UỶ
BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
----------
|
Số:
245 BC/UBTVQH12
|
Hà
Nội, ngày 17 tháng 06 năm 2009
|
BÁO CÁO
GIẢI
TRÌNH, TIẾP THU, CHỈNH LÝ DỰ THẢO LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT ĐIỆN
ẢNH
Kính gửi: Các vị đại
biểu Quốc hội,
Tại buổi thảo luận Tổ chiều 22
tháng 5 và thảo luận ở Hội trường sáng 28 tháng 5 năm 2009, các vị đại biểu Quốc
hội đã đóng góp nhiều ý kiến cho dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Điện ảnh.
Đa số các vị đại biểu cơ bản tán
thành về nội dung sửa đổi, bổ sung thể hiện trong dự thảo Luật , đồng thời đã
góp nhiều ý kiến vào một số điều, khoản cụ thể.
Sau phiên họp sáng 28/5/2009 của
Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo Uỷ ban Văn hóa, Giáo dục,
Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng và cơ quan soạn thảo nghiên cứu, tiếp thu ý
kiến của các vị đại biểu Quốc hội để hoàn thiện dự thảo Luật trình Quốc hội xem
xét, thông qua tại kỳ họp này.
UBTVQH xin báo cáo giải trình,
tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh
như sau:
1. Một số điều liên quan đến cam
kết của Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO)
1.1 Về liên doanh, liên kết
trong lĩnh vực sản xuất phim, phát hành phim và phổ biến phim
- Có ý kiến cho rằng, về quy định
mức vốn góp của phía nước ngoài không quá 51% vốn pháp định của liên doanh,
tỷ lệ 51% về bản chất là không khác với tỷ lệ 90%; có ý kiến băn khoăn về việc
các doanh nghiệp liên doanh có tỷ lệ góp vốn của phía nước ngoài trên 51% đã được
thành lập theo Luật hiện hành thì xử lý ra sao?
UBTVQH giải trình như sau: mức
vốn góp của phía nước ngoài không quá 51% vốn pháp định của liên doanh là tỷ lệ
chúng ta đã cam kết khi gia nhập WTO và đã được Quốc hội khóa XI phê chuẩn tại
Nghị quyết số 71/2006/QH11. Theo quy định tại khoản 3 Điều
104 Luật Doanh nghiệp về thẩm quyền của đại hội cổ đông, thì
những cổ đông có tỷ lệ vốn góp 65%, 75% và 100% có quyền hạn khác
nhau. Vì vậy, UBTV xin giữ quy định tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài là không
quá 51% vốn pháp định như trong Dự thảo Luật.
Sau khi Luật này có hiệu lực,
theo quy định tại Điều 170 Luật Doanh nghiệp, những doanh
nghiệp liên doanh có tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài trên 51% đã thành lập từ
trước vẫn được tiếp tục hoạt động đến hết thời hạn ghi trong Giấy phép đầu tư .
- Có ý kiến băn khoăn về cụm
từ “dịch vụ sản xuất phim” trong Điều 23 Luật Điện ảnh
có trùng với khái niệm “dịch vụ sản xuất phim” trong Biểu cam kết của
Việt Nam gia nhập WTO không?
UBTVQH giải trình như sau: cụm
từ “dịch vụ sản xuất phim” trong Biểu cam kết của Việt Nam gia nhập WTO là
ngành dịch vụ sản xuất phim, còn cụm từ “dịch vụ sản xuất phim” tại Điều 23 trong Luật Điện ảnh hiện hành được hiểu là dịch
vụ cung cấp các phương tiện, thiết bị …để sản xuất từng bộ phim cho
tổ chức, cá nhân nước ngoài. Do vậy nội dung hai khái niệm này là khác
nhau.
1.2 Về tiêu chuẩn giám đốc doanh
nghiệp sản xuất phim
- Một số ý kiến đề nghị bổ
sung quy định về tiêu chuẩn giám đốc doanh nghiệp sản xuất phim phải cư trú tại
Việt Nam, có tài khoản tại ngân hàng Việt Nam.
UBTVQH nhận thấy, vấn đề quan trọng
nhất là kiểm soát nội dung phim trước khi phổ biến. Trong Luật Điện ảnh hiện
hành đã qui định cụ thể về điều kiện được cấp phép phổ biến phim sản xuất trong
nước và phim nhập khẩu. Theo đó, cơ quan quản lý nhà nước về điện ảnh kiểm soát
nội dung trước khi phim được đưa ra phổ biến, không phân biệt đó là phim do
doanh nghiệp trong nước hay nước ngoài sản xuất. Những quy định về điều kiện cư
trú tại Việt Nam, có tài khoản tại ngân hàng Việt Nam đối với giám đốc
doanh nghiệp sản xuất phim là người nước ngoài thực tế ít tác dụng. Luật Doanh
nghiệp và Luật Đầu tư cũng không quy định những điều kiện này. Do đó,
UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ quy định như trong Dự thảo Luật để đảm bảo
tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
1.3 Về điều kiện nhập khẩu phim
- Nhiều ý kiến đề nghị bỏ điều
kiện có rạp đối với doanh nghiệp điện ảnh khi nhập khẩu phim; ngược lại,
cũng có ý kiến cho rằng điều kiện “có rạp” là rào cản kỹ thuật để hạn chế việc
nhập khẩu phim.
Về vấn đề này, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội thấy rằng, tại Tờ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội số 189/TTr-CP ngày
12/12/2008, Chính phủ đề nghị sửa đổi điều kiện nhập khẩu phim như sau: “Doanh
nghiệp điện ảnh có rạp chiếu phim được quyền nhập khẩu phim theo qui định của
pháp luật về xuất khẩu, nhập khẩu”.
Tiếp thu ý kiến tại các phiên họp
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã rút đề xuất nêu trên, không đề nghị
sửa đổi nội dung này trong Tờ trình Quốc hội số 62/TTr-CP ngày 05/5/2009.
2. Về sản xuất phim đặt hàng, sử
dụng ngân sách nhà nước
- Nhiều ý kiến đại biểu tán
thành rằng áp dụng phương thức đấu thầu sản xuất phim thì phải theo quy
định của Luật Đấu thầu, nhưng cần lưu ý đến tính đặc thù của lĩnh vực
sản xuất phim để vận dụng sao cho phù hợp; có ý kiến đề nghị giao cho Chính
phủ quy định chi tiết việc này.
UBTVQH nhận thấy đấu thầu trong
sản xuất phim có tính đặc thù riêng. Việc đấu thầu sản xuất phim không chỉ
căn cứ vào giá thành mà còn phụ thuộc vào phương án sản xuất, năng lực của đạo
diễn, quay phim, diễn viên cũng như các thành phần sáng tác khác. Tiếp thu ý kiến
của đại biểu, UBTVQH đề nghị sửa Khoản 3 Điều 24 như sau:
“3. Đối với phim sử dụng ngân
sách nhà nước, chủ đầu tư dự án sản xuất phim phải thành lập Hội đồng thẩm định
kịch bản; được quyết định hình thức đấu thầu theo quy định của pháp luật về đấu
thầu để lựa chọn dự án sản xuất phim, bảo đảm chất lượng tác phẩm và hiệu quả
kinh tế-xã hội.
Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành khoản này.”
3. Về vấn đề quản lý phim phát
sóng trên truyền hình
- Nhiều ý kiến đề nghị làm rõ
trách nhiệm giữa Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch với Bộ Thông tin -Truyền
thông và các đài truyền hình trong việc quản lý nội dung phim phát sóng
trên truyền hình.
UBTVQH thấy rằng, theo quy định
của Luật Điện ảnh hiện hành, Bộ Văn hoá - Thông tin chịu trách nhiệm giúp
Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về điện ảnh; Tổng Giám đốc,
Giám đốc các đài phát thanh – truyền hình được quyền quyết định và
chịu trách nhiệm về nội dung phim phát sóng trên đài của mình; tại Khoản 2 Điều 38 Luật Điện ảnh cũng quy định: “Bộ Văn hóa –
Thông tin có quyền thu hồi giấy phép phổ biến phim, quyết định phát sóng phim
truyền hình”. Khi có sự thay đổi cơ cấu tổ chức của Chính phủ, chức năng quản
lý nhà nước về điện ảnh vẫn được giao cho Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, còn
chức năng quản lý nhà nước về truyền hình được giao cho Bộ Thông tin – Truyền
thông. Tuy nhiên, thời gian qua, việc quản lý phim phát sóng trên truyền hình
còn lỏng lẻo, sự phối hợp giữa hai bộ về vấn đề này chưa chặt chẽ.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH
đề nghị Chính phủ quy định cơ chế phối hợp quản lý phim trên truyền hình và đã
bổ sung khoản 4 Điều 39 giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
ban hành quy chế thẩm định phim phát sóng trên truyền hình.
- Nhiều ý kiến đại biểu đề nghị
quy định tại Luật Điện ảnh tỷ lệ thời lượng chiếu phim Việt Nam trên truyền
hình, tại sao tỷ lệ lại chỉ là 30% mà không cao hơn?
Uỷ ban thường vụ Quốc hội thấy rằng,
tỷ lệ thời lượng phát sóng phim Việt Nam trên truyền hình đã được quy định
tại Nghị định 48-CP (năm 1995) của Chính phủ là 50%, Tuy nhiên, sau hơn 10 năm
thi hành, các đài truyền hình vẫn chưa thực hiện được tỷ lệ đó. Nguyên nhân chủ
yếu là năng lực sản xuất phim trong nước còn hạn chế. Vì vậy, tại Nghị
định số 96/2007/NĐ-CP Chính phủ quy định tỷ lệ chiếu phim Việt Nam trên
truyền hình ít nhất là 30%. Đến nay, một số đài truyền hình đã đạt được tỷ
lệ này; một số đài đã vượt nhưng còn nhiều đài chưa đạt. Nếu quy định tỷ lệ
cao hơn 30% thì không khả thi. Hơn nữa, tỷ lệ này có thể thay đổi theo năng
lực sản xuất phim trong nước. Vì thế, không quy định tỷ lệ này trong Luật
mà quy định tại Nghị định của Chính phủ là phù hợp.
- Một số đại biểu đề nghị cần
quy định tỷ lệ phim giữa các nước, tránh tình trạng chiếu quá nhiều phim của
một số nước như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc…
Về vấn đề này, UBTVQH thấy rằng
khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, việc quy định
cụ thể tỷ lệ phim của các nước chiếu tại Việt Nam là không phù hợp với nguyên
tắc tự do thương mại của WTO. Vì vậy không nên quy định vấn đề này trong
Luật để đảm bảo tự do cạnh tranh, bình đẳng giữa các nước. Tuy
nhiên, trong công tác quản lý nhà nước, chúng ta cần coi trọng công
tác thẩm định phim, nhất là cần có quy chế thẩm định phim phát sóng
trên truyền hình như nêu ở phần trên.
- Có ý kiến đại biểu đề nghị
quy định cụ thể thời lượng quảng cáo trên phim và có chế tài xử lý đối với
hành vi vi phạm trong hoạt động này.
UBTVQH nhận thấy, việc quy định
về thời lượng quảng cáo trong phim trên truyền hình đã được quy định tại Điều 10 và Điều 12 Pháp lệnh Quảng cáo, còn chế tài xử phạt
vi phạm về quảng cáo phim trên truyền hình đã được quy định trong Nghị định
56/CP-NĐ của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa –
thông tin. Do vậy, không quy định những vấn đề trên tại Luật này.
- Có ý kiến đề nghị nên bỏ cụm từ
“là cơ quan báo chí” sau cụm từ “việc sản xuất phim truyền hình của Đài truyền
hình Việt Nam, đài truyền hình, đài phát thanh - truyền hình” trong Điều 25 Dự
thảo Luật.
UBTVQH nhận thấy, hệ thống đài
truyền hình của nước ta hiện nay gồm có: Đài truyền hình Việt Nam, đài phát
thanh – truyền hình cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Đài truyền hình
kỹ thuật số VTC và đài truyền hình thành phố, thị xã thuộc tỉnh. Theo quy định
của Luật Báo chí, chỉ có Đài truyền hình Việt Nam, đài phát thanh-truyền hình cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Đài truyền hình kỹ thuật số VTC là cơ
quan báo chí. Do vậy, đề nghị giữ cụm từ trên như trong Dự thảo Luật.
- Có ý kiến đề nghị không nên
thay cụm từ “Tổng Giám đốc, Giám đốc” bằng cụm từ “người đứng đầu” đài truyền
hình; có ý kiến cho rằng cần quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các
đài truyền hình đối với việc phát sóng phim trên truyền hình.
Về vấn đề này, UBTVQH thấy rằng,
khoản 1 Điều 13 Luật Báo chí quy định: “người đứng đầu cơ
quan báo chí là Tổng biên tập (báo in) hoặc Tổng giám đốc, Giám đốc (đài phát
thanh, đài truyền hình, cơ sở thực hiện chương trình nghe - nhìn thời sự). Như
vậy, người đứng đầu ở đây chính là Tổng giám đốc, Giám đốc các đài truyền hình,
phát thanh- truyền hình. Do đó, việc thay cụm từ “Tổng giám đốc, Giám đốc các
đài truyền hình, đài phát thanh-truyền hình” bằng cụm từ “người đứng đầu” là hợp
lý. Trách nhiệm cụ thể của người đứng đầu đài truyền hình, đài phát
thanh – truyền hình đã được quy định tại điểm c khoản 1 Điều
38 Luật Điện ảnh và khoản 3 Điều 13 Luật Báo chí.
4. Về hội đồng thẩm định phim
- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy
định thành lập và quy chế hoạt động của Hội đồng thẩm định phim phát sóng
trên truyền hình; có ý kiến đề nghị làm rõ tiêu chí thẩm định phim và
trách nhiệm của Hội đồng thẩm định phim.
UBTVQH cho rằng, tại Điều 39 Luật Điện ảnh hiện hành đã quy định thẩm quyền
thành lập Hội đồng thẩm định phim, trách nhiệm và cơ cấu của Hội đồng, trong đó
bao gồm cả Hội đồng thẩm định phim phát sóng trên truyền hình, nhưng chưa quy định
về tiêu chí thẩm định phim. Thực tế hiện nay việc thẩm định phim phát sóng trên
truyền hình và phim phổ biến tại rạp chưa được thống nhất. Có hiện tượng một số
phim không được cấp phép phổ biến tại rạp nhưng vẫn được phát sóng trên truyền
hình. Để khắc phục tình trạng trên, việc quy định tiêu chí thẩm định phim chung
cho cả loại phim phổ biến tại rạp và phim phát sóng trên truyền hình là cần thiết.
Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH bổ sung khoản 4 Điều 39
như sau:
“4. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
có trách nhiệm ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng thẩm định
phim phổ biến tại rạp, phim phát sóng trên truyền hình.”.
- Có ý kiến đề nghị bổ sung
thành phần dân tộc vào Hội đồng thẩm định phim.
UBTVQH thấy rằng, Điều
6 Quy chế thẩm định phim của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch ban hành kèm theo
Quyết định số 49/2008/QĐ-BVHTTDL quy định thành phần Hội đồng thẩm định
phim bao gồm: “Đại diện người đứng đầu cơ quan cấp giấy phép phổ biến phim; đạo
diễn, biên kịch, lý luận phê bình và các chức danh khác. Trường hợp cần thiết,
Chủ tịch hội đồng sau khi thống nhất với người đứng đầu cơ quan cấp giấy phép
phổ biến phim có thể mời thêm một số chuyên gia thuộc lĩnh vực có liên quan để
tham khảo ý kiến”. Như vậy, căn cứ vào nội dung phim, có thể mời đại diện dân
tộc tham gia thẩm định.
- Có ý kiến đại biểu đề nghị
không nên giao cho các địa phương duyệt phim nhập khẩu mà phải để Trung ương
duyệt và cấp giấy phép phổ biến.
Về vấn đề này, Uỷ ban thường
vụ Quốc hội nhận thấy, điểm a khoản 1 Điều 38 Luật Điện ảnh
hiện hành quy định: “Bộ Văn hóa- Thông tin cấp giấy phép phổ biến phim đối với
phim sản xuất và nhập khẩu của cơ sở điện ảnh thuộc Trung ương, cơ sở điện ảnh
thuộc địa phương và cơ sở điện ảnh tư nhân trong phạm vi cả nước, trừ trường hợp
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh được Chính phủ giao cấp giấy phép phổ biến phim.”.
Như vậy hầu hết phim truyện sản
xuất trong nước và phim nhập khẩu đều do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch duyệt
và cấp phép. Trong trường hợp địa phương có đủ điều kiện và được Chính phủ giao
cấp giấy phép phổ biến phim, thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải thành lập Hội đồng
thẩm định hoạt động theo quy chế thẩm định phim do Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch
ban hành.
5. Một số nội dung khác
- Có ý kiến đề nghị nên sửa tổng
thể Luật Điện ảnh, bổ sung vào Luật Điện ảnh những vấn đề cấp thiết,
phát sinh trong quá trình thi hành.
Về vấn đề này, UBTVQH xin giải
trình như sau: Luật điện ảnh đã đi vào đời sống và tác động tích cực đến
hoạt động điện ảnh nước nhà; huy động được nhiều nguồn lực tham gia
hoạt động điện ảnh; cơ sở điện ảnh nhà nước và tư nhân được bình đẳng trong
hoạt động sản xuất phim, phát hành phim và phổ biến phim. Nhờ đó, việc
sản xuất phim trong nước được đẩy mạnh, tỷ lệ chiếu và phát sóng
phim Việt Nam đã được nâng cao, góp phần làm cho nền điện ảnh nước nhà khởi sắc.
Sửa đổi Luật Điện ảnh lần này để
thực hiện cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO),
đồng thời sửa một số quy định bất cập mới phát sinh trong thực tế hai năm thi
hành Luật.
- Có ý kiến đại biểu cho rằng
Luật Điện ảnh chưa có chính sách cho phim về đề tài dân tộc, miền núi; có
ý kiến đề nghị đưa đề tài dân tộc, miền núi vào đối tượng của Quỹ hỗ phát
triển điện ảnh; có ý kiến đề nghị bổ sung vào Luật chính sách đào tạo
diễn viên.
UBTVQH cho rằng, chính sách cho
phim về các đề tài dân tộc, miền núi đã được quy định tại Điều
5 Luật Điện ảnh hiện hành về Chính sách của Nhà nước về phát triển điện ảnh,
cụ thể là :khoản 4 quy định: “Tài trợ cho việc sản xuất phim truyện về đề tài
thiếu nhi, truyền thống lịch sử, dân tộc thiểu số…”; khoản 5 quy định “Tài trợ
cho việc phổ biến phim phục vụ miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa….” . Nghị định
số 96/2007/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành những
điều khoản trên. Hơn nữa, đối với phim về đề tài dân tộc, miền núi có nội dung
phù hợp với quy định của Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh cũng sẽ được hưởng các
chính sách từ Quỹ này.
Về chính sách đào tạo diễn
viên, UBTVQH nhận thấy vấn đề này đã được thể hiện tại khoản 3,
Điều 5 Luật Điện ảnh hiện hành: “… đào tạo, bồi dưỡng nhân lực về chuyên
môn, nghiệp vụ và quản lý hoạt động điện ảnh…”.
- Có ý kiến đề nghị cần
có quy định về bảo hiểm cho phim và thành viên đoàn làm phim.
UBTVQH thấy rằng, đây là vấn đề
mới, cần có thời gian để nghiên cứu thêm và sẽ đề nghị Chính phủ xem xét để có
thể quy định tại các văn bản pháp luật về bảo hiểm.
- Có ý kiến đại biểu đề nghị cần
phân biệt mô hình tổ chức và hoạt động của các đài truyền hình là đơn vị sự
nghiệp hay doanh nghiệp.
UBTVQH thấy rằng, mô hình tổ
chức và hoạt động của các đài truyền hình đã được quy định trong Luật Báo
chí, nên không quy định trong Luật này.
- Có ý kiến đại biểu cho rằng cần
tăng thuế để điều tiết phim nhập khẩu.
UBTVQH nhận thấy, việc tăng thuế
để điều tiết phim nhập khẩu là cần thiết. Tuy nhiên, tùy theo từng thời điểm mà
quy định các mức thuế phù hợp trong hệ thống pháp luật về thuế, mà không quy định
trong Luật Điện ảnh.
- Có ý kiến đại biểu đề nghị
bổ sung đối tượng Hợp tác xã là một loại hình cơ sở điện ảnh.
Về vấn đề này, UBTVQH thấy
rằng, Điều 12 Luật Điện ảnh hiện hành quy định các loại
hình cơ sở điện ảnh, trong đó, tuy không quy định cụ thể Hợp tác xã là một loại
hình cơ sở điện ảnh nhưng tại điểm g của điều này có ghi “Cơ sở điện ảnh khác
theo quy định của pháp luật”. Điều 5 Luật Điện ảnh hiện
hành quy định Nhà nước khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động điện
ảnh, được thực hiện các quyền và nghĩa vụ bình đẳng trước pháp luật về điện ảnh.
Tuỳ từng trường hợp cụ thể, đối tượng tham gia hoạt động điện ảnh có thể lựa chọn
mô hình tổ chức phù hợp với điều kiện và khả năng của mình theo quy định của
pháp luật.
- Có ý kiến đại biểu đề nghị
trong Luật nên xây dựng một chương về hợp tác Quốc tế.
UBTVQH thấy rằng, các quy định về
hợp tác quốc tế trong Luật Điện ảnh hiện hành về cơ bản đã được thể hiện cụ thể
trong 8 điều ở 4 chương: Sản xuất phim, Phát hành phim, Phổ biến phim, Thanh
tra và xử lý vi phạm. Các điều này liên quan trực tiếp đến nội dung chuyên
ngành của từng chương, nên không thể nhập thành một chương riêng.
- Có ý kiến cho rằng cần xem lại
các quy định về trách nhiệm, quyền hạn của thanh tra trong Dự thảo luật Điện ảnh
để phù hợp với Luật Thanh tra.
UBTVQH giải trình như sau: Khoản 3 điều 48 Luật Điện ảnh qui định: “Tổ chức và hoạt động
của thanh tra điện ảnh được thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về
thanh tra.”. Vì vậy, nhiệm vụ, chức năng, trách nhiệm, quyền hạn của thanh tra
điện ảnh cũng thực hiện theo qui định chung của pháp luật về thanh tra.
Tuy nhiên, tại khoản
1 Điều 48 Luật Điện ảnh hiện hành quy định “Thanh tra điện ảnh thuộc thanh
tra Bộ văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) thực hiện
thanh tra chuyên ngành về điện ảnh.”, như vậy là không bao gồm thanh tra của
các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Vì vậy, tiếp thu ý kiến các vị đại biểu,
UBTVQH đã sửa đổi khoản 1 Điều 48 Dự thảo Luật như sau “1. Thanh tra Bộ Văn
hoá, Thể thao và Du lịch, thanh tra Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành về điện ảnh.”.
6. Về kỹ thuật văn bản
- Có ý kiến đề nghị gộp Điều 3
và Điều 4 dự thảo Luật thành một điều.
Tiếp thu ý kiến của đại biểu,
UBTVQH đã sửa các điều này như sau:
“Điều 3. Hiệu lực và hướng dẫn
thi hành:
1. Luật này có hiệu lực thi hành
từ ngày 01 tháng 10 năm 2009
2. Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật; hướng dẫn những nội
dung cần thiết khác của Luật này để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước.”.
Ngoài những nội dung trên đây,
UBTVQH đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan nghiên cứu tiếp thu các ý kiến khác nhau
của đại biểu Quốc hội để chỉnh lý các điều, khoản cụ thể về nội dung cũng như về
kỹ thuật soạn thảo văn bản cho phù hợp.
Trên đây là báo cáo giải trình,
tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh.
UBTVQH trình Quốc hội xem xét, quyết định./.
|
TM.UỶ
BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
PHÓ CHỦ TỊCH
Tòng Thị Phóng
|