mặt bằng để thi công các công trình giao thông trọng điểm, đê điều
phục vụ phòng chống lụt bão và công trình phúc lợi công cộng.
Công tác xây dựng nông thôn mới
được các cấp, các ngành tập trung lãnh ... và quy hoạch chi tiết giao thông
thủy lợi nội đồng; 89,5% số xã hoàn thành quy hoạch chi tiết trung tâm xã;
96,2% số xã hoàn thành dồn điền đổi thửa; có 10 xã đạt 15-18 tiêu chí, 116 xã
đạt 11-14 tiêu chí, 100 xã đạt từ 8-10 tiêu chí và 40 xã đạt 6-7 tiêu chí. Ủy
ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 02/2013/QĐ-UBND sửa đổi, bổ sung một
số điều của Quy định một số cơ chế, chính sách hỗ trợ và quản lý đầu tư xây
dựng công trình kết cấu hạ tầng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015, tháo gỡ khó
khăn, tạo động lực đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới; thành lập 08 đoàn
thẩm định liên ngành lựa chọn các xã được hỗ trợ đầu tư xây dựng nông thôn mới
năm 2013 và thẩm định kế hoạch đầu tư của các xã; Quyết định phân bổ 251,188 tỷ
đồng hỗ trợ 108 xã hoàn thành dồn điền đổi thửa năm 2012 thực hiện chỉnh trang
đồng ruộng và 78 xã xây dựng nông thôn mới; xây dựng phương pháp đánh giá 19
tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Tổng số vốn đầu tư cho khu vực nông thôn và
xây dựng nông thôn mới thuộc ngân sách tỉnh năm 2013 là 1.133 tỷ đồng, chiếm
1/3 kế hoạch vốn đầu tư của tỉnh. Các địa phương đang tập trung thực hiện các
nội dung tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Dự kiến trong năm 2013 có trên 09 xã
hoàn thành 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới, vượt mục tiêu đề ra.
1.2. Sản xuất công nghiệp,
đầu tư, xây dựng cơ bản.
Sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm
có chuyển biến tích cực hơn nhưng còn chậm do tiếp tục gặp khó khăn do chi phí
nguyên vật liệu đầu vào và nhân công tăng, thị trường tiêu thụ suy giảm, khả năng
hấp thụ nguồn vốn tín dụng còn hạn chế, thời gian nghỉ tết Nguyên đán kéo dài hơn
mọi năm... Đề tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo
các cấp, các ngành chủ động hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc trong sản xuất kinh doanh; rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế,
chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư; triển khai thực hiện kịp thời các chính
sách của Chính phủ về miễn, giảm, giãn các loại thuế và tiền sử dụng đất, thuê
đất cho doanh nghiệp; gia hạn nộp thuế cho các doanh nghiệp bị thiệt hại do cơn
bão số 8..., tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất kinh doanh,
giảm giá thành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Các tổ chức tín dụng đã giảm lãi
suất tín dụng cho vay xuống còn 9-13% năm (giảm 3-4% so với đầu năm 2013), gia
hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ... hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn về
vốn, khôi phục và phát triển sản xuất.
Giá trị sản xuất công nghiệp 6
tháng ước đạt 6.045 tỷ đồng, bằng 42,5% kế hoạch, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm
trước và có xu hướng tăng dần (quý I tăng 5%, quý II tăng 12,5%). Đã có thêm 7
dự án hoàn thành đầu tư, đi vào sản xuất với tổng số vốn 611 tỷ đồng; có thêm
01 sản phẩm mới, 30/38 sản phẩm chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm 2012, trong đó
9 sản phẩm tăng trên 20%, 12 sản phẩm tăng từ 10-20%; có 8 sản phẩm bằng hoặc
giảm so với cùng kỳ, trong đó có một số sản phẩm giảm khá mạnh như: chế biến
thực phẩm giảm 14%, vải các loại giảm 15%, phôi thép giảm 10%...
Sản xuất của doanh nghiệp trong các
khu công nghiệp từng bước được phục hồi, duy trì ổn định và tăng trưởng; có
118/133 dự án đầu tư đã đi vào sản xuất; giá trị sản xuất tăng trưởng 12% và
chiếm 40,6% giá trị công nghiệp toàn tỉnh; tạo việc làm cho trên 45.000 lao
động, tăng 5% so với cùng kỳ. Nghề và làng nghề duy trì phát triển; toàn tỉnh
hiện có 241 làng nghề, tăng 8 làng nghề so với cùng kỳ năm 2012; một số làng
nghề suy giảm đã có hướng hồi phục trở lại (dệt khăn, sợi ở Hưng Hà...); giá
trị sản xuất khu vực làng nghề chiếm 23,8% giá trị sản xuất công nghiệp, tạo
việc làm cho gần 150 nghìn lao động. Hệ thống truyền tải điện tiếp tục được đầu
tư nâng cấp; sản lượng điện thương phẩm đạt 562 triệu kWh, tăng 12,7%; đã tiết
kiệm được 8,59 triệu kWh, vượt 2,14% kế hoạch.
Công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ
bản đạt kết quả khá tốt. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chương trình mục
tiêu Quốc gia của tỉnh đến nay (bao gồm cả vốn tạm ứng ngân sách tỉnh năm 2013)
là: 3.689,6 tỷ đồng, tăng 68,2% so với cùng kỳ năm 2012. Ủy ban nhân dân tỉnh
chỉ đạo hoàn thành phân bố kế hoạch các nguồn vốn đầu tư năm 2013 ngay trong
quý I theo thứ tự ưu tiên, tập trung bố trí vốn cho các công trình hoàn thành,
chuyển tiếp còn thiếu vốn thanh toán, các dự án trọng điểm, cấp bách, có ý
nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh; đồng thời chỉ
đạo, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện dự án,
giải ngân vốn đầu tư theo Chỉ thị số 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Công trình củng cố, bảo vệ và nâng
cấp các đoạn đê biển cấp bách, xung yếu trực diện với biển năm 2013 là
30,542km; trong đó: 20,331km đê làm mới (bao gồm cả đê 5 từ K15 đến K17+500) và
10,211 km các đoạn đê biển số 5, số 6, số 7, số 8 đang tiến hành thi công. Tổng
mức đầu tư 1.117,42 tỷ đồng; Giá trị phần xây lắp 914,2 tỷ đồng (giá trị xây
lắp theo hợp đồng đã ký 813,410 tỷ đồng), Ủy ban nhân dân tỉnh bố trí các nguồn
vốn cho dự án là 557,63 tỷ đồng (trong đó tạm ứng từ ngân sách tỉnh 312,186 tỷ
đồng) để đảm bảo nguồn vốn triển khai thực hiện. Các đơn vị thi công đã tập
trung nguồn lực tài chính, nhân lực, máy móc thiết bị, tranh thủ thời gian,
khẩn trương thi công đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình. Đến nay công
trình đã cơ bản hoàn thành.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã
hội 6 tháng ước đạt 11.096 tỷ đồng, tăng 37,8% so với cùng kỳ 2012, trong đó
vốn nhà nước tăng 52,1%, vốn doanh nghiệp và dân cư tăng 33,6%, vốn FDI tăng
27,3%. Khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản vốn ngân sách nhà nước tỉnh quản lý
thực hiện 6 tháng đầu năm đạt 2.683 tỷ đồng; giá trị giải ngân 2.115 tỷ đồng,
bằng 57,3% kế hoạch, tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ năm 2012, là năm có tiến độ
thực hiện và giải ngân nhanh nhất trong nhiều năm qua. Giá trị sản xuất xây
dựng ước đạt 1.576,6 tỷ đồng, tăng 26,6% so với cùng kỳ năm 2012. Công tác giám
sát, đánh giá đầu tư được các cấp, các ngành quan tâm triển khai thực hiện, đảm
bảo tiết kiệm, chống thất thoát, lãng phí, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư.
1.3. Thương mại, dịch vụ, tài
chính, ngân hàng.
Ủy ban nhân dân tỉnh tiếp tục chỉ
đạo tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp hỗ trợ thị trường theo Nghị quyết
số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ; tích cực tổ chức chương trình hội
chợ thường niên và các hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp phát
triển thị trường, tiêu thụ sản phẩm; tổ chức chương trình đưa hàng Việt về nông
thôn; tăng cường công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu và gian lận thương
mại, đầu cơ, tăng giá bất hợp lý..., góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả
và đảm bảo chất lượng hàng hóa trên địa bàn.
Giá trị sản xuất ngành dịch vụ 6
tháng đầu năm ước đạt 2.886,5 tỷ đồng, bằng 40% kế hoạch, tăng 10,05% so với
cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6 tăng 2,17% so với tháng
12/2012. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ 6 tháng đạt
11.180,7 tỷ đồng, tăng 10,1%; kim ngạch xuất khẩu đạt 360 triệu USD, tăng
19,28%; có thêm một số mặt hàng xuất khẩu mới như thiết bị dây dẫn điện, phôi
thép; mặt hàng xuất khẩu chủ lực là dệt may đạt 241 triệu USD, tăng 4,92%; một
số mặt hàng xuất khẩu có tỷ trọng nhỏ giảm, như: thủy hải sản giảm 15,5%, thực
phẩm chế biến giảm 60%, thủ công mỹ nghệ giảm 60%, hàng điện tử giảm 23%... Kim
ngạch nhập khẩu đạt 362 triệu USD, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm 2012. Hoạt
động giao thông vận tải cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh
và đi lại của nhân dân. Doanh thu vận tải đạt 1.528 tỷ đồng, tăng 5,17% so cùng
kỳ năm 2012; trong đó: vận tải hành khách tăng 27,5%, vận tải hàng hóa giảm
6,52%, dịch vụ, đại lý vận tải tăng 25%.
Các tổ chức tín dụng trên địa bàn
đã có nhiều giải pháp để mở rộng đầu tư tín dụng, ưu tiên cho vay phát triển
nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa,
các dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả; tiếp tục giảm lãi suất cho vay, gia hạn
nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ... để tháo gỡ khó khăn về vốn cho các doanh
nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh. Đến 30/6/2013, tổng nguồn vốn huy động đạt
19.709 tỷ đồng, tăng 7,2% so với 31/12/2012; tổng dư nợ đạt 25.386 tỷ đồng,
tăng 4,6%, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 10.890
tỷ đồng, chiếm 42,9% tổng dư nợ; mặt bằng lãi suất phổ biến từ 9-13%/năm, giảm
3-4% so với đầu năm 2013; tỷ lệ nợ xấu toàn địa bàn chiếm 1,6% tổng dư nợ
(không tính dư nợ, nợ xấu của Ngân hàng Phát triển Thái Bình), giảm 0,3% so với
cùng kỳ năm 2012.
Tổng thu ngân sách địa phương đạt
5.451 tỷ đồng, đạt 76,8% dự toán năm và tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2012
(loại trừ thu chuyển nguồn và thu kết dư đạt 61,5% dự toán năm); trong đó: thu
nội địa 1.484,6 tỷ đồng, đạt 67,4% dự toán năm, tăng 43,9%; thu bổ sung từ ngân
sách Trung ương 2.734,3 tỷ đồng, đạt 56% dự toán năm, tăng 16,2% so với cùng
kỳ. Tổng chi ngân sách địa phương thực hiện 3.955,6 tỷ đồng, đạt 55,8% dự toán
năm, tăng 28,7% so với cùng kỳ năm 2012; trong đó: chi phát triển kinh tế
1.627,2 tỷ đồng, đạt 77,9% dự toán năm, tăng 27,5% so với cùng kỳ, chiếm tỷ
trọng 41% tổng chi; chi tiêu dùng thường xuyên 2.279 tỷ đồng, đạt 47,5% dự toán
năm, tăng 26,8% so với cùng kỳ năm 2012.
Hoạt động dịch vụ bưu chính, viễn
thông trên địa bàn tỉnh phát triển ổn định, đảm bảo an toàn an ninh thông tin.
Đến nay, toàn tỉnh có 276 điểm phục vụ bưu chính, 1,34 triệu thuê bao điện
thoại (mật độ 75 thuê bao/100 dân), 27.000 thuê bao Internet, tăng 6,9% so với
cùng kỳ. Công tác quảng bá xúc tiến du lịch được tăng cường, 6 tháng đầu năm
tổng lượng khách du lịch đạt 290.000 lượt người, tăng 18%; doanh thu ước đạt
105,3 tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2012.
2. Văn hóa - xã hội.
Hoạt động văn hóa thể thao, thông
tin và truyền thông tập trung tuyên truyền về các sự kiện chính trị xã hội quan
trọng của đất nước và nhiệm vụ chính trị của tỉnh; tổ chức các hoạt động hưởng
ứng năm Du lịch quốc gia các tỉnh đồng bằng sông Hồng 2013. Củng cố, nâng cao
hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Các thiết
chế văn hóa cơ sở được quan tâm đầu tư xây dựng, đặc biệt là thiết chế nhà văn
hóa thôn. Triển khai đầu tư, tu bổ, tôn tạo một số di tích lịch sử văn hóa cấp
tỉnh và cấp quốc gia, chuẩn bị các thủ tục đầu tư nâng cấp Khu lưu niệm đồng
chí Nguyễn Đức Cảnh, xây dựng Quảng trường và Tượng đài Bác Hồ với nông dân.
Phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng phát triển sâu rộng,
thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia; thể thao thành tích cao
từng bước được nâng cao về trình độ, chất lượng chuyên môn. Chỉ đạo đẩy nhanh
tiến độ xây dựng công trình Nhà thi đấu đa năng của tỉnh để kịp thời phục vụ
Đại hội Thể dục thể thao toàn quốc lần thứ VII năm 2014; cơ sở vật chất và lực
lượng tham gia Đại hội đang được tích cực chuẩn bị.
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
nhân dân được đảm bảo; duy trì tỷ lệ tiêm chủng đạt trên 99%; tỷ lệ trẻ em dưới
5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 15,5%; đẩy mạnh phòng chống HIV/AIDS và ma túy,
mại dâm. Chất lượng khám, chữa bệnh ở các tuyến y tế được nâng lên, cơ bản đáp
ứng được nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân; đã thực hiện tốt khám chữa bệnh
cho các đối tượng Bảo hiểm y tế tại các bệnh viện đa khoa huyện, thành phố và
bước đầu triển khai ở các trạm y tế xã của 8/8 huyện, thành phố với 160.000 thẻ
Bảo hiểm y tế, bằng 13,8% tổng số thẻ Bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh. Các hoạt
động y tế dự phòng được tích cực triển khai, nhất là phòng chống dịch bệnh,
không để dịch bệnh lớn xảy ra; thực hiện tốt chương trình tiêm chủng mở rộng;
quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, thuốc chữa bệnh. Mạng lưới bệnh viện tiếp
tục được quan tâm đầu tư xây dựng, nâng cấp; hệ thống y tế cơ sở được củng cố
và phát triển. Chỉ đạo chuẩn bị thủ tục lập Dự án đầu tư xây dựng bệnh viện đa
khoa 1000 giường. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình có chuyển biến tích
cực; số sinh 6 tháng đầu năm là 12.560 trẻ, giảm 4,7% so với cùng kỳ năm 2012,
tỷ lệ sinh con thứ 3 là 12,4%, giảm 0,3%.
Sự nghiệp giáo dục, đào tạo tiếp
tục giữ vững và phát triển. Năm học 2012-2013, có 57/72 học sinh của tỉnh đạt
giải tại kỳ thi học sinh giỏi quốc gia; 51/57 học sinh đạt giải tại kỳ thi
Olympic khu vực Duyên hải và đồng bằng Bắc Bộ. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung
học phổ thông đạt 99,61%, tốt nghiệp giáo dục thường xuyên đạt 97,1%. Thái Bình
là một trong 05 tỉnh, thành phố trong cả nước được công nhận đạt phổ cập giáo dục
mầm non cho trẻ 5 tuổi, Ủy ban nhân dân tỉnh đã quyết định chuyển Trung tâm kỹ
thuật tổng hợp và hướng nghiệp thành phố thành Trung tâm Giáo dục thường xuyên
và hướng nghiệp cấp tỉnh; sáp nhập các Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp và hướng
nghiệp vào các Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện và chuyển về Sở Giáo dục -
Đào tạo quản lý; sáp nhập trường Trung cấp sư phạm mầm non vào trường Cao đẳng
sư phạm Thái Bình; chỉ đạo tổ chức kiểm soát việc dạy thêm, học thêm và quản lý
thu chi, không để xảy ra tình trạng lạm thu ở các cơ sở giáo dục. Chất lượng
công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, quản lý, chuyên môn nghiệp vụ và
năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ cho cán bộ chủ chốt các cấp được nâng cao;
cơ sở vật chất trường lớp và trang thiết bị dạy học tiếp tục được quan tâm đầu
tư theo hướng chuẩn hóa.
Chính sách an sinh xã hội và các
chính sách của nhà nước đối với người, gia đình có công, các đối tượng chính
sách xã hội được quan tâm chỉ đạo thực hiện, Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định
trích ngân sách trên 33 tỷ đồng tặng quà cho người có công, đối tượng bảo trợ
xã hội, người nghèo, người cao tuổi, Đảng viên 30 năm tuổi Đảng trở lên; các
huyện, thành phố trích ngân sách 6,5 tỷ đồng; tổng số tiền Tết hỗ trợ cho các
đối tượng chính sách, người nghèo... đạt trên 70 tỷ đồng. Thực hiện Đề án hỗ
trợ, cải thiện nhà ở cho người có công với cách mạng giai đoạn 2012-2013; đã
xây mới, tu sửa, nâng cấp 2.716 nhà (xây mới 1.889 nhà, sửa chữa 827 nhà), trong
đó có 14 nhà phát sinh mới của huyện Hưng Hà, đạt 100% kế hoạch. Trong 6 tháng
đầu năm đã duyệt cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho 350 đối tượng người có công và 100%
đối tượng là người nghèo và người cận nghèo (70.882 người nghèo và 50.196 người
cận nghèo); rà soát, bổ sung hồ sơ người bị nhiễm chất độc hóa học: tổ chức đào
tạo nghề cho trên 11.050 lao động, đạt 33% kế hoạch; giải quyết việc làm mới
cho 14.810 lao động, đạt 46,3% kế hoạch; trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cho 1.402
lao động; duyệt trợ cấp ưu đãi học sinh, sinh viên đợt 1 cho 12.421 lượt người,
tổng kinh phí 16,3 tỷ đồng; cho vay từ quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm 04 tỷ đồng,
tạo việc làm mới cho trên 400 lao động. Toàn tỉnh hiện còn 39.576 hộ nghèo (tỷ
lệ 6,8%), 21.408 hộ cận nghèo (tỷ lệ 3,68%).
Công tác khoa học và công nghệ được
chú trọng, đã phê duyệt 13 đề tài, dự án khoa học và công nghệ cấp nhà nước
(tổng kinh phí 65 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương hỗ trợ 30 tỷ đồng); 32
chương trình, đề tài, dự án khoa học và công nghệ cấp tỉnh; 39 đề tài, nhiệm vụ
khoa học và công nghệ cấp ngành (tổng kinh phí 12.998 triệu đồng, đạt 90% tổng
kinh phí đầu tư); có 75 công trình đề tài, giải pháp tham dự Hội thi Sáng tạo
khoa học, công nghệ và kỹ thuật tỉnh Thái Bình lần thứ 5 và 32 đề tài, giải
pháp tham dự cuộc thi sáng tạo thanh thiếu niên nhi đồng tỉnh Thái Bình lần thứ
I, năm 2012 - 2013. Công tác quản lý tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí
tuệ, an toàn bức xạ và hạt nhân được triển khai thực hiện tích cực; thực hiện
tốt công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý các vụ việc vi phạm về đo lường và
chất lượng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
3. Về thu hút đầu tư và phát triển
doanh nghiệp.
Sáu tháng đầu năm, có 40 dự án được
chấp thuận đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 2.041 tỷ đồng, bằng 97,5% cùng kỳ
năm trước. Đến nay, toàn tỉnh có 671 dự án đầu tư, tổng vốn đăng ký là 74.517
tỷ đồng, thu hút 140,5 nghìn lao động, trong đó có 421 dự án đã sản xuất, vốn đầu
tư 16.430 tỷ đồng, tạo việc làm cho 108,5 nghìn lao động (tăng 11 dự án và 694
tỷ đồng vốn đầu tư so với cuối năm 2012); 68 dự án đang xây dựng (vốn đầu tư
49.779 tỷ đồng); 135 dự án chưa nhận đất, đang hoàn thiện các thủ tục đầu tư
(vốn đầu tư 6.054 tỷ đồng); 47 dự án tạm dừng sản xuất, bỏ hoặc đã bị thu hồi
(vốn đầu tư 2.189 tỷ đồng). Toàn tỉnh hiện có 48 dự án FDI còn hiệu lực với
tổng vốn đầu tư 345 triệu USD, trong đó 44 dự án đã đi vào hoạt động, đóng góp
20,4% giá trị sản xuất công nghiệp và gần 60% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh; 16
dự án ODA đang triển khai thực hiện, tổng vốn 1.548 tỷ đồng; giải ngân 6 tháng
đạt trên 100 tỷ đồng, bằng 143% kế hoạch được giao.
Các thành phần kinh tế tiếp tục
được quan tâm, tạo điều kiện phát triển. Đến nay đã cơ bản hoàn thành việc
chuyển đổi, sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý theo Đề
án Chính phủ phê duyệt. Kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân được khuyến khích, tạo
điều kiện phát triển. Đến 30/6/2013, toàn tỉnh có 3.324 doanh nghiệp và 388 chi
nhánh đăng ký hoạt động với số vốn 23.077 tỷ đồng. Sáu tháng đầu năm có 251
doanh nghiệp và chi nhánh được thành lập, tăng 13,8% cùng kỳ năm trước, 304
doanh nghiệp, chi nhánh tạm ngừng hoạt động, giải thể, bằng 87,1% so với cùng
kỳ năm 2012.
4. Công tác quốc phòng, an ninh
và xây dựng củng cố chính quyền.
Các cấp, các ngành thực hiện tốt
lãnh đạo, chỉ đạo bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt
trong dịp Tết Nguyên đán, đã huy động cả hệ thống chính trị, phát động phong
trào rộng khắp, tuyên truyền, vận động nhân dân và tăng cường tuần tra, kiểm
tra, giám sát thực hiện nghiêm túc Pháp lệnh 16 và Nghị định 36/NĐ-CP, toàn
tỉnh cơ bản không có pháo nổ; số vũ khí và vật liệu nổ thu được bằng cả 12 năm
về trước, là 1 trong 5 tỉnh được Thủ tướng Chính phủ biểu dương. Tăng cường
điều tra, triệt phá các ổ nhóm tội phạm, trật tự an toàn giao thông có chuyển
biến tích cực, tai nạn giao thông giảm 2 chỉ số.
Công tác tuyển chọn, gọi công dân
nhập ngũ bảo đảm đủ quân số, an toàn, đúng pháp luật; thực hiện tốt công tác
huấn luyện, duy trì chế độ trực ban, sẵn sàng chiến đấu. Các lực lượng an ninh,
quân sự, biên phòng chủ động nắm chắc tình hình, tham mưu cho cấp ủy, chính
quyền kịp thời giải quyết các vướng mắc ở cơ sở, giữ vững an ninh chính trị và
trật tự an toàn xã hội.
Công tác cải cách hành chính, nâng
cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước được tăng cường, từng bước đem lại hiệu
quả thiết thực. Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt Kế hoạch công tác cải cách hành
chính và kế hoạch tuyên truyền cải cách hành chính năm 2013; chỉ đạo các cấp
các ngành tiếp tục rà soát, bãi bỏ hoặc đề xuất bãi bỏ những thủ tục rườm rà,
chồng chéo; thực hiện niêm yết đầy đủ, công khai, minh bạch các thủ tục hành chính;
sửa đổi, bổ sung Quyết định số 19/2009/QĐ-UBND về cơ chế một cửa liên thông
trong hoạt động đầu tư của tỉnh; phê duyệt Đề án thực hiện một cửa, một cửa
liên thông hiện đại ở cấp huyện giai đoạn 2013-2014, chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trên địa bàn tỉnh, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân khi thực hiện các thủ tục hành chính;
triển khai Bộ chỉ số đánh giá cải cách hành chính trong các cơ quan quản lý Nhà
nước của tỉnh; tiếp tục chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động
cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh. Việc
ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước có bước phát triển mạnh
(đến nay, toàn tỉnh có 70 cơ quan, đơn vị triển khai Mạng văn phòng điện tử
liên thông), Thái Bình là một trong các tỉnh đi đầu thực hiện ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo điều hành của các cơ quan nhà nước. Năm 2012,
Thái Bình có chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) xếp
thứ 2, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) xếp thứ 25/63 tỉnh, thành phố.
Duy trì và thực hiện tốt công tác
tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Sáu tháng đầu năm, số lượng đơn thư
kiến nghị, khiếu nại, tố cáo giảm 3,1%; giải quyết 90% số đơn kiến nghị, 83,6%
đơn khiếu nại, tố cáo; tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng kéo
dài. Công tác thanh tra, kiểm tra có chuyển biến tích cực, đã triển khai 106
cuộc thanh tra, kiểm tra tại 557 lượt đơn vị, kiến nghị thu hồi 2,78 tỷ đồng và
2.700 m2 đất.
Công tác tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật; thẩm định, kiểm tra và rà soát văn bản quy phạm pháp luật,
hộ tịch, thi hành án được thực hiện nền nếp, chất lượng. Các hoạt động hành
chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý, công chứng, chứng thực từng
bước phục vụ tốt hơn yêu cầu của đời sống dân sinh. Công tác phòng, chống tham
nhũng có chuyển biến tích cực, góp phần ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội.
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể,
tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp bám sát nhiệm vụ
chính trị, tập trung củng cố nâng cao chất lượng, đổi mới phương thức hoạt
động, làm tốt công tác tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền về công tác vận động
quần chúng; động viên hội viên thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền; thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi;
đoàn kết giúp nhau xóa đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng; đấu tranh phòng,
chống tội phạm và tệ nạn xã hội; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đặc
biệt là phong trào “cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới; tham gia vào quản
lý xã hội và thực hiện pháp lệnh dân chủ, góp phần đảm bảo an sinh xã hội và
phát triển kinh tế”.
5. Một số tồn tại.
Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế
đạt thấp so với kế hoạch đề ra; đặc biệt là ảnh hưởng nặng nề của cơn bão số 8
năm 2012 đã làm giảm mạnh giá trị sản xuất nông nghiệp của tỉnh; sản xuất công
nghiệp, dư nợ tín dụng ngân hàng, sức mua hàng hóa, dịch vụ tăng trưởng còn
chậm; tiêu thụ nông sản, ngao, thịt lợn gặp khó khăn, giá cả thấp; hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn; số doanh nghiệp,
chi nhánh giải thể, phá sản và tạm dừng hoạt động còn lớn; các dự án đầu tư
hoàn thành đầu tư đi vào hoạt động đạt thấp.
Việc chấp hành Quy chế làm việc và
thực hiện Chương trình công tác của Ủy ban nhân dân tỉnh ở một số địa phương,
đơn vị chưa tốt; có đơn vị không thực hiện được theo kế hoạch đã đề ra; ở một
số địa phương, đơn vị còn đề nghị phát sinh nhiều nội dung ngoài chương trình
công tác năm đã được phê duyệt; nhiều văn bản chuyển đến Ủy ban nhân dân tỉnh
không đúng thẩm quyền và chưa đảm bảo chất lượng làm ảnh hưởng đến công tác chỉ
đạo, điều hành.
Sự phối hợp của một số địa phương, đơn
vị trong việc xây dựng chương trình, đề án trình Ủy ban nhân dân tỉnh còn chưa
tốt; việc chuẩn bị nội dung chương trình, đề án chưa chu đáo, không gửi các đề
án, dự án để Ủy ban nhân dân tỉnh và các ngành có liên quan nghiên cứu trước,
làm ảnh hưởng đến chất lượng của hội nghị, cuộc họp.
Công tác chỉ đạo, điều hành của một
số sở, ngành, địa phương còn thiếu cương quyết, chậm tham mưu ban hành, sửa
đổi, bổ sung các văn bản chỉ đạo, chưa nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu;
chưa chủ động nghiên cứu để tham mưu, đề xuất biện pháp chỉ đạo và giải quyết
công việc mà còn né tránh, đùn đẩy trách nhiệm; giải quyết một số chế độ, chính
sách cho doanh nghiệp chưa kịp thời.
Công tác quản lý đất đai, môi
trường và trật tự xây dựng ở một số sở, địa phương còn hạn chế. Tình trạng lãng
phí, phô trương, hình thức trong việc cưới, việc tang, lễ hội chưa giảm; vẫn
còn tình trạng quá tải trong khám chữa bệnh; công tác khám chữa bệnh bảo hiểm y
tế tại các trạm y tế xã ở một số địa phương triển khai chậm; tình trạng dạy
thêm, học thêm trái quy định vẫn còn xảy ra; số lao động được đào tạo nghề và
giải quyết việc làm đạt thấp so với kế hoạch. Tình hình khiếu nại, tố cáo còn
tiềm ẩn phức tạp, nhất là các khiếu nại, tố cáo liên quan đến đền bù, thu hồi đất.
Tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Công tác an toàn lao động
ở một số đơn vị chưa được quan tâm đúng mức, nhất là công tác phòng chống cháy,
nổ. Hiệu quả thực hiện cải cách hành chính và cơ chế “một cửa” nhất là về lĩnh
vực đầu tư chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu.
II. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG
CUỐI NĂM 2013.
Theo dự báo của Chính phủ, tình
hình kinh tế thế giới năm 2013 và những năm tiếp theo còn nhiều khó khăn, thách
thức, diễn biến phức tạp. Kinh tế trong nước còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn:
tổng cầu nền kinh tế sụt giảm, thu ngân sách gặp nhiều khó khăn; nợ xấu, tồn
kho, khó khăn thị trường bất động sản và khả năng hấp thụ đầu vào của khu vực
sản xuất chưa được cải thiện.
Để hoàn thành mục tiêu kế hoạch năm
2013 đã được Kỳ họp thứ 5 - Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XV thông qua, nhiệm vụ
còn lại của 6 tháng cuối năm rất nặng nề: So với năm 2012, tăng trưởng GDP
phải đạt 13,5% trở lên; giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản tăng 9,9%, trong
đó nông nghiệp tăng 9,7% (trồng trọt tăng 11,5%, chăn nuôi tăng 7,2%, thủy sản
tăng 10,7%); Công nghiệp và xây dựng tăng 15,1% (công nghiệp tăng 15,3%; xây
dựng tăng 13%); Dịch vụ tăng 13,4%. Tổng mức bán lẻ tăng 23,8%, kim ngạch xuất
khẩu 440 triệu USD; tổng vốn đầu tư phát triển xã hội đạt trên 13.640 tỷ đồng;
tạo việc làm mới cho 17.190 lao động... Các cấp, các ngành và nhân dân
trong tỉnh cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả các nhóm giải pháp điều hành phát
triển kinh tế - xã hội đã được Kỳ họp thứ 5 - Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XV
thông qua và Chương trình hành động số 04/CTHĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh
thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết 02/NQ-CP của Chính phủ, đồng
thời cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:
1. Tập trung chỉ đạo, tháo gỡ
khó khăn, hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh, trong đó chú trọng những
ngành, lĩnh vực trọng tâm, có khả năng tăng trưởng cao để phấn đấu thực hiện
đạt kế hoạch đề ra.
1.1. Về sản xuất nông, lâm và
thủy sản.
Tập trung chỉ đạo gieo cấy, chăm
sóc lúa mùa theo Đề án đã phê duyệt. Chủ động các biện pháp phòng ngừa, xử lý
hiệu quả tình hình sâu bệnh hại cây trồng; phấn đấu đạt năng suất lúa mùa 62
tạ/ha trở lên; tiếp tục chỉ đạo xây dựng cánh đồng mẫu ở vụ mùa, vụ đông; xây
dựng cơ chế chính sách hỗ trợ xây dựng cánh đồng mẫu trên phạm vi toàn tỉnh,
đảm bảo tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho nhân dân. Chỉ đạo quyết liệt sản xuất vụ
đông, tập trung gieo trồng các cây màu có giá trị kinh tế cao, phấn đấu đạt
diện tích 40.000 ha. Chủ động ứng phó, ngăn chặn và giảm thiểu thiệt hại khi có
thiên tai, bão lụt xảy ra.
Ban hành hướng dẫn thực hiện Quyết
định số 16/2012/QĐ-UBND về cơ chế quản lý, thực hiện quy hoạch khu chăn nuôi
tập trung và cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển chăn nuôi trang trại quy mô
lớn trên địa bàn tỉnh; tạo điều kiện hỗ trợ các chủ trang trại đẩy mạnh tái đàn
gia súc, gia cầm. Thực hiện tốt công tác kiểm dịch, kiểm soát vận chuyển, giết
mổ gia súc, gia cầm; công tác tiêm phòng vắcxin phòng chống dịch vụ thu đông,
không để dịch bệnh xảy ra; phấn đấu tăng trưởng chăn nuôi năm 2013 đạt 7% trở
lên (kế hoạch là 6,7%).
Chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương,
cơ sở làm tốt công tác chăm sóc và phòng trừ bệnh dịch đối với thủy sản nuôi;
đa dạng hóa các đối tượng nuôi và phương thức nuôi mới. Mở rộng sản xuất nuôi
ngao tại các tiểu vùng đã được quy hoạch; tổ chức thực hiện quy chế quản lý
vùng nuôi ngao đảm bảo hiệu quả, thúc đẩy phát triển nuôi trồng thủy sản. Xây
dựng và thực hiện hiệu quả Đề án phát triển các phương tiện khai thác xa bờ gắn
với đảm bảo quốc phòng an ninh và bảo vệ môi trường biển, đẩy mạnh khai thác
thủy sản ở tất cả các tuyến. Phấn đấu tăng trưởng thủy sản năm 2013 đạt 12% trở
lên (kế hoạch là 11,2%).
Chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ xây dựng
nông thôn mới ở 78 xã đã được phân bổ vốn hỗ trợ. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên
truyền, vận động các doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài tỉnh, nhân dân địa
phương tích cực tham gia đóng góp đầu tư xây dựng hạ tầng nông thôn mới. Triển
khai đánh giá, công nhận xã đạt chuẩn quốc gia về nông thôn mới; phấn đấu hết
năm 2013, toàn tỉnh có trên 09 xã hoàn thành 19 tiêu chí xây dựng nông thôn
mới. Xây dựng kế hoạch đầu tư xây dựng nông thôn mới năm 2014, rà soát, lựa
chọn danh mục đầu tư phù hợp với khả năng nguồn vốn và xây dựng kế hoạch huy
động nguồn vốn đầu tư từ các nguồn vốn huy động khác.
1.2. Về công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp và xây dựng cơ bản.
Tiếp tục thực hiện các chính sách
miễn, giảm, gia hạn nộp thuế và cơ cấu lại nợ, khoanh nợ, miễn giảm lãi vay...
cho doanh nghiệp theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ và các chính sách hỗ
trợ, khuyến khích đầu tư của tỉnh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm chi phí
sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Chủ động nắm bắt và kịp thời
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh (nhất
là về vốn, mặt bằng, nhân lực, thị trường tiêu thụ).
Đôn đốc đẩy nhanh tiến độ triển
khai các dự án được chấp thuận đầu tư, sớm đưa vào sản xuất; chủ động phối hợp
thực hiện, đảm bảo tiến độ các dự án lớn của Trung ương đang triển khai đầu tư
trên địa bàn tỉnh; xúc tiến đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án mới (khai
thác thử nghiệm than nâu, sản xuất Amôniac của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam...)
để tăng cường năng lực sản xuất công nghiệp và tạo nguồn thu cho ngân sách
tỉnh. Triển khai thực hiện tốt Đề án phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực, có
lợi thế cạnh tranh. Rà soát, đánh giá phát triển nghề và làng nghề, có giải
pháp hỗ trợ các làng nghề suy giảm, giữ vững phát triển nghề và làng nghề. Tiếp
tục cải tạo, nâng cấp, xây dựng các công trình lưới điện trung, cao áp, chống
quá tải, đảm bảo cấp điện ổn định, an toàn phục vụ sản xuất.
Tiếp tục thực hiện nghiêm túc, hiệu
quả Nghị quyết Trung ương 3 về tái đầu tư công, Chỉ thị số 1792/CT-TTg và Chỉ
thị số 27/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư và khắc
phục tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản. Đôn đốc đẩy nhanh tiến độ thực hiện,
giải ngân, thanh quyết toán kế hoạch vốn đầu tư năm 2013. Chỉ đạo quyết liệt
công tác giải phóng mặt bằng và tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, nhất là các
dự án trọng điểm của tỉnh. Thực hiện điều chuyển kế hoạch vốn của các công
trình, dự án chậm tiến độ để tập trung vốn cho các công trình, dự án trọng
điểm, các dự án hoàn thành, đưa vào sử dụng trong năm 2013, phát huy hiệu quả
đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám
sát đánh giá đầu tư, đảm bảo tuân thủ đúng các quy định của Nhà nước về đầu tư,
xây dựng, chống thất thoát, lãng phí.
Đẩy mạnh giải ngân các nguồn vốn
Chương trình mục tiêu quốc gia được giao, đảm bảo đúng quy định của nhà nước.
Tăng cường thu hút vốn ODA, NGO cho các dự án đầu tư về nước sạch, vệ sinh môi
trường, cấp thoát nước, năng lượng nông thôn và các lĩnh vực về y tế, dạy nghề,
thủy lợi...; đảm bảo vốn đối ứng và tháo gỡ khó khăn để đẩy nhanh tiến độ các
dự án. Tiếp tục báo cáo, đề xuất hỗ trợ đầu tư với Chính phủ và các Bộ, ngành
Trung ương để tăng nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.
Triển khai xây dựng kế hoạch đầu tư
trung hạn 2014-2015, xác định rõ nguồn lực có thể huy động và xây dựng danh mục
các công trình, dự án theo thứ tự ưu tiên, các dự án cấp thiết, quan trọng, tác
động lớn đến phát triển kinh tế-xã hội của địa phương để phân bổ đầu tư hợp lý,
tránh dàn trải, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và trách nhiệm của các cấp,
ngành trong quản lý và sử dụng vốn đầu tư, không để nợ đọng xây dựng cơ bản.
Đẩy nhanh tiến độ hạ tầng khu Trung
tâm y tế của tỉnh và các dự án đầu tư xây dựng Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh
viện Nhi, Bệnh viện Mắt, các trạm y tế xã; xây dựng trường Đại học Thái Bình,
trường Trung học phổ thông Chuyên ở địa điểm mới và các cơ sở giáo dục, dạy
nghề được bố trí kế hoạch vốn 2013. Đầu tư xây dựng một số công trình trên địa
bàn thành phố Thái Bình theo tiêu chí đô thị loại II. Tăng cường xã hội hóa để
huy động các nguồn lực cho phát triển các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa thể
thao, vệ sinh môi trường. Phấn đấu hết năm 2013 có thêm 30 trạm y tế xã và 48
trường học đạt chuẩn Quốc gia.
Tập trung đẩy nhanh tiến độ đầu tư
các dự án trọng điểm của tỉnh như: Trung tâm Điện lực, Nhà máy sản xuất Amôn
Nitrat, Dự án hệ thống thu gom và phân phối khí mỏ Hàm Rồng và mỏ Thái Bình
giai đoạn I, Dự án xây dựng nhà thi đấu đa năng, Dự án xây dựng Đền thờ các
liệt sĩ tại Thành phố Thái Bình,... lập dự án nắn tuyến đê biển số 8 từ K26+700
đến K31+700 kết hợp giao thông huyện Thái Thụy, huy động vốn để triển khai thực
hiện.
Tổ chức tốt việc xúc tiến đầu tư
theo kế hoạch; đẩy mạnh thu hút các dự án đầu tư quy mô lớn, công nghệ tiên
tiến, môi trường sạch và đảm bảo quốc phòng an ninh; không thu hút đầu tư tràn lan,
hiệu quả thấp. Tập trung thu hút đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp đã giải
phóng mặt bằng và có khu xử lý nước thải tập trung theo Nghị quyết 35/NQ-CP của
Chính phủ; tập trung giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng một số khu, cụm công
nghiệp để tạo mặt bằng thu hút đầu tư.
1.3. Về thương mại, dịch vụ.
Thực hiện có hiệu quả các giải pháp
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường và giải quyết nợ
xấu theo tinh thần Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ. Đẩy
mạnh phát triển thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường, tiêu thụ
sản phẩm thông qua việc thực hiện có hiệu quả công tác khuyến thương, phát
triển thương mại điện tử; ưu tiên xúc tiến tiêu thụ sản phẩm nông sản (nhất là
tiêu thụ ngao và thịt lợn) và các mặt hàng có lượng tồn kho cao. Thực hiện tốt
các giải pháp hỗ trợ đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của tỉnh, nhất là các thị
trường mới, tiềm năng. Thực hiện đồng bộ các biện pháp bình ổn giá, quản lý thị
trường; ngăn chặn đầu cơ, tăng giá bất hợp lý.
Triển khai thực hiện có hiệu quả
Quy hoạch tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của tỉnh đến năm 2020. Tăng cường
xúc tiến thu hút đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại theo hướng văn
minh, hiện đại; khuyến khích xây dựng chợ đầu mối, chợ nông thôn, gắn với xây
dựng nông thôn mới; phát triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ tài chính
ngân hàng, vận tải, bưu chính viễn thông, y tế, giáo dục.
2. Về công tác tài chính ngân
sách.
Rà soát, nắm chắc các đối tượng và
nguồn thu ngân sách trên địa bàn. Thưc hiện tốt công tác kiểm soát việc kê khai
thuế, quyết toán thuế của các doanh nghiệp, đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời
các khoản thuế, phí, lệ phí vào ngân sách nhà nước; quản lý chặt chẽ công tác
hoàn thuế. Thực hiện quyết liệt các biện pháp chống thất thu, gian lận thương
mại, chuyển giá để trốn thuế; tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế; tích cực khai
thác các nguồn thu còn tiềm năng để tăng nguồn thu ngân sách. Phấn đấu tăng thu
ngân sách so với dự toán được giao để bù đắp các phần giảm thu do thực hiện
chính sách của Chính phủ và bổ sung vốn cho đầu tư phát triển.
Điều hành ngân sách chủ động, tích
cực theo dự toán đã được phê duyệt, bảo đảm đúng chế độ quy định, tiết kiệm,
chống lãng phí. Rà soát, sắp xếp các nhiệm vụ chi theo thứ tự ưu tiên; cắt giảm
hoặc lùi thời gian thực hiện các nhiệm vụ chi chưa cần thiết. Đảm bảo nguồn
thực hiện các chế độ, chính sách đã ban hành và đảm bảo an sinh xã hội. Tăng
cường kiểm tra, giám sát, các khoản chi từ ngân sách nhà nước, thực hiện đúng
định mức, tiết kiệm, hiệu quả. Đề nghị tạm ứng vốn từ ngân sách Trung ương và
ngân sách tỉnh để thanh toán tối thiểu 60% vốn kiên cố hóa đê biển đã thực
hiện; ứng vốn kế hoạch năm 2014 để đầu tư hỗ trợ các xã hoàn thành xây dựng
nông thôn mới năm 2013.
3. Tiếp tục nâng cao chất lượng
các lĩnh vực văn hóa xã hội và thực hiện có hiệu quả các chính sách đảm bảo an
sinh xã hội.
Tổng hợp, đánh giá xếp loại thi đua
năm học của từng bậc học. Tổ chức tốt công tác tuyển sinh trung học phổ thông,
cao đẳng, đại học; chuẩn bị tốt cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, giáo viên cho
năm học mới và triển khai nhiệm vụ năm học 2013-2014. Tiếp tục triển khai thực
hiện có hiệu quả các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các cấp
học, các biện pháp quản lý dạy thêm, học thêm.
Tăng cường quản lý, nâng cao chất
lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân; tập trung chỉ đạo công tác phòng chống dịch
bệnh, đặc biệt là các bệnh, dịch nguy hiểm, xử lý kịp thời không để dịch lan
rộng; giám sát trọng điểm phòng chống HIV/AIDS. Tiếp tục tăng cường các hoạt
động truyền thông, thanh tra, kiểm tra và cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ
sinh an toàn thực phẩm. Thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản và
phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em tại trạm y tế xã. Tiếp tục đẩy mạnh công tác
khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tuyến xã, đào tạo cán bộ y tế cơ sở; nâng cao chất
lượng khám chữa bệnh ở các tuyến. Mở rộng số lượng người tham gia bảo hiểm xã
hội và bảo hiểm y tế tự nguyện. Hoàn thành xây dựng các đề án: phát triển y tế
biển đảo đến 2020; thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; thực hiện tiêu chí Quốc gia
về y tế xã giai đoạn đến 2015-2020; quy hoạch phát triển ngành y tế; đề án bệnh
viện vệ tinh của Bệnh viện đa khoa tỉnh và Bệnh viện Nhi... Thực hiện tốt công
tác tuyên truyền, lồng ghép cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đến các địa
phương có tỷ lệ sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 cao.
Thực hiện tốt các chính sách an
sinh xã hội, chính sách đối với người có công, người nghèo và đối tượng bảo trợ
xã hội. Tiếp tục thực hiện Đề án hỗ trợ, cải thiện nhà ở cho người có công với
cách mạng. Xây dựng Đền thờ các Liệt sĩ và Làng trẻ SOS của tỉnh theo tiến độ
được phê duyệt. Tiếp tục thực hiện tốt các chương trình, chính sách của Nhà
nước về cho vay đối với học sinh, sinh viên, hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở,
vay vốn giải quyết việc làm, dạy nghề cho lao động nông thôn, xây dựng nhà ở
cho công nhân lao động và người có thu nhập thấp. Tiếp tục thực hiện tốt công
tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm; giải quyết đầy đủ, kịp thời các chính
sách đối với người lao động. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận
thức của toàn xã hội về bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình, bảo vệ,
chăm sóc trẻ em.
Đẩy mạnh thực hiện nếp sống văn hóa
ở khu dân cư gắn với xây dựng nông thôn mới. Tăng cường đầu tư xây dựng các
thiết chế văn hóa cơ sở; tôn tạo, chống xuống cấp các di tích văn hóa, lịch sử.
Triển khai có hiệu quả các biện pháp phòng, chống tệ nạn xã hội, những biểu
hiện tiêu cực trong hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa. Đẩy nhanh
tiến độ hoàn thành Nhà thi đấu đa năng và các công trình phục vụ Đại hội Thể
dục thể thao toàn quốc lần thứ 7 năm 2014.
4. Đẩy mạnh triển khai các
chương trình đổi mới, ứng dụng khoa học công nghệ và quản lý tài nguyên, bảo vệ
môi trường.
Tiếp tục triển khai có hiệu quả
Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020, Đề án phát
triển khoa học và công nghệ tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011 - 2015 và Chương
trình khoa học và công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2012 -
2015. Tập trung đầu tư các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trọng điểm, phục vụ
phát triển nông nghiệp, nông thôn. Khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp cải
tiến, đổi mới công nghệ và chuyển giao các tiến bộ khoa học và công nghệ vào
sản xuất.
Hoàn thành quy hoạch sử dụng đất
đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011-2015) ở cấp huyện và xã. Tăng
cường công tác quản lý đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân có đủ điều kiện. Tiếp tục triển khai Nghị quyết
Trung ương 7 (khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản
lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ về một
số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; tạm dừng thu hút đầu tư
vào các khu, cụm công nghiệp chưa có khu xử lý nước thải tập trung; xây dựng cơ
chế chính sách khuyến khích đầu tư khu xử lý nước thải tập trung ở các khu, cụm
công nghiệp. Tiếp tục triển khai đầu tư xây dựng khu xử lý rác thải sinh hoạt gắn
với lò đốt rác ở các thị trấn; xây dựng hệ thống xử lý nước thải, chất thải
nguy hại, chất thải y tế ở các bệnh viện; đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án xử
lý nước thải của thành phố Thái Bình; xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng.
5. Tiếp tục
đẩy mạnh cải cách hành chính; cải thiện môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh
doanh và thu hút đầu tư.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các
giải pháp về cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh
của tỉnh (PCI), duy trì chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh
(PAPI), trong đó tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính, tập trung cải cách bộ
máy và công chức, công vụ; hoàn thành sửa đổi, bổ sung Quyết định số
19/2009/QĐ-UBND và Quyết định số 21/2009/QĐ-UBND về thực hiện cơ chế một cửa
liên thông trong hoạt động đầu tư; triển khai thực hiện bộ chỉ số theo dõi,
đánh giá cải cách hành chính đối với huyện, thành phố và các sở, ngành của tỉnh;
chủ động tháo gỡ vướng mắc về thủ tục hành chính, cơ chế, chính sách, nhân lực,
mặt bằng...; tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung các cơ chế chính sách hiện
hành của tỉnh, loại bỏ những rào cản đầu tư bất hợp lý; nghiên cứu xây dựng
chính sách khuyến khích phát triển một số ngành, lĩnh vực có tác động lớn đến
phát triển kinh tế của tỉnh... để tháo gỡ khó khăn, thu hút đầu tư. Tập trung
chỉ đạo để sớm đưa Bộ phận Một cửa liên thông của tỉnh trong lĩnh vực đầu tư
vào hoạt động. Tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thi tuyển công chức năm 2013.
Hoàn thành xây dựng kế hoạch phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2011-2015. Triển khai thực hiện đồng bộ
các chính sách, giải pháp trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa theo
Quyết định số 1231/QĐ-TTg ngày 07/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ; chính sách
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định số
61/NĐ-CP của Chính phủ; khuyến khích, tạo điều kiện phát triển mô hình hợp tác
xã kiểu mới theo Luật Hợp tác xã năm 2012... Triển khai chương trình phối hợp
với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt ... và tư vấn cải thiện môi trường
kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng thu hút đầu tư của tỉnh,
hỗ trợ cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Các cấp, các ngành căn cứ vào chức
năng, nhiệm vụ được giao tham mưu với Ủy ban nhân dân tỉnh để chỉ đạo, triển
khai thực hiện kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ tại buổi làm việc với lãnh
đạo tỉnh Thái Bình về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
6. Tăng cường
công tác quốc phòng, an ninh, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, phòng chống tham
nhũng, lãng phí, tạo sự đồng thuận xã hội trong thực hiện nhiệm vụ năm 2013.
Giữ vững ổn định an ninh chính trị
và trật tự an toàn xã hội. Thực hiện có hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc. Tăng cường công tác đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm,
phòng chống ma túy. Tiếp tục thực hiện nghiêm chiến lược an ninh quốc gia, bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nâng cao chất lượng nền quốc phòng toàn dân và
an ninh nhân dân; tăng cường quản lý nhà nước về công tác tôn giáo. Thực hiện
tốt công tác giáo dục quốc phòng toàn dân; huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bảo
vệ an ninh biên giới vùng biển.
Tăng cường công tác đảm bảo trật tự
an toàn giao thông; thường xuyên tổ chức tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các
hành vi vi phạm về an toàn giao thông; thực hiện quyết liệt việc kiểm tra, xử
lý các vi phạm về quản lý, sử dụng pháo, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và vật
liệu nổ. Làm tốt công tác khám tuyển, gọi công dân nhập ngũ đợt II năm 2013 bảo
đảm đủ chỉ tiêu và chất lượng; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu
nại, tố cáo của công dân, giải quyết triệt để các vụ việc phức tạp, kéo dài.
Tăng cường pháp chế; quán triệt, chủ động nắm tình hình, phát hiện và xử lý kịp
thời những hành vi tham nhũng, lãng phí.
Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến
đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và của tỉnh để tạo sự
đồng thuận và quyết tâm cao trong triển khai thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ kế
hoạch năm 2013. Tăng cường sự lãnh đạo về thông tin báo chí; thực hiện công
khai, minh bạch và chủ động cung cấp thông tin về các vấn đề được xã hội quan
tâm. Đề cao vai trò và trách nhiệm của các cơ quan thông tin đại chúng, bảo đảm
thông tin khách quan, trung thực, đúng định hướng của Nhà nước; tạo không khí
thi đua sôi nổi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2013, góp phần quan trọng thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 của tỉnh./.
Nơi nhận:
- Chính phủ;
- Văn phòng Chính phủ;
- TT tỉnh ủy, TT HĐND tỉnh;
- Đại biểu HĐND tỉnh;
- Các sở, ban, ngành;
- UBND huyện, thành phố;
- Lưu: VT, TH.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Phạm Văn Ca
|