BỘ TƯ PHÁP
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------
|
Số: 23/BC-BTP
|
Hà Nội, ngày 05
tháng 02 năm 2010
|
BÁO CÁO
TỔNG
KẾT CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2009 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CÔNG TÁC NĂM 2010
Năm 2009, trước những diễn biến phức
tạp của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, thiên tai dịch
bệnh gây thiệt hại nặng nề, cùng với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị;
sự lãnh đạo đúng đắn của Trung ương Đảng; sự chỉ đạo, giám sát có hiệu quả của
Quốc hội, Chính
phủ đã bám sát diễn biến, đánh giá đúng tình hình, xác định đúng mục tiêu,
nhiệm vụ, chuyển hướng kịp thời, quyết sách nhanh nhạy, chỉ đạo, điều hành tập
trung, quyết liệt, liên tục, cụ thể, ứng biến và sáng tạo; đã thực hiện thành
công mục tiêu tổng quát là ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng hợp
lý (GDP đạt 5,32%), ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội tốt hơn; chủ quyền quốc gia,
an ninh chính
trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững; thế và lực của đất nước tiếp tục
được tăng cường, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao. Trong
những thành tựu chung của đất nước có sự đóng góp quan trọng của Ngành Tư pháp.
Ngay từ những ngày đầu năm 2009, bám sát kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm 2009 của đất nước, Nghị quyết của Chính phủ về chỉ
đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân
sách Nhà nước năm 2009, Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP của Chính phủ về những giải
pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo
đảm an sinh xã hội và Ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Hội
nghị triển khai công tác tư pháp năm 2009, Bộ đã ban hành
Chương trình công tác trọng tâm của Ngành năm 2009 và tổ chức thực hiện với
quyết tâm cao, tạo nhiều chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực công
tác. Nhờ
đó, vị trí, vai trò của công tác tư pháp trong đời sống chính trị, kinh tế, xã
hội của đất nước tiếp tục được khẳng định; vị thế của Ngành từ Trung ương đến
địa phương ngày càng được củng cố, tăng cường. Các lĩnh vực công
tác thuộc chức năng, nhiệm vụ được triển khai đồng bộ, trong đó chú trọng thực
hiện các nội dung theo Chương trình công tác trọng tâm năm 2009 như: triển khai
thực hiện tốt Luật Ban hành VBQPPL; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để
triển khai công tác theo dõi chung về thi hành pháp luật; tiếp tục tổ chức thực
hiện Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ; chuẩn bị các điều kiện
cần thiết để triển khai thực hiện tốt Luật Thi hành án dân sự (THADS), Nghị
quyết của Quốc hội về thi hành Luật THADS, nhằm tạo chuyển biến cơ bản trong
công tác THADS; nâng cao chất lượng hoạt động chứng thực, hộ tịch, quốc tịch,
lý lịch tư pháp; tăng cường năng lực của các cơ quan bổ trợ tư pháp, tiếp tục
đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp; tiếp tục lộ trình cải cách tư
pháp, cải cách hành chính; kiện toàn tổ chức, cán bộ của Ngành, xây dựng đội
ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh; tạo chuyển biến thực sự về chất lượng
đào tạo cán bộ pháp luật, nhất là đào tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp;
thành lập Trường Trung cấp luật; tiếp tục đổi mới phương thức chỉ đạo điều
hành; đẩy mạnh việc phân cấp trong một số lĩnh vực hoạt động, hướng mạnh về cơ
sở.
Bước sang năm 2010, toàn Ngành cần
nghiêm túc đánh giá một cách toàn diện, chính xác, khách quan công tác tư pháp
năm 2009 để khẳng định những kết quả tích cực đã đạt được; ghi nhận những cách
làm mới, hiệu quả cần nhân rộng; làm rõ những khó khăn, vướng mắc, hạn chế, yếu
kém trong chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện các mặt công tác cần được khắc
phục để thực hiện tốt Chương trình công tác của Ngành năm 2010, góp phần thực
hiện thắng lợi Nghị quyết của Chính phủ về giải pháp thực hiện nhiệm vụ kinh tế
- xã hội năm 2010.
Phần thứ nhất:
ĐÁNH GIÁ
CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2009
1. Công tác xây dựng văn
bản, đề án; thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa và theo dõi thi hành
pháp luật
1.1. Kết quả
đạt được
a) Công tác xây dựng văn bản, đề án
Quán
triệt bài học “thể chế đi trước một bước”, trong năm 2009, Ngành Tư pháp đã tập
trung xây dựng và hoàn thiện các văn bản, đề án phục vụ công tác quản lý và phát
triển các lĩnh vực công tác tư pháp như lý lịch tư pháp, bồi thường nhà nước, THADS,
luật sư, theo dõi thi hành pháp luật..., tạo đà phát triển toàn diện, hiệu quả,
góp phần quan trọng nâng cao vị thế của Bộ, Ngành trong những năm tiếp theo.
Chất lượng và tiến độ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) đã được cải
thiện đáng kể, đã chủ động nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các
cơ chế, chính sách kịp thời, đồng bộ, hỗ trợ cho việc triển khai thực hiện có
hiệu quả các giải pháp nhằm ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo
đảm an sinh xã hội; góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định hướng
xã hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp và hội
nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt, công tác xây dựng VBQPPL quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành các luật, pháp lệnh thuộc chức năng, nhiệm vụ Bộ, Ngành được Thủ
tướng Chính phủ biểu dương là một trong 03 Bộ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và chỉ
đạo khen thưởng.
Bộ tích cực tham mưu, giúp
Chính phủ hoàn thành nhiệm vụ quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật, phân công cơ quan chủ trì soạn thảo
dự án luật, pháp lệnh của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trong năm 2009; các Sở Tư pháp đã tham mưu cho UBND cấp tỉnh ban hành Kế hoạch xây
dựng VBQPPL của HĐND, UBND cấp tỉnh năm 2009; theo dõi, đôn đốc các bộ, ngành
và địa phương tăng cường và đảm bảo tiến độ xây dựng văn bản, đề án theo kế
hoạch.
Năm 2009, Bộ có nhiệm vụ
soạn thảo và phối hợp hoàn chỉnh 40 văn bản, đề án trình
Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (trong đó có 05
dự án luật(1); 139 văn bản, đề án thuộc
thẩm quyền ban hành của Bộ Tư pháp hoặc liên tịch ban hành. Bên cạnh đó các đơn
vị thuộc Bộ, các cơ quan Tư pháp địa phương, các Tổ chức pháp chế bộ, ngành còn
phải thực hiện một số lượng lớn các công việc liên quan đến việc xây dựng văn bản,
đề án. Bộ đã hoàn thành và trình Ban Bí thư, Ban Chỉ
đạo cải cách tư pháp Trung ương, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ 37 văn bản, đề án, đạt 92,5% tổng số văn bản, đề án phải trình trong năm 2009 (chi
tiết xem Phụ lục I); riêng việc xây dựng và trình các dự án luật đạt 100%
kế hoạch; ban hành, phối hợp ban hành 57 văn bản, đề án thuộc thẩm quyền hoặc
liên tịch ban hành, đạt 41 % kế hoạch.
Tính
đến 30/9/2009, các cơ quan Tư pháp địa phương trong toàn quốc đã chủ trì soạn
thảo, tham mưu cho cơ quan có thẩm quyền ban hành khoảng 7.461 VBQPPL; phối hợp
với các cơ quan liên quan soạn thảo, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành
khoảng15.650 VBQPPL (chi tiết xem Phụ lục STP-01A).
Bộ đã tiếp tục phối
hợp với các cơ quan hoàn chỉnh dự án Luật Nuôi con nuôi, Luật Tiếp cận thông
tin; chủ động ban hành Kế hoạch và phối hợp với các bộ, ngành triển khai xây
dựng các luật, pháp lệnh trình Chính phủ trong năm 2010 như các dự án: Luật Thủ
đô, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, Luật Giám
định tư pháp, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật dân sự (phần liên
quan đến quyền sở hữu và hợp đồng), Luật Phòng, chống buôn bán người, Pháp lệnh
Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp
luật.
Quy trình xây dựng các
văn bản, đề án ngày càng đi vào nền nếp khi triển khai thực hiện Luật Ban hành VBQPPL
năm 2008, Nghị định số 24/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật
Ban hành VBQPPL, Chỉ thị số 636/CT-TTg ngày 20/5/2009 về triển khai thực hiện Luật
Ban hành VBQPPL và các biện pháp thi hành luật. Việc xây dựng văn bản, đề án không
những tuân thủ quy định của Luật Ban hành VBQPPL, mà còn được đổi mới theo
hướng tăng cường tính dân chủ, công khai, minh bạch, nâng cao tính chuyên
nghiệp trong tất cả các khâu từ lập dự kiến chương trình đến soạn thảo, thẩm
định và ban hành; chú trọng phối hợp với các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn, kinh nghiệm nước ngoài, tham khảo ý kiến của các chuyên gia
trong nước và quốc tế.
Nội dung các văn bản,
đề án đã thể chế hóa kịp thời đường lối, chính sách, định hướng quan trọng
trong các Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ; chứa đựng nhiều vấn đề mới, tiến bộ.
b) Công
tác thẩm định, góp ý văn bản, đề án
Công tác thẩm định
được đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng. Ý kiến thẩm định đã bám sát nội
dung thẩm định theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL và Nghị định số 24/2009/NĐ-CP;
đã chú trọng đánh giá tác động xã hội, có tính phản biện cao, bảo đảm tính khả
thi. Nhiều ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp đã được các bộ, ngành chủ trì soạn
thảo nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý dự thảo văn bản, góp phần quan trọng nâng
cao chất lượng của các văn bản. Quy trình thẩm định văn bản đã có cải tiến
nhiều so với trước đây như việc thành lập Hội đồng thẩm định là bắt buộc đối
với dự thảo VBQPPL có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực
hoặc do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo, đã huy động được sự tham gia của nhiều
nhà khoa học, chuyên gia thuộc nhiều ngành, lĩnh vực có liên quan, qua đó đưa
ra ý kiến phản biện tập thể giúp cơ quan soạn thảo nhìn nhận vấn đề một cách
chính xác và khách quan hơn. Thông qua hoạt động góp ý, thẩm định VBQPPL, đã
phát hiện và kiến nghị chỉnh lý nhiều vấn đề thuộc nội dung của nhiều dự án, dự
thảo văn bản, đề án chưa bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, hoàn
chỉnh, thống nhất và trên cơ sở đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung và ban hành mới
nhiều quy định pháp luật, phục vụ hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước.
Tổ chức pháp chế đã
và đang trở thành “người gác cổng” đáng tin cậy cho
lãnh đạo bộ, ngành trong công tác xây dựng VBQPPL. Việc thẩm định của Tổ chức
pháp chế bộ, ngành trước khi người đứng đầu bộ, ngành ban hành hoặc trình cấp
có thẩm quyền ban hành văn bản ngày càng được đề cao hơn, nhờ đó chất lượng
thẩm định văn bản từng bước được nâng cao, góp phần nâng cao chất lượng văn bản
được ban hành.
Tại các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương, công tác thẩm định VBQPPL đã được coi trọng, các Sở
Tư pháp và các cơ quan Tư pháp địa phương ngày càng khẳng định được vị trí, vai
trò của mình trong việc tham mưu, giúp HĐND, UBND các cấp ban hành VBQPPL.
Nhiều lãnh đạo HĐND, UBND thể hiện sự tin tưởng đối với Sở Tư pháp và các cơ
quan Tư pháp địa phương trong công tác thẩm định văn bản, đề án qua việc chỉ ký
ban hành văn bản, đề án khi đã có ý kiến thẩm định của các cơ quan Tư pháp.
Tính đến hết ngày 30/09/2009,
Bộ đã tiến hành thẩm định xong 441 văn bản, đề án, 107 điều ước quốc tế (bằng
so với năm 2008); tham gia góp ý 910 văn bản các loại do các bộ, ngành gửi
đến (giảm 74 văn bản so với năm 2008); cấp 28 ý kiến pháp
lý cho các khoản vay nước ngoài. Các cơ quan Tư pháp cấp tỉnh, huyện đã thẩm
định và Tư pháp cấp xã đã góp ý 46.775 văn bản, đề án (chi tiết xem Phụ lục
STP-01B).
c) Công
tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL
Hoạt
động kiểm tra VBQPPL tiếp tục được củng cố, tăng cường hơn năm 2008, hướng vào
việc kiểm tra, xử lý văn bản theo chuyên đề, địa bàn, lĩnh vực; hoạt động kiểm
tra ngày càng được nâng cao về chất lượng, thực hiện đúng quy trình và nâng cao
sự phối kết hợp với các cơ quan hữu quan; đã phát hiện, kiến nghị xử lý kịp
thời nhiều VBQPPL, thậm chí cả văn bản, nghị quyết của các tổ chức xã hội -
nghề nghiệp có sai sót về nội dung và hình thức; được Quốc hội, Chính phủ đánh
giá cao, dư luận và xã hội đồng tình ủng hộ. Công tác rà soát, hệ thống hoá
VBQPPL tiếp tục được quan tâm triển khai thực hiện theo chuyên đề và thí điểm
tại một số cơ quan, địa phương, tiến tới nhân rộng trong toàn quốc.
Các cơ quan Tư pháp
địa phương đã kiểm tra được 295.179 văn bản, trong đó phát hiện 12.017 văn bản
có sai sót; đã kiến nghị xử lý 10.340 văn bản, chiếm 86% trên tổng số văn bản
phát hiện có sai sót (chi tiết xem Phụ lục STP-1B). Riêng Cục Kiểm tra VBQPPL,
Bộ Tư pháp đã tiếp nhận kiểm tra 4.005 văn bản theo thẩm quyền (gồm 699 văn
bản của cấp Bộ và 3.306 văn bản của cấp tỉnh), bước đầu phát hiện 433/1.291
văn bản đã kiểm tra có dấu hiệu trái pháp luật, chiếm 33,54%.
Bộ đã hướng dẫn các
bộ, ngành rà soát và xây dựng danh mục các VBQPPL hết hiệu lực; thực hiện rà
soát VBQPPL năm 2009 và rà soát VBQPPL theo từng lĩnh vực; tiến hành rà soát VBQPPL
trong phạm vi quản lý của bộ, ngành theo các cam kết của Tổ chức thương mại thế
giới; tổng kết 05 năm thực hiện Nghị định số 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của
Chính phủ về kiểm tra và xử lý VBQPPL, làm cơ sở xây dựng Nghị định thay thế
Nghị định này và đã trình Chính phủ xem xét ban hành.
Công tác đôn đốc thực
hiện, kiểm tra, hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ
thống hóa VBQPPL được tăng cường, đã tổ chức kiểm tra tại 12 địa phương; tập
huấn nghiệp vụ rà soát, hệ thống hoá cho 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương.
d) Công
tác theo dõi chung về thi hành pháp luật
Năm 2009, Bộ đã phối
hợp với các bộ, ngành và địa phương tập trung hoàn thiện cơ sở pháp lý để triển
khai thực hiện công tác này trong năm 2010. Xây dựng và trình Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định số 1987/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án "Triển khai
thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật". Tiến
hành xây dựng Thông tư quy định việc thực hiện công tác theo dõi tình hình thi
hành pháp luật, đồng thời chuẩn bị các điều kiện để triển khai Đề án từ tháng 1/2010
đến tháng 6/2011.
Thực hiện bước đầu nhiệm
vụ theo dõi chung theo thẩm quyền: Bộ đã xây dựng Báo cáo công tác thi hành
pháp luật hàng quý trình Chính phủ; giúp Chính phủ theo dõi, đôn đốc và xây dựng
báo cáo của Chính phủ số 127/BC-CP ngày 17/8/2009 về tình hình
thực hiện Nghị quyết số 55/2005/QH11 ngày 29/11/2005 của Quốc hội Khoá XI về
kết quả giám sát việc ban hành VBQPPL của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ,
cơ quan ngang Bộ; Báo cáo tình hình soạn thảo và trình các dự án luật, pháp
lệnh của Chính phủ năm 2009.
1.2.
Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
a) Những
hạn chế, yếu kém
- Chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh năm 2009 chưa toàn diện, đồng bộ; thiếu dự báo mang tính
chiến lược và sự ưu tiên trong việc giải quyết những vấn đề bức thiết của đời
sống xã hội. Nội dung Chương trình chủ yếu được lập trên cơ sở đề xuất của các bộ,
ngành, chưa thể hiện rõ chính kiến của Bộ Tư pháp dưới góc độ là cơ quan quản
lý nhà nước về công tác xây dựng pháp luật, dẫn đến nhiều đề án, văn bản phải điều
chỉnh, xin rút, ảnh hưởng đến chương trình hoạt động của Quốc hội.
- Công tác thẩm định
chưa tạo được chuyển biến cơ bản về chất lượng, đôi khi còn nặng về chuyên môn pháp
luật thuần tuý, thiếu sự gắn kết với yêu cầu quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội
và chỉ số năng lực cạnh tranh của các địa phương, chưa khắc phục được tình
trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật, chưa tạo được sự bền vững
và sức sống của pháp luật trong đời sống xã hội; Thông tư của Bộ về quy chế
thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL chưa được ban hành. Số VBQPPL ở địa phương được
ban hành nhưng chưa qua thẩm định là còn nhiều.
- Tiến độ xây dựng
một số văn bản, đề án tuy có cố gắng nhưng còn chậm so với kế hoạch, nhất là các văn bản, đề án thuộc
thẩm quyền ban hành của Bộ hoặc liên tịch ban hành. Tỷ lệ văn bản, đề án được
ban hành thấp
hơn so với năm 2008(2). Một số dự thảo văn bản, đề
án phải chỉnh sửa nhiều lần, làm chậm tiến độ trình và ban hành.
- Hoạt động kiểm tra
liên ngành về công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL chưa hoàn
thành kế hoạch đã đặt ra; việc kiểm tra VBQPPL có lúc còn thiếu linh hoạt.
- Hoạt động theo dõi
chung về thi hành pháp luật chưa được triển khai kịp thời; công tác đôn đốc
nhằm khắc phục tình trạng nợ đọng các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành của các bộ, ngành chưa được thực hiện quyết liệt.
- Công tác quản lý nhà nước
về xây dựng pháp luật ở địa phương nhìn chung còn nhiều hạn chế. Một số địa
phương chưa kịp thời xây dựng, ban hành Chương trình xây dựng VBQPPL năm 2009,
chương trình và nội dung cụ thể về công tác kiểm tra, rà soát VBQPPL; nhiều địa
phương chưa thực hiện nghiêm túc việc xử lý VBQPPL ban hành trái pháp luật đã
được cơ quan có thẩm quyền cấp trên thông báo; tính phản biện xã hội trong xây
dựng văn bản, chất lượng thẩm định, góp ý chưa cao.
- Kinh phí hỗ trợ
cho hoạt động xây dựng, soạn thảo văn bản còn hạn chế, việc phân bổ kinh phí
còn chậm, cơ cấu phân bổ cho từng văn bản chưa thật sự hợp lý; nhiều địa phương
gặp khó khăn về kinh phí soạn thảo, thẩm định, góp ý VBQPPL của HĐND, UBND do
chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể.
b) Nguyên
nhân của những hạn chế, yếu kém
- Sự phối hợp trong
soạn thảo văn bản, đề án còn chưa chặt chẽ, sự chủ động từ phía đơn vị chủ trì
soạn thảo chưa cao nên hạn chế việc huy động tiềm năng, trí tuệ của
tập thể cán
bộ, công chức làm công tác xây dựng VBQPPL. Thành viên các Ban
soạn thảo văn bản, đề án không tham dự đầy đủ các cuộc họp Ban soạn thảo thảo
dẫn đến tình trạng thiếu thông tin hoặc không thống nhất được ý kiến về những
vấn đề phức tạp.
-
Thể chế
về thẩm định VBQPPL, theo dõi chung về thi hành pháp luật chưa được
hoàn thiện, ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển khai nhiệm
vụ được giao.
- Số lượng dự án, dự
thảo VBQPPL cần phải thẩm định ngày càng tăng, nội dung thẩm định đa dạng, phức
tạp, một
số văn bản, đề án đặt ra nhiều vấn đề mới, phức tạp cả về lý luận
và thực tiễn, liên
quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của nhiều bộ, ngành, trong
khi đó đội ngũ cán bộ làm công tác này chưa được tăng cường một cách tương xứng
cả về số lượng và chất lượng, nhất là kinh nghiệm thực tiễn, kiến thức về các
lĩnh vực chuyên môn ngoài chuyên ngành luật; chưa thực hiện những giải pháp
khắc phục theo kết luận của Bộ trưởng tại Toạ đàm “Nâng cao chất
lượng công tác văn bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Bộ Tư pháp trong tình hình
mới”.
- Một số cơ quan chủ
trì soạn thảo gửi hồ sơ thẩm định VBQPPL còn sai sót về thủ tục, thiếu các tài
liệu trong hồ sơ theo quy định, nhất là các cơ quan được giao chủ trì soạn thảo
văn bản ở địa phương, dẫn đến việc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến thẩm định đôi
khi trở nên hình thức. Nhiều địa phương chưa có cơ chế để cán bộ làm công tác
thẩm định được tham gia quá trình soạn thảo văn bản ngay từ đầu; chưa coi trọng
đúng mức công tác kiểm tra và xử lý VBQPPL; chưa thường xuyên gửi văn bản đến
cơ quan kiểm tra cũng như chưa kịp thời xem xét, xử lý theo quy định sau khi
nhận được thông báo của cơ quan kiểm tra về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật.
- Một số đơn vị thuộc
Bộ chưa đánh giá đúng việc đề xuất kế hoạch xây dựng đề án, văn bản cũng như
chưa chủ động trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng văn bản, đề án.
- Kinh phí phục
vụ cho công
tác xây
dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát VBQPPL chưa tương xứng với nhiệm vụ.
1.3. Bài
học kinh nghiệm
Chủ động phối hợp với
các bộ, ngành và các đơn vị liên quan để huy động trí tuệ tập thể; kịp thời xin
ý kiến chỉ đạo về những vấn đề mới, phức tạp; nâng cao kiến thức kinh tế, xã
hội, khắc phục chuyên môn pháp luật thuần tuý.
2. Công
tác THADS
2.1. Kết
quả thực hiện
Trong
năm qua, công tác THADS đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng bảo đảm
trật tự an toàn xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, tạo môi trường thuận
lợi cho phát triển đất nước: thể chế về cơ bản được hoàn thiện; hệ thống các cơ quan THADS thực sự được tổ chức và quản lý tập trung,
thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến cấp huyện với một vị thế mới, tương
xứng với nhiệm vụ chính trị được giao; cơ bản kiện toàn về tổ chức bộ máy và lãnh đạo chủ chốt
của Tổng cục THADS và đa số các Cục, Chi cục THADS địa phương; kết quả công tác
về việc và về tiền vượt chỉ tiêu Chính phủ báo cáo Quốc hội; cơ sở vật chất, điều
kiện, phương tiện làm việc được nâng cao hơn trước.
Tính từ 01/10/2008 đến 30/9/2009, tổng số
việc phải thi hành là 645.975/662.961 việc đã thụ lý; số việc có điều kiện thi
hành là 437.375 việc, chiếm 67,71% tổng số việc phải thi hành (tăng 29.917
việc có điều kiện thi hành so với cùng kỳ năm 2008). Tổng số tiền và giá
trị phải thu là 26.587 tỷ 317 triệu 264 nghìn đồng/27.790 tỷ 806 triệu 755 nghìn
đồng số tiền đã thụ lý; số tiền có điều kiện thi hành là 9.387 tỷ 474 triệu 194
nghìn đồng, chiếm 35,31% số phải thu (tăng 1.571 tỷ 607 triệu 478 nghìn đồng
so với năm 2008). Các cơ quan THADS đã thi hành xong 354.490 việc/437.375
việc, đạt 81,05% (tăng 65.362 việc và 2,34% về tỷ lệ so với cùng kỳ năm
2008)(3); 6.621 tỷ 735 triệu 651 nghìn đồng về tiền, đạt 70,54%
số tiền có điều kiện thi hành, tăng 890 tỷ 305 triệu 724 nghìn đồng so với năm
2008 (chi tiết xem Phụ lục II).
Nhiều cơ quan THADS
đã tổ chức thi hành án vượt chỉ tiêu đặt ra (được Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội biểu dương), cụ thể: về việc, Hoà
Bình (thi hành xong hoàn toàn/có điều kiện thi hành đạt 88,8%), Đắk Nông
(88,1%), Tuyên Quang (86,5%), Lai Châu (85,5%), Vĩnh Phúc (84,7%), Hà Giang
(84,6%) và về tiền, Lào Cai (thực thu/có điều kiện thi hành đạt 92,6%),
Phú Yên (87,3%), Hà Giang (83,7%), Hoà Bình (81,6%), Tuyên Quang (80,2%).
Mặc dù số việc phải thi hành là 645.975 việc, tăng 23.365
việc so cùng kỳ năm 2008; số việc có điều kiện thi hành là 436.967 việc,
chiếm 67,63% tổng số việc phải thi hành, tăng 12.080 việc so với cùng kỳ năm
2008, nhưng với quyết tâm nâng cao kết quả thi hành án, đạt và vượt chỉ tiêu Bộ
giao, toàn Ngành THADS đã thi hành giảm được 38.544 việc so với năm
2008, đạt tỷ lệ 12,43%; rà soát tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về
việc miễn thi hành án thu cho ngân sách nhà nước có giá trị không quá 500.000
theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc hội về thi hành Luật
THADS được 27.977 việc, với số tiền là 4 tỷ 857 triệu 659 nghìn 88 đồng. Nhiều
địa phương, cấp uỷ Đảng, chính quyền chú trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo về
THADS, như: thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Long An, Cà
Mau...; Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh sớm ban hành Chỉ thị về tăng cường, triển khai
thực hiện Luật THADS, như: Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Lai Châu, Nam Định, Hải Dương,
Thái Bình, Phú Yên, Đồng Nai, Tiền Giang, Bến Tre... Nhiều Đoàn Đại biểu Quốc
hội, Hội đồng nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các địa phương tăng cường giám
sát, kiểm sát công tác THADS, nhất là việc giám sát lượng án tồn đọng, về việc
miễn thi hành án thu cho ngân sách nhà nước có giá trị không quá 500.000 theo
Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc hội về thi hành Luật THADS.
Các cơ quan THADS thường xuyên rà soát, đôn đốc và quyết liệt hơn trong việc tổ
chức thi hành án. Nhiều nơi tổ chức nhiều đợt tập trung, cao điểm về thi hành
án, như: Nam Định, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Tiền Giang...
Công tác xây dựng thể chế, nhất là các văn bản hướng dẫn
thi hành Luật và các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật THADS tiếp tục được hoàn
thiện. Đã rà soát 102 VBQPPL liên quan đến Luật THADS và phát hiện 06 văn bản
hết hiệu lực thi hành sau ngày 01/7/2009, 02 văn bản mâu thuẫn với Luật THADS, 03
văn bản chung chung, khó vận dụng, 03 văn bản hết hiệu lực một phần, 56 văn bản
có một số quy định liên quan đến THADS không phù hợp, 30 văn bản có hiệu lực
sau ngày 01/7/2009; tiến hành sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản liên
quan.
Ngày 28/10/2009, Bộ đã tổ chức Hội nghị giao ban trực
tuyến về tổ chức thực hiện Luật THADS, Nghị định số 74/2009/NĐ-CP. Triển khai
thực hiện Nghị định số 74/2009/NĐ-CP, Bộ, các cơ quan THADS đã phối hợp chặt
chẽ với các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương trong việc kiện toàn tổ chức
cán bộ các Cục, Chi cục THADS (ngày 08/01/2010, Bộ Tư pháp đã tổ chức Lễ ra
mắt Tổng cục THADS; tính đến ngày 07/01/2010 có 44/63 tỉnh tổ chức Lễ Công bố
Quyết định thành lập Cục THADS và các Chi cục THADS).
Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo về THADS được
thực hiện quyết liệt, tăng cường đối thoại, chú trọng công tác dân vận, giải
quyết dứt điểm hoặc cơ bản xong nhiều vụ việc khiếu nại phức tạp, tồn đọng kéo
dài. Trong năm 2009, Bộ đã chọn Hà Nội làm nơi chỉ đạo điểm trong giải
quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo bức xúc, kéo dài về THADS; đẩy nhanh tiến
độ xây dựng các đề án về tăng cường cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động, xây
dựng trụ sở, kho vật chứng, đầu tư cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm
việc cho các cơ quan THADS phù hợp với vị thế mới của ngành THADS.
Hoàn thiện thể chế và phối hợp với Thành uỷ, UBND thành
phố Hồ Chí Minh, các cấp, các ngành hữu quan triển khai thí điểm chế định Thừa
phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh: ban hành Thông tư số 03/2009/TT-BTP ngày 30/9/2009
hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP về tổ chức
và hoạt động của Thừa phát lại; hoàn thành việc tổ chức tập huấn công tác Thừa
phát lại; đang tiến hành thủ tục bổ nhiệm Thừa phát lại và thành lập Văn phòng
Thừa phát lại.
2.2.
Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
a) Những hạn
chế, yếu kém
- Việc chuẩn bị và ban hành các văn
bản hướng dẫn, thi hành Luật và các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật THADS còn
chậm so với yêu cầu, nhất là các Thông tư liên tịch.
- Việc quản lý nghiệp vụ, quản lý nội
bộ Ngành rất yếu, việc chấp hành kỷ luật báo cáo không nghiêm; một số trường
hợp thiếu kiên quyết trong việc xử lý cán bộ vi phạm, thậm chí không xử lý.
- Số việc thi hành án tồn đọng chuyển
sang năm sau vẫn còn rất nhiều, trong tổng số 291.485 việc còn phải thi hành
thì có 82.885 việc có điều kiện thi hành nhưng chưa thi hành xong (chiếm 28,44%);
một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tỷ lệ án tồn đọng chuyển sang
năm sau/tổng số việc phải thi hành cao (như Hải Phòng (57,77%), Quảng Ninh
(62,67%), Ninh Thuận (52,07%)). Tỷ lệ án có điều kiện thi hành về tiền còn thấp
(chiếm
35,31% số phải thu thi hành án).
- Chưa tổ chức
thực hiện miễn thi hành án đối với các khoản thu cho ngân sách nhà
nước có giá trị không quá 500.000 đồng mà thời gian tổ chức thi hành án đã quá
05 năm tính đến ngày 01/7/2009 nhưng không có điều kiện thi hành.
- Việc kiện toàn bộ máy quản lý chuyên
ngành về THADS thiếu đồng bộ; việc bổ nhiệm Chấp hành viên ngạch sơ cấp, trung
cấp, cao cấp theo quy định của Luật THADS còn chậm. Tình trạng quá tải công
việc của Chấp hành viên còn tồn tại ở nhiều cơ quan THADS, nhất là ở các thành
phố trực thuộc Trung ương, các tỉnh lớn và các tỉnh rộng, giao thông khó khăn.
Chế độ, chính sách thu hút cán bộ THADS còn nhiều bất cập. Do đó, số lượng công
chức thi hành án xin chuyển công tác hoặc nghỉ việc mặc dù đã giảm so với năm
2008 nhưng vẫn còn nhiều (năm 2009 có 62 người xin chuyển công tác, giảm 09
người so với năm 2008), 19 người xin nghỉ hưu trước tuổi, 12 người xin nghỉ
thôi việc (giảm 20 người so với năm 2008).
- Cơ sở vật chất của các cơ quan THADS
chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao, chưa đáp ứng được yêu cầu của việc thực
hiện cải cách tư pháp; phương tiện, trang thiết bị làm việc mặc dù đã được quan
tâm trang cấp nhưng cũng chưa bảo đảm được yêu cầu hiện đại hoá công sở.
- Tình trạng khiếu nại, tố cáo về
THADS vẫn còn nhiều, không ít vụ việc phức tạp tiếp tục phải giải quyết.
b) Nguyên
nhân của những hạn chế, yếu kém
- Hoạt động quản lý, điều hành của
Tổng cục THADS chưa sâu sát, chưa quyết liệt, chưa kịp thời và chưa đáp ứng
được yêu cầu của địa phương; vẫn còn tình trạng chậm trả lời, hướng dẫn giải
quyết những khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ cho các Cục THADS tỉnh.
- Công tác thanh tra, kiểm tra chưa được
thực hiện thường xuyên, số lượng đơn thư khiếu nại vượt cấp, kéo dài vẫn còn;
tình trạng chậm trả lời, giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo theo quy định
của pháp luật về khiếu nại, tố cáo còn nhiều, đặc biệt tại Tổng cục THADS.
- Công tác quy hoạch cán
bộ lãnh đạo của các cơ quan THADS chưa được thực hiện khoa học, thường xuyên, nên
việc xem xét, đề xuất bổ nhiệm lãnh đạo cơ quan THADS thay thế chưa kịp thời,
cùng với sự thiếu chủ động về nguồn cán bộ lãnh đạo, dẫn đến chưa khắc phục
được tình trạng thiếu thủ trưởng cơ quan THADS.
- Ở một số địa phương, Cục và các Chi
cục THADS chưa phối hợp chặt chẽ với cơ quan hữu quan ở địa phương, chưa tranh
thủ được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương
đối với công tác THADS. Một số cấp uỷ, chính quyền địa phương chưa quan tâm sát
sao trong việc phối hợp đánh giá, quy hoạch và kiện toàn đội ngũ cán bộ chủ
chốt của cơ quan THADS. Hoạt
động của Ban Chỉ đạo THADS, nhất là ở cấp huyện còn thụ động, hiệu quả hạn chế.
Việc
phối hợp giữa chính quyền cơ sở, đặc biệt là các tổ chức chính trị, chính trị -
xã hội với cơ quan THADS chưa thường xuyên. Còn có trường hợp Toà án chậm hoặc
chưa giải quyết yêu cầu của cơ quan THADS về một số bản án, quyết định của Toà
án không rõ ràng, có sai sót hoặc vi phạm.
- Đội ngũ cán bộ tuy đã được kiện toàn
một bước và có nhiều cố gắng nhưng còn thiếu về số lượng, năng lực còn hạn chế.
Một số cán bộ quản lý chưa phát huy hết trách nhiệm trong quản lý, điều hành;
một số Chấp hành viên, cán bộ thi hành án chưa tích cực cập nhật kiến thức
nghiệp vụ, trong một số trường hợp còn tác nghiệp tuỳ tiện hoặc ỷ lại. Công tác
chuẩn bị cưỡng chế thi hành án còn có nơi chưa tốt, để xảy ra một số vụ việc
đáng tiếc, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội (như vụ việc ông
Nguyễn Khắc Đương, người phải THADS, đã tự thiêu ở tỉnh Hưng Yên).
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động thi hành án còn chậm, một số phần mềm quản lý, tác nghiệp chưa
kịp thời hoàn thiện. Chế độ kế toán nghiệp vụ thi hành án còn bất cập, phần mềm
kế toán hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý, chưa có cơ chế xử lý quyết
liệt việc chậm hoặc không nộp báo cáo tài chính nghiệp vụ thi hành án…
-
Việc triển khai thi hành Luật THADS đòi hỏi phải tập trung thực hiện nhiều công
việc như: xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành; bồi dưỡng nghiệp vụ; đặc biệt là
ưu tiên rà soát, đánh giá kiện toàn tổ chức, cán bộ..., do đó, đã ảnh hưởng đến
việc chỉ đạo, đôn đốc thi hành án.
- Nguồn tuyển dụng cán bộ THADS rất
khó khăn, nhất là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, trong khi đó, công việc
thi hành án vất vả và phức tạp, chế độ đãi ngộ chưa thực sự tạo động lực, tâm
lý yên tâm công tác.
- Nhiều vụ việc phải thi hành theo
định kỳ hàng tháng, quý kéo dài trong nhiều năm; không ít vụ việc không thể thi
hành nhanh do phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án hoặc do quy định
pháp luật liên quan phải kéo dài thời gian thi hành án; tài sản đã kê biên, tổ
chức bán đấu giá nhiều lần, nhưng không có người mua; chưa khắc phục được tình
trạng quá tải số việc thi hành án còn tồn đọng qua nhiều năm của một số cơ quan
thi hành án.
- Cơ chế quản lý tài sản ở nước ta
chưa thật chặt chẽ, nhiều trường hợp tạo cơ hội cho người phải thi hành án trốn
tránh nghĩa vụ; ý thức tự giác tuân thủ pháp luật của một số tổ chức, cá nhân
có liên quan đến việc thi hành án còn yếu, nhất là của người phải thi hành án.
Một số trường hợp người phải thi hành án cố tình chây ỳ, tẩu tán tài sản để
trốn tránh hoặc khiếu nại vượt cấp nhằm mục đích kéo dài việc thi hành án, thậm
chí chống đối quyết liệt việc cưỡng chế thi hành án; một số trường hợp đã được
giải quyết hết thẩm quyền nhưng vẫn khiếu nại (như vụ bà Kiều Thị Trinh ở Lào
Cai, vụ bà Hồ Thị Tha ở An Giang).
-
Trình tự, thủ tục về đầu tư xây dựng cơ bản phức tạp; giá cả thị trường có lúc
biến động mạnh đã ảnh hưởng lớn đến giá trị gói thầu; thủ tục cấp đất, đền bù
giải phóng mặt bằng mất nhiều thời gian.
2.3. Bài học
kinh nghiệm
Nâng cao trách nhiệm của người đứng
đầu; sâu sát, quyết liệt trong chỉ đạo; chủ động, kịp thời báo cáo, xin chỉ đạo
của Ban Chỉ đạo THADS các cấp; vận dụng tốt kỹ năng dân vận; tăng cường thường
xuyên kỷ luật, kỷ cương, đổi mới tác phong, lề lối làm việc theo hướng chuyên
nghiệp, hiện đại.
3. Công
tác hành chính tư pháp và đăng ký giao dịch bảo đảm
3.1. Kết quả
đạt được
Công tác hành chính
tư pháp ngày càng đi vào nền nếp, cải cách về thủ tục hành chính không ngừng được
tăng cường, hầu hết các địa phương đã thực hiện cơ chế “một cửa” trong
lĩnh vực công tác này, thực hiện tốt việc niêm yết công khai quy trình, thủ tục
giải quyết từng loại việc, mức thu lệ phí, lịch làm việc, nhằm đảm bảo đáp ứng
yêu cầu của người dân, góp phần giữ gìn trật tự an toàn xã hội, ổn định và phát
triển kinh tế.
Năm 2009, tổng số
việc chứng thực là 32.636.901, với tổng số phí thu được là 111 tỷ 454 triệu 732
nghìn đồng; cấp giấy đăng ký kết hôn cho 587.070 cặp; khai sinh cho 1.211.372
trường hợp, khai tử 293.764 trường hợp; số Phiếu lý lịch tư pháp đã cấp là 107.554
(chi tiết xem Phụ lục STP-03B); giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch cho
60 trường hợp, giảm 17 trường hợp so với năm 2008; giải quyết trở lại quốc tịch
Việt Nam cho 22 trường hợp, giảm 7 trường hợp so với năm 2008; giải quyết cho thôi
quốc tịch Việt Nam đối với 8.535 trường hợp, tăng 1.938 trường hợp so với năm
2008, trả lời 965 trường hợp tra cứu quốc tịch cho các Sở Tư pháp các địa
phương để cấp Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam cho đương sự, trả lời 34
trường hợp xác minh quốc tịch cho Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao; tiếp nhận 1.200 hồ
sơ xin nhận con nuôi của các nước Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Canada, Đan Mạch
và Thụy Sỹ, trong đó có 661 hồ sơ đã được giải quyết; số lượng vụ việc
kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với đàn ông Đài Loan, Hàn Quốc giảm nhiều so với
những năm trước đây, nhiều vụ việc kết hôn không lành mạnh, nhằm mục đích trục
lợi, đã được phát hiện và ngăn chặn kịp thời.
Thể chế về công tác
hành chính tư pháp được tiếp tục hoàn thiện, đặc biệt việc Quốc hội thông qua Luật
Lý lịch tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, cho ý kiến dự án Luật
Nuôi con nuôi (dự kiến thông qua vào kỳ họp thứ 7 của Quốc hội khoá XII); đã tổ
chức triển khai kịp thời Luật Quốc tịch Việt Nam và các văn bản hướng dẫn thi
hành, đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ công tác quốc tịch tại 03 miền cho Văn
phòng UBND cấp tỉnh, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và
các cơ quan, đơn vị liên quan. Việc ban hành và triển khai thực hiện Luật Quốc
tịch Việt Nam, Luật Lý lịch tư pháp tạo sự đồng thuận xã hội và cơ sở đoàn kết
dân tộc theo chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; thống nhất
quản lý công tác lý lịch tư pháp (về cơ sở dữ liệu, cấp phiếu lý lịch tư pháp,
kiểm tra công tác lý lịch tư pháp...). Xây dựng và ban hành Đề án “Cải cách
thủ tục hành chính trong đăng ký hộ tịch và phân cấp việc in, phát hành sổ, biểu
mẫu hộ tịch”, trong đó rút gọn khoảng 54,4% tổng số sổ, biểu mẫu hộ tịch so với
quy định trước đây, khắc phục cơ bản tình trạng thiếu biểu mẫu hộ tịch.
Công tác phối hợp
giải quyết các việc về hộ tịch được các cơ quan Tư pháp địa phương coi trọng,
nhất là việc phối hợp với cơ quan Công an trong việc tra cứu, xác minh hồ sơ
xin nhập, thôi, trở lại quốc tịch Việt Nam, cấp Phiếu lý lịch tư pháp, cho nhận
con nuôi, hôn nhân có yếu tố nước ngoài; công tác cải cách hành chính trong
giải quyết các việc thuộc lĩnh vực hành chính tư pháp được một số địa phương quan
tâm, chủ động rút ngắn thời hạn giải quyết việc cấp phiếu lý lịch tư pháp, hôn
nhân có yếu tố nước ngoài, tạo điều kiện cho đương sự về thời gian và chi phí
ăn, ở, đi lại; cán bộ, công chức làm công tác hành chính tư pháp đã ý thức cao
trách nhiệm nghề nghiệp đối với người dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân; hạn chế
đến mức thấp nhất các trường hợp tiêu cực, gây khó dễ trong quá trình giải
quyết các hoạt động trong lĩnh vực hành chính tư pháp. Nhiều địa phương đã quan
tâm bố trí thêm cán bộ tại Phòng Tư pháp và UBND cấp xã để tiếp nhận, giải
quyết hồ sơ chứng thực và các vấn đề hộ tịch của người dân, góp phần khắc phục
tình trạng còn khó khăn về nhân lực, giải quyết tình trạng quá tải yêu cầu
chứng thực bản sao từ bản chính. Nhiều địa phương cũng tích cực tiến hành kiểm
tra công tác chứng thực như các tỉnh Bình Định, Hà Tĩnh, Hải Phòng, thành phố
Hồ Chí Minh, Hoà Bình, Lào Cai, Long An, Quảng Nam, Quảng Ninh, Thái Nguyên...,
nhằm khắc phục, hướng dẫn, giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc về
chuyên môn, nghiệp vụ trong mặt công tác này. Các địa phương cũng đã tích cực
mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cấp xã và cán bộ tư
pháp cấp huyện; cử cán bộ đi đào tạo nguồn tại Trường Trung cấp Luật thành phố Buôn
Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Công tác kiểm tra,
giám sát tình hình giải quyết đăng ký việc nuôi con nuôi tại các địa phương và
cơ sở nuôi dưỡng đã được tăng cường, giải quyết cơ bản những vấn đề tồn đọng về
hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi với Hoa Kỳ, Thụy Điển và Ai-Len.
Công tác đăng ký giao
dịch bảo đảm tiếp tục có những chuyển biến tích cực, thủ tục đăng ký, cung cấp
thông tin về giao dịch bảo đảm có sự cải tiến, tạo điều kiện cho khách hàng
tiết kiệm thời gian, bảo đảm được tính kịp thời của việc công khai hóa giao
dịch và tra cứu thông tin, góp phần tạo an toàn pháp lý cho các giao dịch của
người dân và doanh nghiệp. Thể chế về đăng ký giao dịch bảo đảm được khẩn
trương hoàn thiện, Bộ đã soạn thảo dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 08/2000/NĐ-CP
ngày 10/3/2000 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, dự thảo Thông tư
liên tịch thay thế Thông tư liên tịch số 05/2006/TTLT/BTP-BTNMT ngày 16/6/2005
và Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 của Bộ Tư pháp và
Bộ Tài nguyên và Môi trường và ban hành các văn bản về hoàn thiện tổ chức bộ
máy, cơ chế hoạt động của Cục Đăng ký Quốc gia Giao dịch bảo đảm và các đơn vị
thuộc Cục; hướng dẫn, kiểm tra, tập huấn, tuyên truyền góp phần nâng cao năng
lực, nhận thức đến mọi đối tượng; quan tâm đến chế độ chính sách và đời sống
vật chất, tinh thần đối với cán bộ, công chức, viên chức; công tác tài chính,
kế toán chấp hành đúng chế độ, đúng quy định.
Từ ngày 01/10/2008
đến ngày 30/9/2009, các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản trong cả nước đã
giải quyết được 166.077 đơn yêu cầu, tăng 30% so với năm 2008, cấp 4.987
văn bản cung cấp thông tin, tăng 36% so với năm 2008; tổng số phí, lệ phí thu
được là hơn 8 tỷ đồng, trong đó trích nộp Ngân sách nhà nước khoảng 1,6 tỷ
đồng.
Tiếp tục tăng cường
ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, điều hành trong lĩnh vực
hành chính tư pháp. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý
hoạt động chứng thực, hộ tịch tại một số địa phương đã thu được kết quả tích
cực; Vụ Hành chính Tư pháp, Bộ Tư pháp đã tiến hành nghiệm thu và đưa vào ứng
dụng thí điểm phần mềm quản lý hộ tịch, quốc tịch (dự kiến sẽ triển khai trên
toàn quốc trong thời gian tới). Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong
công tác đăng ký, cung cấp thông tin tại các Trung tâm đăng ký giao dịch bảo
đảm; luôn đảm bảo đồng bộ dữ liệu giữa các Trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm
một cách nhanh chóng, kịp thời; chỉnh sửa phần mềm đăng ký phù hợp với việc sửa
đổi, bổ sung quy định của pháp luật có liên quan; xây dựng phần mềm tạm thời để
lưu giữ và tra cứu thông tin của văn bản thông báo về việc kê biên tài sản thi
hành án, góp phần thực hiện có hiệu quả quy định của Thông tư số 07/2007/TT-BTP.
Tiếp tục thực hiện Dự án đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho Hệ thống
đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm.
3.2.
Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
a) Những
hạn chế, yếu kém
- Công tác hành chính
tư pháp tại một số địa phương còn nhiều lúng túng, chất lượng chưa cao, chưa
tạo thuận lợi cho người dân, chưa phục vụ tốt cho công tác hoạch định chiến
lược, quy hoạch về kinh tế - xã hội của địa phương. Tình trạng cấp giấy tờ hộ
tịch, nhất là giấy khai sinh, cải chính hộ tịch vẫn còn chưa thống nhất, còn có
sai sót (như các tỉnh Cà Mau, Hải Dương, Ninh Bình, Quảng Trị, Tây Ninh, Tuyên
Quang); có nơi, có lúc, gây khó khăn, tiêu cực, kéo dài thời gian giải quyết
một cách tuỳ tiện. Công tác chứng thực đã và đang bộc lộ yếu kém, tiềm ẩn nhiều
yếu tố rủi ro gây mất ổn định xã hội, nhất là an ninh nông thôn trong các giao
dịch bất động sản; còn tồn tại một số trường hợp thu lệ phí chứng thực không
đúng quy định. Tình trạng chậm cung cấp biểu mẫu hộ tịch cho cơ sở ở một số địa
phương vẫn còn. Việc giải quyết hồ sơ xin nhập, xin thôi, xin trở lại quốc tịch
Việt Nam còn chậm.
- Nhiều Sở Tư pháp
chưa quan tâm đến công tác quản lý nhà nước về hành chính tư pháp, nhất là việc
hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo... Quản lý
nhà nước về đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài ở nhiều địa phương còn mang
tính hình thức, chất lượng chưa đảm bảo.
- Quản lý nhà nước
trong lĩnh vực con nuôi, nhất là nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn nhiều bất
cập, yếu kém; còn hiện tượng lợi dụng việc làm con nuôi đối tượng chính sách để
được hưởng chính sách ưu đãi của nhà nước (như tỉnh Hà Nam, có 150/227 trường
hợp đăng ký nuôi con nuôi không đúng mục đích).
- Công tác quản lý hộ
tịch còn thủ công, chưa chuyên nghiệp, bài bản nên thiếu chính xác, không đảm
bảo gắn kết với chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước;
việc thực hiện thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực hộ tịch chưa được đẩy mạnh,
nhiều sai phạm chưa được xử lý, chấn chỉnh kịp thời.
- Một số chỉ tiêu, kế
hoạch còn mang tính chủ quan, khi thực hiện chậm so với kế hoạch, chưa được
hoàn thành (như dự án xây dựng Trụ sở Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm và
Trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm Hà Nội, Dự án đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật cho Hệ thống đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm). Việc tuyên
truyền về công tác đăng ký giao dịch bảo đảm vẫn chưa được chú trọng. Việc
thông báo kê biên tài sản thi hành án chưa nhiều; một số văn bản gửi đến Trung
tâm Đăng ký bị từ chối do kê khai thông tin không hợp lệ. Một số đơn yêu cầu
đăng ký khách hàng gửi cho các Trung tâm đăng ký vẫn bị sai sót nhiều.
b) Nguyên
nhân của những hạn chế, yếu kém
- Biên chế cán bộ
thuộc Phòng Tư pháp hành chính của các Sở Tư pháp còn mỏng, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ còn hạn chế. Khối lượng công việc mà cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cấp xã
phải đảm nhiệm rất lớn (12 nhiệm vụ thường xuyên và các nhiệm vụ khác được
giao) trong khi biên chế còn phổ biến là 01 cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cấp xã,
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ còn nhiều hạn chế và thường xuyên phải
luân chuyển vị trí công tác; một số địa phương có tỷ lệ cán bộ tư pháp cấp xã
chưa qua đào tạo luật khá cao.
- Sự phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc cấp phiếu lý lịch tư pháp, cải chính các giấy
tờ hộ tịch chưa chặt chẽ, gây khó khăn cho người dân.
- Cơ sở vật chất,
trang thiết bị phục vụ cho công tác chứng thực, hộ tịch chưa đáp ứng được yêu cầu
công việc; một số UBND cấp xã chưa thật sự quan tâm đến hoạt động chứng thực;
công tác thu chi, quản lý lệ phí chứng thực của nhiều xã, phường, thị trấn chưa
được thực hiện thống nhất theo quy định của pháp luật. Việc ứng dụng công nghệ
thông tin còn nhiều hạn chế.
- Một số quy định về
phỏng vấn đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến việc
hiểu và áp dụng các quy định về điều kiện kết hôn, nhất là kết hôn với người
nước ngoài có sự khác nhau giữa các địa phương, trong khi công tác chỉ đạo,
hướng dẫn, giải đáp về chuyên môn, nghiệp vụ còn chưa tích cực, kịp thời; trình
độ của cán bộ làm công tác phỏng vấn còn hạn chế.
- Thể chế
về nuôi con nuôi còn nhiều kẽ hở, nhất là quy định liên quan đến nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài (như vấn đề xác minh nguồn gốc trẻ bị bỏ rơi, quy định về
các loại bệnh hiểm nghèo với trẻ sống tại gia đình cho làm con nuôi người nước
ngoài).
- Việc nắm bắt và xử
lý thông tin trong đăng ký giao dịch bảo đảm còn hạn chế, chưa lường trước hết
những khó khăn, vướng mắc phát sinh trên thực tế, nên một số chỉ tiêu, kế hoạch
còn mang tính chủ quan, khi thực hiện chậm so với kế hoạch; việc kiểm tra, đôn
đốc thực hiện kế hoạch, chương trình công tác có lúc chưa kịp thời, thường
xuyên, thiếu quyết liệt; năng lực cán bộ đăng ký giao dịch bảo đảm chưa đồng
đều; cơ chế tổ chức, hoạt động chưa thực sự khoa học; vẫn còn tồn tại những thủ
tục chưa thuận lợi cho người dân...
3.3. Bài
học kinh nghiệm
Trong lĩnh vực hành
chính tư pháp, chú trọng công tác hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra; thực hiện cải
cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin; quy chế hoá cơ chế phối
hợp với các cơ quan tại địa phương, đặc biệt là cơ quan Công an.
4. Công
tác bổ trợ tư pháp
4.1. Kết quả đạt được
Công tác bổ trợ tư pháp có những khởi
sắc mới, nhất là trong hoạt động luật sư, công chứng, bán đấu giá tài sản, góp
phần ổn định và
tăng cường
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng phát triển các ngành và vùng
kinh tế, tạo an toàn pháp lý cho thị trường bất động sản cũng như bảo đảm đáp
ứng nhu cầu của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp.
Bộ đã xây dựng và trình Ban Bí thư ban
hành Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 30/3/2009 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với tổ chức và hoạt động của luật sư; ban hành Kế hoạch số 74/KH-BCS ngày 16/7/2009
về việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TW; trình Chính phủ ban hành
Quyết định số 74/2009/QĐ-TTg ngày 07/5/2009 về chế độ bồi dưỡng giám định tư
pháp; Quyết định số 123/QĐ-TTg ngày 18/01/2010 phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ luật sư phục
vụ hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến năm 2020. Xây dựng và trình Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt và ban hành các Đề án xây dựng Quy hoạch phát triển
nghề công chứng Việt Nam; Đề
án đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giám định tư pháp; Nghị định thay thế Nghị định
số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá tài sản. Đồng thời, phối hợp với các bộ, ngành
xây dựng các Thông tư hướng dẫn thực hiện các hoạt động bổ trợ tư pháp. Nhiều
Sở Tư pháp đã tham mưu cho UBND cấp tỉnh ban hành Đề án phát triển nghề luật
sư, Đề án phát triển các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh.
Trên cơ sở Chỉ thị số 33-CT/TW của Ban
Bí thư Trung ương Đảng, Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ đã phối hợp chặt chẽ với
các cơ quan, tổ chức liên quan chỉ đạo sát sao việc tổ chức thành công Đại hội
đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất, thành lập Liên Đoàn Luật sư Việt Nam; chỉ
đạo nghiên cứu, đề xuất việc thành lập tổ chức Đảng đoàn của Liên đoàn luật sư
Việt Nam và hướng dẫn thành lập tổ chức Đảng ở các Đoàn Luật sư. Tính đến ngày
31/10/2009, cả nước có 2.687 tổ chức luật sư, trong đó có 441 công ty luật với
5.714 luật sư đang hành nghề.
Bộ tích cực hướng dẫn các địa phương
tháo gỡ khó khăn trong áp dụng Luật Công chứng và xã hội hoá hoạt động công
chứng; chỉ đạo quyết liệt việc chuyển giao thẩm quyền chứng thực các hợp đồng,
giao dịch về bất động sản từ Ủy ban nhân dân cấp xã cho tổ chức hành nghề công
chứng tại địa bàn có tổ chức hành nghề công chứng hoạt động, tính đến ngày 08/01/2009
đã có 45/63 tỉnh, thành phố thực hiện việc chuyển giao, 18 tỉnh, thành phố chưa
tiến hành chuyển giao, trong đó có 10 tỉnh, thành phố đang lấy ý kiến các sở, ban,
ngành để trình UBND tỉnh quyết định. Một số địa phương quán triệt và triển khai
thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, trình UBND cấp tỉnh
ban hành Đề án phát triển các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh,
bước đầu mang lại thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp. Tính đến ngày 31/10/2009,
cả nước đã có 131 Phòng công chứng, 123 Văn phòng công chứng/63 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, với tổng cộng 532 công chứng viên; đã công chứng được 906.469
việc, nộp ngân sách: 82 tỷ 510 triệu 60 nghìn đồng.
Hiệu quả công tác giám định tư pháp
tiếp tục được tăng cường; chế độ, chính sách cho giám định viên và sự đầu tư
trang thiết bị, cơ sở vật chất cho công tác giám định bước đầu được nâng cao, dần
thu hút các giám định viên tư pháp giỏi và nâng cao chất lượng giám định tư
pháp. Đến nay, cả nước đã có 33 Trung tâm pháp y và 16 Phòng Giám định pháp y
trực thuộc; 11/30 tỉnh có bệnh viện tâm thần được thành lập Trung tâm giám định
pháp y tâm thần; tổng số giám định viên tư pháp là 2.409 người.
Công tác quản lý nhà nước về bán đấu
giá tài sản được khẳng định, tạo được sự ổn định, nâng cao hiệu quả. Bộ đã soạn
thảo, trình Chính phủ xem xét, ban bành Nghị định về bán đấu giá tài sản thay
thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP; nghiên
cứu, xây dựng Đề
án năng cao năng lực cho đội ngũ đấu giá viên nhằm từng bước nâng cao trình độ,
chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ đấu giá viên. Nhiều Sở Tư pháp đã quan tâm
quản lý, tạo điều kiện hoạt động cho các Trung tâm bán đấu giá tài sản nên hoạt
động bán đấu giá tài sản có nhiều khởi sắc; tại một số tỉnh, hoạt động bán đấu
giá tài sản đã có đóng góp tương đối thường xuyên cho nguồn thu của địa phương,
hạn chế mức thấp nhất việc thất thoát tài sản Nhà nước. Năm 2009, các Trung tâm bán đấu giá
đã tiến hành bán đấu giá thành 3.580 việc với số phí thu được khoảng 87 tỷ 12
triệu 714 nghìn đồng (tăng 51 tỷ 11 triệu 415 nghìn đồng, tương đương với
tăng 142% so với năm 2008).
Hoạt động tư vấn pháp luật của các tổ
chức, đoàn thể tiếp tục được duy trì, phát triển; Bộ đang tiếp tục hoàn chỉnh
dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định số 77/2008/NĐ- CP về tư vấn pháp luật; công tác quản lý
trọng tài thương mại cũng được quan tâm, củng cố một bước thông qua việc hoàn
thiện thể chế về lĩnh vực này,
dự án Luật
Trọng tài thương mại đã trình Quốc hội cho ý kiến. Hiện nay, cả nước có 07
Trung tâm trọng tài thương mại với tổng số 207 trọng tài viên.
4.2.
Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
a) Những
hạn chế, yếu kém
- Chất lượng hoạt
động của luật sư còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp và
hội nhập kinh tế quốc tế; tỷ lệ án hình sự có luật sư tham gia còn rất thấp;
tình trạng luật sư tham gia vụ án hình sự bắt buộc còn hình thức, nhiều trường
hợp chỉ được hợp lý hoá về mặt thủ tục; một số trường hợp luật sư có biểu hiện
chưa đúng đắn về lập trường chính trị, tư tưởng, thậm chí vi phạm pháp luật;
công tác quản lý, kiểm tra hoạt động của luật sư, nhất là đối với luật sư nước
ngoài còn chưa hiệu quả; nhiều địa phương chưa được chú trọng công tác phát
triển luật sư, chưa có Đề án phát triển nghề luật sư trên địa bàn tỉnh, dẫn đến
sự phát triển của luật sư thiếu cân đối giữa các vùng, miền, nhất là ở các tỉnh
miền núi khó khăn. Đặc biệt chưa thu hút được giới luật sư tham gia đào tạo
theo Đề án “Đào tạo chuyên gia pháp luật, luật sư phục vụ yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế giai đoạn 2008 - 2010”. Tỉnh Lai Châu chưa thành lập được Đoàn luật
sư.
- Việc xã hội hóa hoạt động công chứng
mới được triển khai còn nhiều bất cập, mang tính tự phát và thiếu đồng đều giữa
các vùng miền; nhiều địa phương chưa chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để
thực hiện Luật Công chứng, đặc biệt là chủ trương xã hội hoá. Chất lượng công
chứng chưa hoàn toàn đáp ứng tốt yêu cầu xã hội. Công tác chuyển giao chứng
thực hợp đồng, giao dịch sang công chứng có nơi còn vội vàng, không căn cứ vào điều
kiện, hoàn cảnh địa phương, có nơi chưa thực hiện đúng hướng dẫn của Bộ Tư pháp;
hiện tượng công chứng sai quy định của pháp luật vẫn còn; việc mua
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên chưa được thực hiện đầy
đủ; sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa Phòng công chứng và Văn phòng công
chứng chưa hiệu quả; quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng ở nhiều địa
phương còn lúng túng; nhiều Sở Tư pháp chưa tham mưu cho UBND tỉnh ban hành Đề
án phát triển các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh, chưa có
giải pháp hữu hiệu để quản lý hoạt động của các Văn phòng công chứng.
- Quản lý nhà nước về
giám định tư pháp còn nhiều hạn chế, thiếu thực chất; vai trò quản lý chung của
Ngành Tư pháp còn mờ nhạt; kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ công tác
còn thiếu và bất cập; đội ngũ giám định viên tư pháp còn yếu về trình độ chuyên
môn, không đồng đều và thiếu trong nhiều lĩnh vực; chưa thu hút được các cơ
quan, tổ chức chuyên môn, các chuyên gia giỏi trong và ngoài khu vực nhà nước
tham gia vào hoạt động giám định để thực hiện mục tiêu xã hội hóa hoạt động
giám định tư pháp.
- Việc quản lý
nhà nước đối với công tác bán đấu giá tài sản ở nhiều địa phương còn bất cập;
một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mới tập trung quản lý Trung tâm
bán đấu giá tài sản, chưa thực hiện được vai trò quản lý nhà nước thống nhất về
bán đấu giá tài sản ở địa phương.
b) Nguyên
nhân của hạn chế, yếu kém
- Các
chiến lược tổng thể về các hoạt động bổ trợ tư pháp đang trong quá trình hoàn
thiện và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, dự kiến ban hành trong năm 2010
như Đề
án quy hoạch tổng thể phát triển các tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam,
Đề án đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp, Đề án phát
triển đội ngũ luật sư phục vụ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế đến năm
2020; các địa phương thiếu quy hoạch tổng thể và chi tiết giữa các vùng, miền
trong việc thành lập các tổ chức công chứng, luật sư.
- Sở Tư pháp và Đoàn luật sư ở một số
tỉnh chưa có cơ chế phối hợp nên sự quản lý còn lỏng lẻo; nhiều Sở Tư pháp thiếu cán
bộ quản lý có kinh nghiệm và trình độ phù hợp; một số Đoàn luật sư
mất đoàn kết nội bộ trong Ban Chủ nhiệm, hoặc các thành viên Ban Chủ nhiệm có
tư tưởng gia đình trị nên không chú trọng đến việc phát triển đội ngũ luật sư; vai trò
của Liên đoàn luật sư Việt Nam chưa rõ nét trong các hoạt động của luật sư (như
về kiện toàn tổ chức của các Đoàn luật sư, phối hợp quản lý luật sư hành nghề,
triển khai các đề án về tăng cường năng lực cho đội ngũ luật sư...).
- Một số
địa phương nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc về chủ trương xã hội hóa hoạt động
công chứng dẫn đến chưa có đánh giá, dự báo sát với tình hình phát triển kinh
tế - xã hội ở địa phương hoặc đánh giá còn hạn chế nên chưa có bước đi thích
hợp trong xã hội hóa hoạt động công chứng, chưa có quy hoạch, định hướng hoặc
có nhưng thiếu cơ sở, không rõ ràng. Năng lực, trình độ một số công chứng viên
còn hạn chế, có trường hợp nhầm lẫn thẩm quyền công chứng và chứng thực.
- Thể chế
về giám định tư pháp chưa hoàn thiện; các bộ, ngành, địa phương chưa chú trọng
phát triển tổ chức đội ngũ giám định viên; chế độ đãi ngộ đối với hoạt động
giám định còn bất cập nên chưa thể huy động chuyên gia giỏi tham gia vào hoạt
động giám định tư pháp.
- Một số bộ, ngành
hữu quan chưa tích cực phối hợp trong việc xây dựng các văn bản, đề án trong
lĩnh vực bổ trợ tư pháp.
4.3. Bài
học kinh nghiệm
Đẩy nhanh việc hoàn
thiện thể chế để tạo cơ sở pháp lý triển khai thực hiện đầy đủ các hoạt động bổ
trợ tư pháp; chủ động phối hợp với các cấp, các ngành tăng cường sự quan tâm, nâng
cao chất lượng các hoạt động bổ trợ tư pháp, nhất là về giám định tư pháp.
5. Công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, báo chí, xuất bản
5.1. Kết
quả đạt được
Công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, báo chí, xuất bản tiếp tục được củng cố,
tăng cường, đổi mới phương thức hoạt động tuyên truyền, phổ biến, cung cấp
thông tin, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, đảm bảo thông tin pháp luật
và thông tin chung của Đảng, Nhà nước được triển khai kịp thời, chính xác đến
với nhân dân, góp phần nâng cao nhân thức pháp luật và đảm bảo quyền lợi cho
người dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội, góp phần tạo môi trường ổn định cho
sự phát triển kinh tế của đất nước.
a) Công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Công tác xây dựng thể
chế về phổ biến, giáo dục pháp luật được chú trọng. Ngay từ đầu năm, Bộ đã ban
hành các văn bản, kế hoạch hướng dẫn công tác phổ biến, giáo dục pháp luật năm
2009 và một số năm tiếp theo, trong đó đề ra những nhiệm vụ trọng tâm của công
tác năm 2009 (Kế hoạch số 1760/KH-ĐA thực hiện Đề án giai đoạn 2009-2010; Kế
hoạch thực hiện Đề án 4 năm 2009, Kế hoạch kiểm tra công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính
phủ). Thành lập Ban soạn thảo và Tổ biên tập xây dựng dự án Luật Phổ biến,
giáo dục pháp luật; trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Quyết định về xây dựng, quản
lý, khai thác tủ sách pháp luật thay thế Quyết định số 1067/QĐ-TTg; xây dựng dự
thảo Thông tư liên tịch giữa Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính hướng dẫn
việc quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
thay thế Thông tư số 63/2005/TT-BTC; dự thảo Quy
chế Báo cáo viên pháp luật thay thế Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 210/1999/QĐ-BTP
ngày 09/7/1999 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; thực hiện một
số hoạt động phục vụ việc chuẩn bị xây dựng dự án Luật Hoà giải... Hiện nay, Bộ
đang phối hợp với Văn phòng Trung ương Đảng theo dõi, đôn đốc các bộ, ngành,
địa phương thực hiện Kế hoạch tổng kết 05 năm thực hiện Chỉ thị số 32/CT-TW
ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá IX về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật của cán bộ, nhân dân(4). Bộ và một số Sở Tư pháp đã
ký Chương trình phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về tăng cường
thực hiện công tác hoà giải ở cơ sở; ký với Công đoàn Viên chức Việt Nam Chương
trình phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trong đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức giai đoạn 2009 - 2011.
Việc thực
hiện các Đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật có bước chuyển biến tích cực,
huy động nguồn lực dành cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở bộ, ngành,
địa phương; Bộ và các cơ quan Tư pháp địa phương đã tích cực tổ chức phổ biến
các Luật và các Nghị định hướng dẫn thi hành thuộc phạm vi quản lý của Ngành
như Luật Ban hành VBQPPL, Luật THADS, Luật Quốc tịch Việt Nam. Các bộ, ngành,
địa phương tiếp tục có những chuyển biến trong nhận thức và hành động về vai
trò của pháp luật và công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong quản lý, chỉ
đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội. Một số UBND tỉnh đã phê
duyệt mô
hình sinh hoạt "Ngày Pháp luật", qua đó giúp cán bộ,
công chức thường xuyên cập nhật các quy định của pháp luật liên quan đến chức
năng, nhiệm vụ của mình để giải quyết công việc một cách hiệu quả, đúng pháp luật.
Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật
được đổi mới và thực hiện có hiệu quả. Gần 20 tỉnh tổ chức Hội thi tìm hiểu
pháp luật với các chủ đề phong phú: “Chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn với
kiến thức pháp luật và năng lực điều hành công việc”, “Cán bộ tư pháp xã giỏi”,
“Tuyên truyền viên pháp luật giỏi”, “cán bộ Tư pháp - Hộ tịch giỏi”, “Tìm hiểu Pháp
lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, “Tìm hiểu Luật Phòng - chống
bạo lực gia đình”, “Đưa thông tin pháp luật về cơ sở”... (Lào Cai, Điện Biên,
Quảng Ninh, Quảng Bình, TP.HCM, Hậu Giang, Đồng Tháp, An Giang, Bình
Phước,...).
Công tác hoà giải được các Sở Tư pháp
và chính quyền cơ sở quan tâm, thường xuyên tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật,
nghiệp vụ hoà giải, tạo điều kiện cho hoà giải viên tại cơ sở hoà giải đúng
pháp luật, duy trì tình làng nghĩa xóm. Kết quả hòa giải thành trên toàn quốc
là 81,83%; một số địa phương đạt tỷ lệ trên 90% (như: Hải Phòng: 90,57%, Hoà
Bình: 92%, Khánh Hoà: 92,42%, Lào Cai: 95,16%). Nhiều địa phương đã tổ chức
thành công Hội
thi Hoà giải viên giỏi như thành phố Hà Nội, tỉnh Bắc Giang.
Nhiều tỉnh chú trọng tổ chức các lớp
tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng, nghiệp vụ phổ biến, giáo
dục pháp luật cho cán bộ tư pháp cấp xã, báo cáo viên, tuyên truyền viên, hoà
giải viên, cán bộ pháp chế các sở - ban - ngành, lãnh đạo Phòng Tư pháp, Văn
phòng UBND các cấp, tổ viên tổ hoà giải. Việc phát hành băng, đĩa CD, DVD tuyên
truyền pháp luật, giải đáp pháp luật, kể cả bằng tiếng dân tộc ít người cũng được
chú trọng.
b) Công tác
trợ giúp pháp lý
Tiếp tục xây dựng “Đề
án tăng cường trợ giúp pháp lý (TGPL) cho các huyện nghèo” trên cơ sở ghép
02 Đề án “Tăng cường công tác TGPL và truyền thông pháp luật cho đồng bào
các dân tộc vùng Tây Bắc giai đoạn 2009-2015, định hướng đến 2020” và Đề án
“Tăng cường công tác TGPL tại 62 huyện nghèo”; dự thảo Chiến lược phát
triển TGPL ở Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Ban hành 12
văn bản, đang nghiên cứu, xây dựng 06 Thông tư, Quyết định, Đề án để triển khai
thi hành Luật TGPL.
Tổ chức TGPL ở các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ngày càng được hoàn thiện. Đặc biệt, 63/63
Trung tâm TGPL đã thực hiện việc đánh giá, thẩm định chất lượng vụ việc TGPL do
các cộng tác viên và Trợ giúp viên pháp lý thực hiện. Các mô hình TGPL tại
cơ sở tiếp tục được mở rộng, đến nay có 117 Chi nhánh, 365 Tổ cộng
tác viên ở cấp huyện và 4.005 Câu lạc bộ TGPL ở
cấp xã. Đội ngũ cán bộ, cộng tác viên TGPL được tăng cường, nâng cao trình độ;
trong 63
Trung tâm TGPL có 746 cán bộ trợ giúp pháp lý, trong đó có 206 Trợ giúp
viên pháp lý. Một
số địa phương có nhiều Trợ giúp viên pháp lý như: thành phố Hà Nội (10), tỉnh
Đồng Tháp (8), tỉnh Bình Định (7). Trong toàn quốc hiện có 8.043 Cộng tác viên
TGPL, trong đó có 1.022 luật sư. Số lượng các Văn phòng luật sư, Công ty luật,
Trung tâm tư vấn pháp luật thuộc các tổ chức chính trị - xã hội như Mặt trận Tổ
quốc, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu
chiến binh, Liên đoàn lao động và các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp
như Hội Luật gia, Hội Nhà báo, Hội Khoa học kỹ thuật,… đăng ký tham gia thực
hiện trợ giúp pháp lý ngày càng tăng, đến tháng 10/2009 toàn quốc đã có trên
150 Văn phòng luật sư và 60/85 Trung tâm tư vấn pháp luật đăng ký tham gia thực
hiện trợ giúp pháp lý.
Phạm vi hoạt động
TGPL ngày càng mở rộng, hoạt động TGPL lưu động đến các địa bàn vùng sâu, vùng
xa tiếp tục được đẩy mạnh, mang lại hiệu quả thiết thực, đi vào chiều sâu, đáp
ứng nhu cầu TGPL đa dạng của các đối tượng, góp phần nâng cao ý thức pháp luật
trong nhân dân. Nhiều Trung tâm đã có sự sáng tạo, đổi mới trong hoạt động như:
tổ chức các buổi trợ giúp lưu động vào buổi tối hoặc thứ bảy, chủ nhật để tranh
thủ thời gian rảnh rỗi của người dân, thu hút đông đảo người dân tham dự; một
số tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, miền Tây Nam Bộ đã tranh thủ tổ chức TGPL vào
mùa khô, tránh mùa mưa, tăng cường TGPL lưu động kết hợp tổ chức sinh hoạt
chuyên đề pháp luật cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đi lại còn có nhiều khó
khăn hoặc đi đến những địa bàn mới để cố gắng “phủ sóng” TGPL, tập trung
phổ biến, trao đổi các vấn đề pháp luật mới, tăng cường giải đáp các vướng mắc
pháp luật của người dân.
Đến 31/10/2009, các
Trung tâm đã thực hiện trợ giúp cho 118.796 đối tượng, trong đó có 33.556 đối
tượng nghèo, 17.446 đối tượng chính sách, 31.806 người dân tộc, 5.626 trẻ em,
2.542 người già, 1.171 người tàn tật, 30.417 đối tượng khác (chi tiết xem
Phụ lục III). Các vụ việc được thực hiện chủ yếu tại cơ sở: 65.784 vụ việc,
chiếm 75%.
Triển khai thực hiện
chính sách TGPL trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006
- 2010 và Chương trình 135 giai đoạn II
, Thông tư số 07/2008/TT-BTP
hướng dẫn thực hiện chính sách trợ giúp pháp lý trong Chương trình phát triển
kinh tế - xã hội tại các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi
giai đoạn 2006 - 2010 và Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn
2006 - 2010, Bộ đã chỉ đạo triển khai các hoạt động như thành lập các Câu lạc
bộ TGPL; tập huấn kiến thức pháp luật; tổ chức TGPL lưu động; tăng cường công
tác truyền thông… Đến nay, trong toàn quốc đã thành lập được 1.420 Câu lạc bộ
TGPL theo Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và 1.565 Câu lạc bộ TGPL
theo Chương trình 135, hỗ trợ cho hàng ngàn Câu lạc bộ nông dân với pháp luật.
Trong năm 2009, các Trung tâm đã thực hiện được trên 1.050 đợt TGPL lưu động
đến các xã nghèo, xã thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, biên giới.
Quỹ TGPL Việt Nam sau
01 năm hoạt động theo Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
việc thành lập Quỹ TGPL đã và đang dần đi vào nền nếp, năm 2009 đã hỗ trợ cho
hoạt động TGPL ở 51 địa phương có khó khăn.
c) Công
tác báo chí, xuất bản
Đổi mới về nội dung
và hình thức cung cấp thông tin, chuyển tải kịp thời thông tin về hoạt động của
Ngành, đáp ứng tốt hơn yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ của Ngành; bám sát tình
hình thực tiễn; nâng cao chất lượng, tính thời sự và hàm lượng khoa học
của các tin, bài, ấn phẩm phát hành(5).
Triển khai thực hiện
Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Báo Pháp luật Việt Nam, Đề án Báo điện
tử Báo Pháp luật Việt Nam.
Triển khai Đề án kiện
toàn tổ chức, đổi mới hoạt động của Nhà xuất bản Tư pháp giai đoạn 2009 - 2015,
định hướng đến năm 2020; nửa cuối năm 2009 đã giải quyết dứt điểm những
vướng mắc, tồn đọng trong phát hành biểu mẫu, sổ sách và các loại tài liệu do Nhà
xuất bản Tư pháp chủ trì thực hiện; kịp thời tổ chức bản thảo, tuyên truyền,
giới thiệu các Nghị quyết, Luật, Pháp lệnh của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội tới mọi đối tượng bạn đọc, cung cấp tài liệu cho cán bộ, cơ quan thuộc Ngành
Tư pháp.
5.2. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
a) Những hạn chế, yếu kém
- Công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật nhiều nơi còn mang tính hình thức (như các tỉnh Ninh Thuận,
Quảng Trị,...), chưa chú trọng đến các vấn đề bức xúc của người dân; việc tổ
chức các biện pháp và hình thức phổ biến, tuyên truyền mới như điều tra thăm dò
dư luận xã hội, ký cam kết không vi phạm pháp luật, Ngày pháp luật... chưa được
tổng kết, đánh giá cụ thể để có hướng nhân rộng; việc phổ biến, giáo dục pháp luật
cho đội ngũ cán bộ, công chức bộc lộ nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao; hoạt
động của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở một số địa
phương còn mang tính hình thức và thụ động.Vai trò là cơ quan thường
trực thực hiện các Chương trình PBGDPL của Chính phủ và tham mưu cho Hội đồng
phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp chưa được Bộ và các Sở
Tư pháp phát huy thường xuyên. Một số cấp xã có tỷ lệ hoà giải ở cơ sở đạt
tỷ lệ thấp. Tài
liệu tuyên truyền, phổ biến pháp luật bằng tiếng dân tộc vẫn chưa đáp ứng được
nhu cầu tìm hiểu pháp luật của cán bộ, đồng bào dân tộc miền núi.
- Chất lượng vụ việc
TGPL ở một số Trung tâm còn chưa cao; hoạt động TGPL trong tố tụng còn hạn chế.
Một số vụ việc TGPL hoặc lợi dụng danh nghĩa TGPL sai chính sách dẫn đến khiếu
kiện không đúng, gây khó khăn cho địa phương; một số trợ giúp viên pháp lý
thiếu trách nhiệm khi tham gia trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng.
- Thông tin hoạt động
tư pháp, nhất là các thông tin liên quan đến hoạt động của Đảng và Nhà nước,
các thông tin về tuyên truyền, phổ biến, tìm hiểu pháp luật còn hạn chế. Hoạt
động của Báo Pháp luật Hoa văn kém hiệu quả và phải tạm đình chỉ hoạt động. Các
ấn phẩm của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật thiếu tính đột phá và chưa trở thành
diễn đàn khoa học, thu hút sự tham gia đông đảo, có chất lượng của các nhà khoa
học trong và ngoài Ngành.
b) Nguyên
nhân của hạn chế, yếu kém
- Chưa có nhiều đổi
mới thực chất đối với các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp
lý, cũng như báo chí, xuất bản, tuy rộng nhưng chưa sâu, chưa có tác động sâu
sắc đối với nhận thức của cán bộ, chuyên viên Ngành Tư pháp và người dân.
- Các cấp uỷ đảng,
chính quyền một số địa phương, đơn vị chưa thực sự quan tâm đẩy mạnh công tác
TGPL, phổ biến, giáo dục pháp luật; thiếu sự chỉ đạo linh hoạt trong việc vận
dụng ở từng địa phương có điều kiện, hoàn cảnh khác nhau; đội ngũ cán bộ làm
công tác TGPL, PBGDPL, hòa giải ở cơ sở còn hạn chế về trình độ chuyên môn;
chất lượng đội ngũ trợ giúp viên pháp lý, báo cáo viên còn thấp; sự phối hợp
công tác giữa các bộ, ngành, chính quyền địa phương chưa thường xuyên.
- Một số địa phương
chưa quan tâm đầu tư nguồn lực (biên chế, cơ sở vật chất và kinh phí) cho công
tác TGPL, PBGDPL; công tác quản lý chất lượng vụ việc ở một số Trung tâm TGPL
còn chưa chặt chẽ; việc phát triển nhân lực cho công tác TGPL, PBGDPL chưa được
quan tâm.
6. Công
tác xây dựng Ngành, đào tạo và nghiên cứu khoa học
6.1. Công
tác xây dựng Ngành
a) Kết quả
đạt được
Cùng với năm 2008, công tác tổ chức,
cán bộ tiếp tục được xác định là “Năm tổ chức cán bộ” - một trong những nhiệm
vụ trọng tâm năm 2009 của Ngành. Toàn Ngành đã chú trọng công tác hoàn thiện thể chế,
quy hoạch, hướng dẫn, đào tạo, sắp xếp bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ, trong đó
đã quan tâm đến cán bộ trẻ, nữ. Qua một năm thực hiện, công tác cán bộ của
Bộ, Ngành nhận được sự đồng tình ủng hộ của cán bộ, công chức, viên chức trong
và ngoài Ngành.
Đã ban hành Quy chế làm việc của Bộ; các
Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của 25/27
đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước và một số đơn vị sự
nghiệp thuộc Bộ; đã thành lập Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuột; tổ chức Lễ
ra mắt đối với các đơn vị mới được thành lập là Vụ Các vấn đề chung về xây dựng
pháp luật, Cơ quan đại diện của Bộ tại thành phố Hồ Chí Minh (theo Nghị định số
93/2008/NĐ-CP) và Tổng cục THADS (theo Nghị định số 74/2009/NĐ-CP); triển khai
hoàn thiện thể chế và chuẩn bị thành lập các đơn vị mới là Trung tâm Lý lịch tư
pháp quốc gia, Cơ quan quản lý bồi thường nhà nước (theo Luật Lý lịch tư pháp, Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước). Đây là lần đầu tiên trong gần 65 năm xây
dựng và phát triển, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các
đơn vị thuộc Bộ được kiện toàn đồng bộ, đảm bảo phân định cụ thể, rõ ràng,
không chồng chéo hoặc bỏ sót các lĩnh vực, nhiệm vụ công tác được giao.
Thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW của
Bộ Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trên cơ sở các văn bản hướng dẫn thi
hành, Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã có Nghị quyết số 72-NQ/BCS ngày 15 tháng 7
năm 2009 phê duyệt quy hoạch chức danh Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng và tương đương
đến năm 2015 đối với các đơn vị thuộc Bộ; hướng dẫn các đơn vị thuộc Bộ tiến
hành, rà soát và hoàn thiện quy hoạch lãnh đạo cấp Phòng. Đặc biệt, củng cố một bước quan
trọng đội ngũ cán bộ lãnh đạo của hệ thống cơ quan THADS từ Trung ương tới các
địa phương.
Cho đến nay, về cơ bản, cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các đơn vị thuộc Bộ, Cục
và các Chi Cục THADS trên toàn quốc đã được kiện toàn; thực hiện việc sắp
xếp, kiện toàn cơ bản cán bộ lãnh đạo cấp Vụ, cấp Phòng các đơn vị thuộc Bộ; tính đến ngày
31/12/2009, đã bổ
nhiệm lãnh đạo 24 cấp Vụ và 02 cán bộ kiêm nhiệm lãnh đạo cấp Vụ, bổ nhiệm 91
lãnh đạo cấp Phòng, bổ nhiệm lại 03 lãnh đạo cấp phòng.
Các đơn vị trong ngành đã bố trí, sử dụng
công chức, viên chức nữ phù hợp với đặc tính về giới, điều kiện, hoàn cảnh của
công chức, viên chức nữ. Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ của các đơn vị trong
ngành phối hợp với cấp uỷ, chính quyền và các tổ chức, đoàn thể phát hiện, giới
thiệu công chức, viên chức nữ đủ tiêu chuẩn để xem xét, bổ nhiệm vào chức vụ
lãnh đạo (từ cấp Phòng trở lên), chức danh chuyên môn chủ chốt và thực hiện kịp
thời, đúng pháp luật các chế độ, chính sách đối với công chức, viên chức nữ.
Thực hiện chính sách luân
chuyển cán bộ, cử cán bộ trẻ, có triển vọng về địa phương để hỗ trợ cho các địa
bàn vùng sâu, vùng xa, nhằm tạo nguồn lãnh đạo kế cận cho Bộ, Ngành(6).
Công tác tổ chức cán bộ đã có sự linh hoạt hơn, tạo được sự ổn định cho một số
đơn vị thuộc Bộ, nhất là Trường Đại học Luật Hà Nội.
Công tác bồi dưỡng
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật kiến thức mới cho đội ngũ cán
bộ, công chức của Ngành tiếp tục được quan tâm, nhất là với đội ngũ cán bộ tư
pháp cấp huyện và xã, tạo điều kiện để cán bộ được cập nhật kiến thức, nhằm
nâng cao trình độ về chính trị và chuyên môn nghiệp vụ, phục vụ công tác tốt
hơn.
Để kiện toàn tổ chức cơ quan Tư pháp
và tăng cường đội ngũ cán bộ tư pháp địa phương theo yêu cầu nhiệm vụ mới, Bộ
Tư pháp đã phối hợp với Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV
hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện và công
tác tư pháp của Uỷ ban nhân dân cấp xã (Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV);
đồng thời hướng
dẫn, chỉ đạo các Sở Tư pháp tham mưu cho UBND tỉnh kiện toàn tổ chức cán bộ Tư
pháp địa phương. Qua đó, tổ chức của các cơ quan tư pháp địa phương được kiện
toàn một bước.
Các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương đã tích cực, chủ động triển khai thực hiện Thông tư liên
tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV,
Công
văn số 972/BTP-TCCB ngày 01/4/2009 của Bộ Tư pháp về việc tổ chức thực hiện kết
luận của Thủ tướng Chính phủ, Công văn số 60-CV/BCS ngày 10/6/2009 của Ban Cán
sự đảng Bộ Tư pháp về việc đề nghị quan tâm kiện toàn, củng cố cơ quan tư pháp
địa phương. Tính đến ngày 31/12/2009, 55 tỉnh đã ban hành Quyết định quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp. Nhìn chung
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Sở Tư pháp được ban hành là phù hợp và thống
thất với Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV, trong đó cơ cấu tổ chức
đã tăng từ 01 đến 02 đơn vị; có 45 Sở Tư pháp đã thành lập Phòng Bổ trợ tư pháp;
31
tỉnh đã có văn bản hướng dẫn UBND cấp huyện quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Phòng Tư pháp.
Nhiều bộ, ngành đã
ban hành quy định về quản lý, tổ chức và phạm vi hoạt động của cán bộ pháp chế;
tổ chức Hội nghị tập huấn nghiệp vụ pháp chế để nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ cho cán bộ pháp chế các cơ quan, đơn vị (như Bộ Quốc phòng; Bộ Lao
động, thương binh và xã hội; Bộ Văn hoá, thể thao và du lịch; Bộ Ngoại giao, Bộ
Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường...).
b) Những hạn
chế, yếu kém và nguyên nhân
-
Việc kiện toàn tổ chức cán bộ tư pháp địa phương còn chậm; mặc dù đã có Thông
tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV nhưng nhiều đia phương vẫn chưa quy định
cụ thể chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của phòng tư pháp cấp huyện và tư pháp cấp
xã ,việc kiện toàn tổ chức pháp chế còn chậm nhất là cán bộ pháp chế cơ quan
chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, còn nhiều cán bộ kiêm nhiệm, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ của cán bộ này còn hạn chế. Nhìn chung trong toàn Ngành mới chỉ
kiện toàn về chức năng nhiệm vụ mà chưa tăng biên chế bổ sung cán bộ nên tình
trạng quá tải công việc vẫn còn xảy ra phổ biến.
- Số lượng và chất
lượng đội ngũ công chức trong Ngành Tư pháp nhìn chung chưa ngang tầm với yêu
cầu nhiệm vụ; đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện và cấp xã nhiều nơi còn mỏng, chuyên
môn, nghiệp vụ còn nhiều hạn chế; chưa kiện toàn được về mặt thể chế đối với
cán bộ Tư pháp - Hộ tịch cấp xã; cơ cấu cán bộ chưa hợp lý, nguồn tuyển dụng
cán bộ vào Ngành Tư pháp chưa đa dạng về chuyên ngành đào tạo, trình độ đào
tạo; tình trạng quá tải công việc tư pháp vẫn còn xảy ra ở một số lĩnh vực, địa
phương; chế độ, chính sách cán bộ của Ngành chưa đáp ứng được yêu cầu thu hút
người tài; đời sống vật chất của cán bộ, công chức, viên chức trong Ngành còn
nhiều khó khăn. Hiện tượng cán bộ xin ra khỏi Ngành vẫn còn nhiều.
- Chủ trương luân
chuyển, điều chuyển cán bộ, tăng cường cán bộ trẻ đi cơ sở chưa được thực hiện
thường xuyên, hiệu quả chưa cao; công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ trong
Ngành tuy đã được tăng cường nhưng vẫn chưa có quy hoạch, kế hoạch mang tính
chiến lược lâu dài; việc bồi dưỡng, cập nhật kiến thức bổ trợ cho cán bộ chưa
được thực hiện thường xuyên.
- Nhiều địa phương
chưa quan tâm đến việc kiện toàn biên chế cho Ngành Tư pháp, nhất là tư pháp
cấp huyện và cấp xã và Tổ chức pháp chế các sở, ngành; nguồn bổ sung cán bộ Tư
pháp còn thiếu, chưa đa dạng về chuyên ngành đào tạo, trình độ đào tạo, nhất là
các vùng đồng bào dân tộc, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Một số Sở Tư pháp chưa
thật chủ động tích cực trong việc tham mưu cho cấp uỷ, UBND cấp tỉnh cũng như
phối hợp với các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện trong việc kiện toàn củng cố tổ
chức cán bộ và nâng cao năng lực hoạt động các cơ quan tư pháp địa phương, pháp chế Sở, ngành.
- Một số đơn vị thuộc
Bộ, Sở Tư pháp, cơ quan THADS chưa quan tâm: kiện toàn Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ
của đơn vị mặc dù số lượng cán bộ, công chức là nữ từ đủ 10 người trở lên; nâng
cao trình độ cán bộ nữ; tạo
điều kiện bố trí kinh phí hoạt động Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ của đơn vị theo đúng hướng dẫn
của Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp.
- Một số bộ, ngành
chưa quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của Tổ chức pháp chế bộ, ngành hoặc vị thế
chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao nên việc triển khai thực hiện công việc còn
gặp nhiều khó khăn.
- Công tác thi đua,
khen thưởng chưa được đổi mới căn bản; việc lựa chọn, giới thiệu các mô hình
điểm, cách làm hay và các tấm gương điển hình về thi đua trong Ngành còn chưa
được quan tâm đúng mức; chưa ban hành các bảng chấm điểm thi đua trong từng
lĩnh vực.
6.2. Công
tác đào tạo và nghiên cứu khoa học
a) Kết quả
đạt được
Hoàn thiện các Đề án xây dựng các cơ
sở đào tạo (Trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp) trình Thủ tướng Chính
phủ. Hiện nay, Bộ đang xây dựng Đề án tổng thể xây dựng các cơ sở đào tạo pháp
lý. Hoàn thành việc xây dựng Kế hoạch đào tạo năm 2010 và 5 năm 2011 - 2015 của
Bộ Tư pháp, tập trung vào công tác đào tạo Cử nhân luật và Trung cấp luật của
Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuột).
Trường Đại học Luật
Hà Nội có nhiều cố gắng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên đạt
chuẩn; đổi mới mạnh mẽ phương pháp đào tạo (năm học 2009 - 2010 thực hiện việc
chuyển đổi từ hệ thống đào tạo theo niên chế sang hệ thống tín chỉ và được áp
dụng chính thức đối với sinh viên đại học hệ chính quy khóa 34 và lớp Cao học
khóa XVII); tổ chức thực hiện tốt các hoạt động đào tạo pháp luật cơ bản ở các
trình độ trung cấp, cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ luật theo chỉ tiêu, chương
trình và kế hoạch đã được duyệt(7); mở rộng hợp tác quốc tế về đào
tạo thạc sĩ, tiến sĩ Luật với các trường Đại học tổng hợp: Tây Anh quốc - Vương
quốc Anh, Nagoya - Nhật Bản, Lun - Thụy Điển,... Trường Đại học Luật Hà Nội đã
hoàn thành công tác đánh giá ngoài, kết quả Trường đã được
Đoàn đánh giá chất lượng của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Đoàn đánh giá ngoài) khảo
sát, đánh giá xếp ở mức độ 2, mức cao nhất trong các mức đánh giá.
Học viện Tư pháp tổ chức các lớp đào
tạo nghiệp vụ xét xử với 532 học viên, nghiệp vụ luật sư với 1.734 học viên,
nghiệp vụ THADS với 386 học viên, nghiệp vụ công chứng với 291 học viên; đã đào
tạo thành công 01 lớp nghiệp vụ công chứng cho học viên CHDCND Lào trong thời
gian 3 tháng; chú trọng đẩy mạnh hoạt động thực hành nghề luật, góp phần thiết
thực nâng cao chất lượng đào tạo(8); áp dụng rộng rãi công nghệ
thông tin vào phục vụ nghiên cứu, giảng dạy và học tập.
Triển khai thực hiện Đề án thành lập Trường
trung cấp Luật Buôn Ma Thuột ở tỉnh Đắk Lắk: chuẩn bị cơ sở vật chất, tài liệu
học và tổ chức tuyển sinh khoá học đầu tiên trong tháng 01/2010; phối hợp với
tỉnh Hậu Giang chuẩn bị thành lập Trường trung cấp Luật số 2 để đào tạo cán bộ
có trình độ trung cấp luật cho tỉnh Hậu Giang và các tỉnh miền Tây Nam Bộ.
Công tác nghiên cứu
khoa học tiếp tục bám sát yêu cầu, mục đích, nhiệm vụ trọng tâm của Ngành, gắn
kết nghiên cứu khoa học, tổ chức các hội thảo, toạ đàm với xây dựng VBQPPL,
thực hiện các nhiệm vụ quan trọng của Ngành, tạo cơ sở lý luận pháp lý và cơ sở
thực tiễn cho hoạt động xây dựng đề án, văn bản của Bộ(9), các hoạt
động của Ngành và chiến lược phát triển Ngành Tư pháp(10); góp ý
nhiều luận điểm khoa học và thực tiễn vào các văn kiện phục vụ Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI; nghiên cứu, xây dựng chuyên đề về Nhà nước pháp quyền.
b) Những
hạn chế, yếu kém
- Một số chương
trình công tác của Học viện Tư pháp đặt ra không được hoàn thành hoặc không
đúng tiến độ: Công tác nghiên cứu khoa học; Xây dựng các Đề án, Quy chế; Biên
soạn giáo trình. Sự phối hợp giữa các đơn vị trong Học viện thiếu chặt chẽ; kỷ luật
lao động có nơi, có lúc còn bị buông lỏng; công tác đào tạo còn
nhiều bất cập, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của xã hội và Chiến lược cải cách tư
pháp, cải cách hành chính trong lĩnh vực tư pháp. Tình trạng buông lỏng quản lý
của Ban Giám đốc Học viện Tư pháp dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng trong
lĩnh vực tài chính và đầu tư xây dựng cơ bản.
- Công tác đào tạo
sản phẩm đầu ra của Trường Đại học Luật Hà Nội vẫn còn bất cập, tình trạng thiếu
tự tin trong giao tiếp và làm việc của bộ phận lớn sinh viên luật tốt nghiệp
vẫn còn; trình độ ngoại ngữ chưa đáp ứng được yêu cầu công việc; việc thích
nghi với môi trường làm việc chưa cao. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý thiếu
tinh thần hợp tác, xây dựng trong việc thúc đẩy sự phát triển của Trường.
- Nghiên cứu khoa học pháp
lý
còn
thiếu những luận điểm khoa học có tính chiến lược và tầm khái quát làm cơ sở
cho việc xây dựng các Chiến lược của Ngành; nhiều giải pháp đề xuất còn chung
chung, thiếu cụ thể và chưa khả thi; nhiều kết quả nghiên cứu khoa học không được
ứng dụng vào thực tiễn quản lý, xây dựng văn bản, đề án; một số kết quả nghiên
cứu còn chậm so với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
c) Nguyên
nhân của hạn chế, yếu kém
- Chậm đổi mới phương
pháp và nội dung đào tạo; sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong đào tạo một số
chức danh tư pháp chưa cao, đặc biệt không có nguồn đào tạo Kiểm sát viên 02
năm vừa qua.
- Việc tổ chức cho
sinh viên luật đi thực tập để làm quen môi trường làm việc chưa được coi trọng,
vẫn nặng về hình thức, đôi khi buông lỏng; chưa có chương trình đào tạo bài bản
nhằm nâng cao trình độ ngoại ngữ giao tiếp và chuyên ngành luật cho sinh viên luật.
- Công tác khảo sát,
nghiên cứu thực tiễn, mở rộng kinh nghiệm nghiên cứu của nước ngoài liên quan
đến nhiệm vụ khoa học còn hạn chế; nguồn tài chính còn ít đã ảnh hưởng đến công
tác khảo sát, nghiên cứu thực tiễn; lực lượng cán bộ làm công tác nghiên cứu
khoa học còn mỏng.
- Một bộ phận giảng
viên còn chậm đổi mới trong việc cập nhật đầy đủ các kiến thức thực tiễn, chưa
đổi mới phương pháp giảng dạy.
- Sự phối kết hợp
giữa các cơ sở nghiên cứu khoa học và các cơ sở đào tạo, giữa các cộng đồng
doanh nghiệp, các hiệp hội, các tổ chức tư vấn, dịch vụ pháp lý trong việc
triển khai nghiên cứu còn ít; việc huy động sự tham gia của các chuyên gia đầu
ngành và xã hội vào nghiên cứu khoa học pháp lý còn hạn chế; chưa có cơ chế
khai thác các kết quả nghiên cứu một cách hiệu quả; kinh phí đầu tư cho nghiên
cứu khoa học còn ít.
6.3. Bài
học kinh nghiệm
- Đối với công tác
xây dựng Ngành: Cần
coi trọng công tác tổ chức, cán bộ, nhất là việc kiện toàn người đứng đầu đủ
năng lực, trình độ, gương mẫu về phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm và
hoàn thành công tác; chú trọng triển khai các kế hoạch đào tạo cán bộ Tư pháp,
nhất là các địa phương vùng sâu, vùng xa, có trình độ cán bộ thấp.
- Đối với công tác nghiên
cứu khoa học: Tăng cường tính thực tiễn, khả năng vận dụng vào hoàn cảnh Việt
Nam; tập trung vào những vấn đề trọng tâm, trọng điểm của Bộ, Ngành.
- Đối với công tác đào
tạo: Tăng mạnh thời lượng học ngoại ngữ, nhất là chuyên ngành luật; tổ chức
nhiều khoá thực tập để sinh viên làm quen với thực tiễn; nâng cao kỹ năng
thuyết trình.
7. Công
tác hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật
7.1. Kết
quả đạt được
Với phương châm mở rộng
hợp tác với các nước có tiềm năng; chú trọng tăng cường hợp tác với các đối tác
truyền thống, các nước láng giềng, các nước trong khu vực; đẩy mạnh thực hiện Luật
Tương trợ tư pháp, đàm phán và tiến tới ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp về
các vấn đề dân sự và thương mại với một số quốc gia, công tác hợp tác quốc
tế về tư pháp và pháp luật năm 2009 đã đạt được kết quả khả quan hơn những năm
gần đây, nhiều
lĩnh vực tư pháp và pháp luật được mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ tối đa
các nguồn tài trợ quốc tế, phục vụ đắc lực cho công tác xây dựng và hoàn thiện
thể chế, tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác tư pháp.
Trong năm 2009, đã đàm phán, ký kết
một số dự án: Chương trình Đối tác Tư pháp do Uỷ ban Châu Âu, Đan Mạch
và Thụy Điển đồng tài trợ; Dự án về tăng cường tiếp cận công lý và bảo
vệ quyền tại Việt Nam với Chương trình phát triển của Liên hợp quốc; Chương
trình hậu gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của Chính phủ nhằm đảm bảo
thực thi các cam kết của Việt Nam với WTO...; xây dựng Kế hoạch
thực hiện Chương trình hợp tác 3 năm triển khai Tuyên bố chung về hợp tác pháp luật
và tư pháp Việt Nam - CHLB Đức; củng cố và phát triển quan hệ hợp tác truyền
thống với các nước Đông Âu cũ (Bun-ga-ri, Hungary, Ca-dac-xtan); tham gia tích
cực vào việc đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế, triển khai các nội dung
nhằm thực hiện Hiến chương ASEAN; chỉ đạo tổ chức thành công Đại hội lần thứ 17
Hội Luật gia dân chủ quốc tế.
Chú trọng hợp tác quốc tế với các nước
láng giềng như Lào và Cam-pu-chia. Đặc biệt, việc lần đầu tiên Bộ trưởng Tư
pháp nước ta thăm và ký kết Biên bản Ghi nhớ về hợp tác tư pháp và pháp luật
với Cam-pu-chia, mở
ra triển vọng quan hệ hợp tác giữa hai Bộ, góp phần tích cực vào sự hợp tác
toàn diện giữa hai Nhà nước trong thời gian tới.
Trực tiếp hoặc phối hợp với các bộ,
ngành tham gia việc giải quyết nhiều tranh chấp quốc tế mà Việt Nam là một bên
có liên quan. Thực hiện Luật Tương trợ tư pháp, từ ngày 16/04 đến 30/11/2009, Bộ
đã giải quyết 1743 hồ sơ ủy thác tư pháp; đề xuất đàm phán và tiến tới ký kết Hiệp
định về tương trợ tư pháp về dân sự và thương mại với một số quốc gia như Vương
quốc Anh, An-giê-ri, Trung Quốc (Đài Loan),...
7.2. Những
hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
Chương trình đối ngoại năm 2009 của Bộ
còn thiếu tính chiến lược, thụ động, chưa gắn kết với chủ trương đối ngoại của
Đảng và Nhà nước. Quy chế về hoạt động đối ngoại của Bộ còn chưa được thực hiện
nghiêm chỉnh, một số đơn vị thực hiện dự án hợp tác chưa báo cáo thường xuyên
cho đơn vị quản lý hợp tác của Bộ; tình trạng nguồn lực chưa tập trung cho công
việc trọng tâm của Bộ, Ngành vẫn còn; quá trình đàm phán và xây dựng Văn kiện
về Chương
trình Đối tác Tư pháp do Uỷ ban Châu Âu, Đan Mạch và Thụy Điển tài trợ còn
một số sơ xuất về quy trình, kỹ thuật từ phía nhà tài trợ, gây hiểu nhầm không
đáng có cho một số cơ quan cấp trên; một số hoạt động hợp tác quốc tế khó
đảm bảo tính khả thi vì phía đối tác không sẵn sàng; quy trình hợp tác chưa
được thống nhất giữa Việt Nam và một số nước.
Những hạn chế nêu
trên chủ yếu là do thể chế vẫn chưa được hoàn thiện; số lượng
cán bộ đáp ứng tốt yêu cầu về năng lực, trình độ trong lĩnh vực hợp tác quốc tế
về pháp luật và tư pháp còn thiếu; tính chuyên sâu về chuyên môn, nghiệp vụ của
cán bộ, công chức trong lĩnh vực hợp tác quốc tế còn hạn chế; nước ta chưa
có Hiệp định tương trợ tư pháp với nhiều nước. Mặt khác, kinh phí
phục vụ các hoạt động hợp tác quốc tế còn eo hẹp, chưa tương xứng với nhiệm vụ
được giao.
7.3. Bài
học kinh nghiệm
Xác định được định
hướng chiến lược trong hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật; phát
huy vai trò đầu mối của đơn vị quản lý chung để đảm bảo sự thống nhất hợp tác
quốc tế trong toàn Ngành.
8. Công
tác thống kê, kế hoạch, tài chính
8.1. Kết
quả thực hiện
Cơ bản hoàn thành việc cấp kinh phí
hoạt động cho các đơn vị dự toán thuộc Bộ và các cơ quan THADS địa phương; tiếp
tục trang cấp trang thiết bị làm việc cho cho Ngành để đảm bảo hoàn thành nhiệm
vụ quản lý nhà nước của Ngành; bước đầu kiện toàn tổ chức, triển khai hướng dẫn
và đánh giá công tác thống kê trong Ngành Tư pháp.
Kiện toàn tổ chức bộ máy thống kê cấp
Bộ, bước đầu ở quy mô Phòng trực thuộc Vụ; thực hiện việc đánh giá thực trạng
công tác thống kê, hướng dẫn tạm thời và triển khai thực hiện thống kê trong Ngành
Tư pháp năm 2009; xây dựng và ban hành Đề án về công tác thống kê Ngành, Đề án
đổi mới công tác kế hoạch Ngành và các văn bản của Ngành có liên quan như Báo cáo
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 của Ngành Tư pháp.
Kịp thời giao dự toán thu, chi ngân
sách năm 2009 cho 762 đơn vị dự toán; giao dự toán kinh phí tăng tiền lương tối
thiểu năm 2009 cho các đơn vị trong toàn Ngành; phối hợp với Bộ Tài chính khảo
sát, nghiên cứu xây dựng định mức đổi mới về phân bổ ngân sách cho Bộ Tư pháp
theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Thực hiện kiểm
tra, xét duyệt quyết toán ngân sách năm 2008 của các đơn vị dự toán trong
Ngành; tổng hợp và lập quyết toán ngân sách toàn Ngành năm 2008 trình Lãnh đạo
Bộ ký gửi Bộ Tài chính, Kiểm toán Nhà nước theo quy định; thông báo duyệt quyết
toán ngân sách năm 2008 cho các đơn vị dự toán.
Hoàn thành đề cương chi tiết và đang
triển khai phần đánh giá thực trạng của Đề án đảm bảo trang bị phương tiện làm
việc cho các cơ quan, đơn vị thuộc Ngành Tư pháp giai đoạn 2011-2015. Triển
khai mua sắm trang thiết bị cho các đơn vị thuộc và trực thuộc Bộ, trong năm
2009 đã mua 1.490 bộ máy tính, 117 xe máy, 298 máy photocopy và 38 ô tô các
loại.
Triển khai xây dựng 56 trụ sở làm việc
và 34 kho vật chứng, quyết toán được 78 dự án hoàn thành, tỷ lệ giải ngân vốn
đầu tư xây dựng cơ bản năm 2009 ước đạt trên 90%. Tiếp tục tổng hợp phương án
sắp xếp, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước theo Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg
ngày 19/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ.
8.2. Những
hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
a) Những hạn
chế, yếu kém
- Việc triển khai xây dựng một số Đề
án về công tác thống kê, kế hoạch và tài chính của Ngành còn chậm so với kế
hoạch đặt ra từ đầu năm; công tác thống kê về cơ bản chưa phục vụ hiệu quả hoạt
động chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Bộ. Công tác kế hoạch chưa sát với thực
tế, chưa xây dựng được kế hoạch chiến lược và kế hoạch cụ thể từng năm
- Việc xét cấp bổ
sung kinh phí chi thường xuyên ngoài định mức như: kinh phí sửa chữa phương
tiện, kinh phí thuê trụ sở, kho vật chứng, kinh phí mua sắm cho các đơn vị xây
dựng xong trụ sở làm việc... còn chậm, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu của địa
phương. Chưa tổ chức được việc kiểm tra thường xuyên, đột xuất công tác tài
chính đối với các đơn vị dự toán. Công tác tổng hợp quyết toán năm 2008 chậm so
với các năm trước; tiến độ lập dự án và giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản đối
với một số công trình còn chậm; ngân sách Bộ giao cho các đơn vị còn dàn trải,
chưa sát với yêu cầu, nhiệm vụ công tác.
- Tình trạng chưa quyết toán dự án
hoàn thành còn nhiều, chưa tham mưu cho Bộ thành lập các đoàn kiểm tra, thanh
tra về công tác đầu tư xây dựng cơ bản; không kịp thời kiểm tra, giám sát các
đơn vị dự toán thuộc Bộ.
- Việc sắp xếp, xử lý nhà, đất thuộc
sở hữu nhà nước theo Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ còn
chậm.
- Chế độ báo cáo định kỳ trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ đầu tư chưa được các chủ đầu tư thực hiện nghiêm túc,
nhất là một số chủ đầu tư là Cục THADS và các đơn vị thuộc Bộ.
b) Nguyên nhân
của những hạn chế, yếu kém
- Nhiệm vụ quản lý thống nhất công tác
kế hoạch và thống kê của Ngành là những nhiệm vụ mới và khó, mang tính chất
nghiên cứu - triển khai; đơn vị được giao quản lý chưa tập trung đầu tư thời
gian và nguồn lực cho công tác này; lực lượng cán bộ làm công tác kế hoạch và
thống kê còn mỏng, không được đào tạo đúng chuyên ngành, năng lực, trình độ còn
hạn chế; một số đơn vị thuộc Bộ chưa tích cực phối hợp trong công tác này nên
việc triển khai xây dựng Đề án về thống kê, kế hoạch còn chậm; trình trạng
buông lỏng quản lý vẫn còn, vụ việc xảy ra tại Học viện Tư pháp là bài học kinh
nghiệm quý giá.
- Việc triển khai Đề án xây dựng Quy
hoạch Ngành đang khó khăn do thiếu cơ sở lý luận và thực tiễn là Chiến lược
phát triển Ngành Tư pháp đến năm 2020 vẫn còn đang trong giai đoạn triển khai
nghiên cứu(11); việc chuyển nhiệm vụ xây dựng Chiến lược phát triển Ngành
Tư pháp cũng như xây dựng Quy hoạch Ngành sang đơn vị mới được củng cố chức
năng này là một thách thức, thiếu tính khả thi; một số hoạt động điều tra cơ
bản, điều tra xã hội để làm căn cứ thực tiễn phục vụ xây dựng Chiến lược và Quy
hoạch Ngành đang chỉ ở giai đoạn bắt đầu triển khai(12).
- Việc phân bổ kinh phí tự chủ cho các
đơn vị dự toán chưa được điều chỉnh kịp thời, hợp lý giữa các năm theo đúng khả
năng sử dụng ngân sách của các đơn vị.
- Công tác phối hợp với Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh trong việc sắp xếp, xử lý nhà, đất theo Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg
chưa chặt chẽ, hiệu quả, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện.
- Các chủ đầu tư chưa tích cực, chủ
động trong việc xin cấp đất, đền bù giải phóng mặt bằng hoặc chưa có sự đôn
đốc, kiểm tra, phối hợp để hoàn thành sớm các thủ tục đầu tư trình Bộ thẩm định
phê duyệt; một số chủ đầu tư chưa chủ động hoàn thiện hồ sơ trong công tác quyết
toán dự án hoàn thành.
8.3. Bài học
kinh nghiệm
Chủ động tham mưu cho Lãnh đạo Bộ
trong công tác xây dựng dự toán, phân bổ ngân sách; tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra.
9. Công
tác thanh tra, kiểm tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống
tham nhũng
9.1. Kết
quả thực hiện
Thanh tra Bộ đã tiến hành xong 13/13
cuộc thanh tra theo kế hoạch, đạt 100% Kế hoạch công tác năm 2009 và tăng 30%
so với năm 2008 trên các lĩnh vực THADS và trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố
cáo; công tác kết hôn có yếu tố nước ngoài và nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài; công tác luật sư; xây dựng cơ bản; công tác bán đấu giá tài sản; tiến
hành thanh tra và xác minh, giải quyết 16 vụ khiếu nại, tố cáo. Qua thanh tra
đã kiến nghị thu hồi 639 triệu 76 nghìn 40 đồng và xử lý kỷ luật một số cán bộ,
công chức có liên quan do sai phạm trong quản lý tài chính, kế toán tại Học
viện Tư pháp.
Thanh tra các Sở Tư pháp đã tổ chức
thực hiện các cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành, tập trung vào một số lĩnh
vực quản lý của ngành như: công chứng, hộ tịch, luật sư. Một số địa phương đã
triển khai thực hiện tốt kế hoạch đã đề ra như Sở Tư pháp các tỉnh Khánh Hoà,
Cần Thơ, Hải Dương, Bến Tre, Ninh Thuận.
Trong năm 2009, tình hình khiếu nại,
tố cáo của Bộ Tư pháp tiếp tục diễn biến phức tạp, mặc dù số lượng công dân đến
khiếu nại, tố cáo có xu hướng giảm, giảm 22,7% so với năm 2008, nhưng số lượng
đơn thư khiếu nại, tố cáo gửi đến Bộ Tư pháp lại có xu hướng tăng, khoảng 48,6%
so với năm 2008. Việc tiếp công dân thực hiện theo đúng Quy chế tiếp công dân
của cơ quan Bộ Tư pháp. Lãnh đạo Bộ thường xuyên bố trí lịch để nghe Thanh tra
Bộ báo cáo về công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo; tiếp tục chỉ
đạo các đơn vị chức năng tiến hành các thủ tục để xây dựng Phòng tiếp công dân
mới của Bộ cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn của công tác tiếp công dân.
Để nâng cao công tác phòng, chống tham
nhũng, Bộ tiếp tục tuyên truyền, phổ biến, quán triệt, rà soát các VBQPPL về
phòng, chống tham nhũng; ban hành và bước đầu triển khai thực hiện Quy tắc ứng
xử của cán bộ, công chức Ngành Tư pháp và Kế hoạch thực hiện chiến lược quốc
gia về phòng, chống tham nhũng giai đoạn 1 từ 2009 đến 2011 của Bộ.
9.2. Những
hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
Công tác thanh tra chuyên ngành vẫn
chỉ tập trung vào một số lĩnh vực; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa
đảm bảo thời gian theo quy định; công tác phòng, chống tham nhũng chưa phát huy
hiệu quả tích cực.
Việc phối hợp với Tổng cục THADS chưa
chặt chẽ, đầy đủ dẫn đến một số khiếu kiện về THADS chưa được giải quyết dứt
điểm, gây bức xúc cho người khiếu kiện.
Những hạn chế này một phần do nguyên
nhân chủ yếu sau: đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra còn thiếu; năng lực,
trình độ chuyên môn của một số cán bộ thanh tra ở các địa phương chưa ngang tầm
với yêu cầu công tác; các vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết
của Bộ trưởng là những vụ việc rất phức tạp. Một số quy định
pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo còn bất cập,
chưa được sửa đổi, bổ sung.
10. Cải
cách hành chính, cải cách tư pháp và ứng dụng công nghệ thông tin
10.1. Kết
quả đạt được
Tiếp tục thực hiện
Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW. Ban hành
và triển khai thực hiện Chương trình công tác trọng tâm công tác tư pháp năm
2009 của Bộ Tư pháp thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW và Chương trình trọng tâm
năm 2009 - 2010 của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương. Xây dựng và trình
Quốc hội thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước, Luật Lý lịch tư
pháp, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự, trong đó chứa đựng
nhiều nội dung mới tiến bộ, phù hợp với tinh thần của cải cách tư pháp (bỏ hình
phạt tử hình đối với 8 tội danh).
Hoàn thành đúng tiến
độ giai đoạn 1 Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính giai đoạn 2007 – 2010(13);
công
bố Bộ thủ tục hành chính và cơ sở dữ liệu về thủ tục hành chính, mẫu đơn, mẫu
tờ khai hành chính trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp để người dân và
doanh nghiệp biết, thực hiện và tham gia góp ý kiến. Tổng số 327 thủ tục hành
chính, gồm 112 ở cấp trung ương, 125 ở cấp tỉnh, 38 ở cấp huyện, 52 ở cấp xã,
đồng thời tạo điều kiện cho nhân dân, doanh nghiệp có thể rút ngắn thời gian khi
làm thủ tục hành chính, đồng thời góp phần ngăn ngừa các tiêu cực, đòi hỏi thêm
các loại giấy tờ, tự đặt thêm yêu cầu của một số cán bộ, công chức khi làm thủ tục
cho nhân dân, doanh nghiệp. Tiếp tục hoàn chỉnh các biểu mẫu thủ tục hành chính
chưa được công bố trong lĩnh vực THADS, quốc tịch; hoàn thành việc rà soát
nhanh 13 thủ tục hành chính ưu tiên về lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm và bổ
trợ tư pháp; phối hợp với các đơn vị liên quan rà soát các thủ tục hành chính
khác.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông
tin: ban hành và triển khai thực hiện Chỉ thị số 01/CT-BTP ngày 10/6/2009 về
việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong Ngành Tư pháp giai đoạn
2009-2010; triển
khai thực hiện thành công các dự án theo mô hình điểm về ứng dụng công nghệ thông
tin được phân công tại Quyết định số 43/2008/QĐ-TTg ngày 24 ngày 3 năm 2008
của Thủ tướng Chính phủ. Triển
khai Phần mềm Quản lý văn bản và điều hành đã triển khai đến 26 đơn vị thuộc
Bộ. Tổ chức thành công 2 Hội nghị giao ban trực tuyến trên phạm vi toàn quốc
qua hệ thống giao ban trực tuyến đa phương tiện. Hoàn thiện việc cấp
hộp thư điện tử cho các cơ quan THADS và cán bộ, công chức THADS địa phương;
triển khai việc cấp hộp thư điện tử cho Sở Tư pháp.
Đã
xây dựng 52/88 quy trình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 và áp
dụng vào một số quy trình giải quyết công việc của Bộ Tư pháp.
10.2. Những hạn
chế, yếu kém và nguyên nhân
a) Những hạn
chế, yếu kém
-
Thiếu kế hoạch cải cách hành chính chung của Bộ và hàng năm. Việc thống kê, rà
soát thủ tục hành chính tuy cơ bản đảm bảo đúng tiến độ, nhưng chất lượng chưa cao;
thủ tục được thống kê chưa bao quát hết các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ;
báo cáo cải cách hành chính gửi Chính phủ có lúc còn chậm.
- Chưa tạo được sự
gắn kết chặt chẽ giữa rà soát, thống kê thủ tục hành chính với xây dựng các đề
án, văn bản có liên quan.
- Việc ban hành một
số văn bản hướng dẫn thực hiện các luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư về thể
chế của Ngành còn chậm, bởi vậy nhiều vướng mắc về thể chế, chính sách chưa
được tháo gỡ kịp thời.
- Việc triển khai ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động nghiệp vụ, quản lý, điều hành còn chậm; một số phần
mềm ứng dụng khi triển khai còn lỗi (như phần mềm Master trong lĩnh vực công
chứng).
b) Nguyên
nhân của hạn chế, yếu kém
- Khối lượng công
việc liên quan đến cải cách hành chính, nhất là thống kê, rà soát thủ tục hành
chính nhiều, trong khi lực lượng cán bộ chuyên trách làm công tác này còn mỏng;
một số đơn vị chưa kịp thời phối hợp chặt chẽ với Tổ công tác Đề án 30 trong
việc thống kê, rà soát các thủ tục hành chính. Chưa có kinh phí thoả đáng cho
hoạt động của Đề án.
- Nguồn nhân lực thực hiện cải cách tư
pháp còn thiếu, chất lượng chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; chế độ đãi ngộ
trong việc sử dụng cán bộ pháp luật trong Ngành kém hấp dẫn so với các ngành khác; nguồn lực tài
chính, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của các cơ quan Tư pháp còn
nhiều khó khăn.
- Việc bổ sung, hoàn
chỉnh dữ liệu thống kê thủ tục hành chính là công việc thường xuyên, gắn với
công tác xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp.
- Thủ trưởng
một số đơn vị, địa phương còn ít quan tâm, ngại đổi mới tư duy và phương thức
làm việc.
10.3. Bài
học kinh nghiệm
Đầu tư nhân lực có
chất lượng cao, kinh phí thoả đáng để nghiên cứu, đề xuất cải cách hành chính,
cải cách tư pháp, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động chung, góp phần nâng
cao vị thế của Ngành Tư pháp; giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc phát
sinh từ thể chế của Ngành.
11. Công
tác văn phòng
11.1. Kết
quả thực hiện
Công tác văn phòng
trong năm qua có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là công tác tổng hợp, tham
mưu cho lãnh đạo Bộ, lãnh đạo các Sở và Cục THADS cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương trong hoạt động chỉ đạo, điều hành, xây dựng, theo dõi và đôn
đốc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của Bộ và các cơ quan Tư pháp,
THADS địa phương, góp phần quan trọng vào việc hiện thực hoá các chủ trương,
chính sách của Bộ, Ngành, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư
pháp, cải cách pháp luật và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Tham gia tích cực và
có kết quả vào hoạt động xây dựng văn bản, đề án, nhất là các dự án luật, pháp
lệnh; chủ động xây dựng lịch công tác năm, tháng, tuần của Lãnh đạo Bộ, bảo đảm
tính khoa học, hợp lý; truyền đạt kịp thời, đầy đủ, chính xác ý kiến chỉ đạo
của Lãnh đạo Bộ tới các đơn vị, đồng thời chủ động đôn đốc các đơn vị thực hiện
các ý kiến chỉ đạo đó. Trình Bộ trưởng ban hành Quyết định số 988/QĐ-BTP ngày
11/5/2009 phê duyệt Đề án kiện toàn tổ chức và đổi mới hoạt động của Văn phòng
Bộ Tư pháp giai đoạn 2009 - 2011 và triển khai thực hiện; tổ chức tập huấn công
tác văn phòng trong toàn Ngành trong năm 2009.
Việc tổ chức các cuộc
họp, Hội nghị, Toạ đàm của Ngành được nâng cao cả về chất và lượng, đáp ứng yêu
cầu chuyên nghiệp hoá công tác văn phòng trong tình hình mới. Sự phối hợp giữa
Văn phòng Bộ và Văn phòng các Sở Tư pháp, Cục THADS các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương ngày càng chặt chẽ, đảm bảo kịp thời hơn công tác phục vụ hoạt
động chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Bộ. Việc thành lập Phòng Tổng
hợp của các đơn vị thuộc Bộ, Văn phòng Cục THADS tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương góp phần củng cố tổ chức và hoạt động của hệ thống tổ chức văn phòng
trong Ngành, nâng cao hoạt động, chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo
Tổng cục và Lãnh đạo Cục THADS đối với hoạt động THADS.
Giúp Lãnh đạo Bộ tăng cường thiết lập, duy
trì và củng cố các mối quan hệ phối hợp với Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo các bộ,
ngành, các Đoàn Đại biểu Quốc hội, Tập đoàn Kinh tế. Thông qua các buổi gặp gỡ,
làm việc để tăng cường sự hiểu biết, gắn kết chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau trong
công việc, đồng thời nhằm củng cố vai trò của Tổ chức pháp chế các bộ, ngành,
địa phương và doanh nghiệp trong công tác xây dựng, góp ý, thẩm định các
VBQPPL. Trên cơ sở các buổi làm việc, tiến tới ký kết Thoả thuận hợp tác với
một số cơ quan, đơn vị như Bộ Công thương, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam...
Tổ chức tốt các buổi làm việc, kế
hoạch làm việc của Lãnh đạo Bộ, các đơn vị thuộc Bộ, Lãnh đạo các Sở Tư pháp,
Cục THADS với các cơ quan, tổ chức có liên quan; đôn đốc, kiểm tra việc thực
hiện kỷ cương hành chính, kỷ luật lao động; phát huy tinh thần trách nhiệm của
cán bộ, công chức, viên chức trong việc duy trì kỷ cương, kỷ luật, đảm bảo chất
lượng và tiến độ công việc.
11.2.
Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
a) Những
hạn chế, yếu kém
- Sự phối hợp của Văn
phòng Sở Tư pháp một số tỉnh, thành phố với Văn phòng Bộ chưa được nhuần
nhuyễn; vai trò, vị trí của Cơ quan đại diện của Bộ tại thành phố Hồ Chí Minh
chưa thật sự rõ rệt trong việc khâu nối các sự kiện, tổ chức các chương trình
với một số cơ quan Tư pháp phía Nam.
- Chất lượng báo cáo
của các đơn vị thuộc Bộ chưa cao, chưa đánh giá một cách toàn diện các kết quả
công tác đơn vị đạt được, hiện mới chỉ ở mức độ liệt kê đầu việc, gây khó khăn
cho Văn phòng trong việc nhận định, đánh giá. Công tác thống kê, chế độ báo
cáo, cơ chế thông tin hai chiều còn nhiều hạn chế; số liệu báo cáo không đầy
đủ, nhiều trường hợp thiếu chính xác; nội dung báo cáo chưa phân tích, đánh giá
sâu tình hình thực hiện nhiệm vụ, ít đề xuất được các giải pháp xác đáng.
-
Các Sở Tư pháp và Cục THADS cấp tỉnh không hoàn thiện Phụ lục thống kê theo yêu
cầu, gây cản trở cho việc đánh giá kết quả công tác của toàn Ngành.
- Công tác tham mưu
chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Bộ, Lãnh
đạo các Sở Tư pháp và Cục THADS cấp tỉnh.
b) Nguyên
nhân của những hạn chế, yếu kém
- Đội ngũ cán bộ làm
công tác tham mưu, tổng hợp còn hạn chế về chuyên môn, kỹ năng thực hiện nhiệm
vụ và hiểu biết sâu rộng về công tác tư pháp; chưa được đào tạo bài bản và bồi
dưỡng nghiệp vụ thường xuyên; nguồn tuyển dụng đầu vào chưa được đa dạng hoá
các ngành nghề khác như báo chí, kinh tế. Đôi khi báo cáo chỉ đơn thuần về các
mặt công tác tư pháp mà không có đánh giá, nhận định về đóng góp cho sự phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh, củng cố, giữ vững quốc phòng, an ninh
tại địa phương.
- Việc phân định chức
năng chưa rõ giữa Văn phòng Bộ và Cơ quan đại diện của Bộ tại thành phố Hồ Chí
Minh cũng làm ảnh hướng không nhỏ đến công tác văn phòng, điều phối các hoạt
động chung của Bộ, Ngành.
- Nhiều Văn phòng các
Sở Tư pháp phải đảm nhiệm quá nhiều nhiệm vụ, có Văn phòng phải làm thay cho
các bộ phận chuyên môn (như về kiểm tra VBQPPL, bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp,
thanh tra), nên không có thời gian đầu tư cho công tác tham mưu, tổng hợp.
- Các Phòng Tổng hợp,
Văn phòng Cục THADS cấp tỉnh mới được thành lập nên chưa được đầu tư về cơ sở
vật chất, nguồn nhân lực, một số lãnh đạo cấp Vụ, Sở chưa quan tâm đến công tác
văn phòng.
11.3. Bài
học kinh nghiệm
Phải sâu sát thực tế,
chỉ đạo và hành động quyết liệt, dám chịu trách nhiệm, đương đầu và vượt qua
khó khăn.
12. Công
tác chỉ đạo, điều hành
12.1. Kết quả
thực hiện
Hoạt động chỉ đạo, điều hành công tác
tư pháp năm 2009 có nhiều điểm mới và chuyển biến tích cực, cụ thể như sau:
Ban hành Chương trình công tác
trọng tâm của Ngành Tư pháp năm 2009 sớm hơn so với năm 2008, trong đó xác định
rõ 7 nhóm nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện trong năm 2009 và các năm tiếp theo.
Căn cứ các nhiệm vụ trọng tâm của Bộ, Ngành và địa phương, các tổ chức, đơn
vị thuộc Bộ, Tổ
chức pháp chế bộ, ngành, cơ quan Tư pháp và cơ quan THADS các địa phương đã chủ động
xây dựng chương trình, kế hoạch công tác cụ thể của mình. Các chương trình, kế
hoạch công tác đã xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung thực hiện và cách
thức tổ chức thực hiện, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động chỉ đạo, điều
hành các mặt công tác của toàn Ngành và từng đơn vị.
Bộ cũng đã ban hành các Quyết định
phân công công tác giữa Bộ trưởng và các Thứ trưởng; ban hành Quy chế làm việc
của Bộ Tư pháp; Quy chế làm việc mẫu của các đơn vị thuộc Bộ. Hoạt động
quản lý, chỉ đạo, điều hành tiếp tục được cải tiến, bám sát kế hoạch công tác,
đồng thời mềm dẻo, linh hoạt trong từng việc cụ thể, bảo đảm nguyên tắc tập
trung dân chủ; lịch làm việc tuần, tháng, năm của Lãnh đạo Bộ được xây dựng cơ
bản tốt, tạo cơ sở cho các đơn vị triển khai kế hoạch công tác của mình.
Lãnh đạo Bộ chỉ đạo
quyết liệt, giải quyết các Chương trình, kế hoạch công tác của Ngành năm 2009,
đặc biệt chú trọng tập trung hoàn thành nhiệm vụ trọng tâm của Ngành trong năm
2009 như hoạt động: xây dựng pháp luật; hoàn thiện tổ chức cán bộ các đơn vị
thuộc Bộ, các cơ quan Tư pháp, THADS địa phương; chuyển giao công chứng, chứng
thực... Đặc biệt, Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo Bộ đã tập trung cao cho việc phối
hợp công tác với các bộ, ngành và địa phương để tăng cường sự phối hợp công
tác, giải quyết những vấn đề khó khăn, vướng mắc trong công tác tư pháp nói
chung và ở địa phương nói riêng (như vấn đề kiện toàn tổ chức luật sư, vấn đề
chuyển giao chứng thực - công chứng, kiện toàn tổ chức, cán bộ Tư pháp và THADS
địa phương), tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức về vị trí, vai trò của
công tác tư pháp ở địa phương, từng bước nâng cao vị thế Ngành Tư pháp(14)
và tạo thuận lợi cho công tác Tư pháp.
Chỉ đạo giải quyết
kịp thời những vấn đề phát sinh trong các lĩnh vực quản lý công tác của Bộ, Ngành
và các thông tin được các phương tiện thông tin đại chúng phản ánh có liên quan
đến các lĩnh vực quản lý nhà nước của Ngành; từng bước gắn kết công tác tư pháp
vào các giải pháp thúc đẩy kinh tế - xã hội trong năm 2009 và các năm tiếp
theo. Việc giải đáp kiến nghị địa phương, hướng dẫn nghiệp vụ được các đơn vị
thuộc Bộ chú trọng, giải quyết khá triệt để, tạo điều kiện thuận lợi cho địa
phương triển khai nhiệm vụ.
Việc ứng dụng công
nghệ thông tin phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành được Bộ quan tâm,
đạt được những kết quả cụ thể; cải cách hành chính trong hoạt động chỉ đạo, điều
hành tiếp tục được đẩy mạnh. Tiếp tục thực hiện đúng Quy chế dân chủ trong các
hoạt động chỉ đạo, điều hành thực hiện các nhiệm vụ chính trị, công tác tổ chức
cán bộ và tiếp công dân.
12.2.
Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân
Hoạt động chỉ đạo, điều
hành công tác Tư pháp trong năm qua còn một số khó khăn, vướng mắc. Việc xây
dựng, ban hành Chương trình, Kế hoạch công tác hàng năm của các Sở Tư pháp còn
chưa thống nhất; các đơn vị chưa đánh giá đầy đủ yêu cầu nhiệm vụ và khả năng
thực hiện nên xây dựng Kế hoạch vượt quá khả năng thực tế, dẫn đến phải điều
chỉnh nhiều lần, xin lùi sang năm 2010; vẫn còn tình trạng thụ động trong triển
khai thực hiện nhiệm vụ và nghiên cứu tình huống quản lý; tình trạng trông chờ,
ỷ lại vào sự hướng dẫn cụ thể của Trung ương, của cấp trên vẫn còn; quan hệ
phối hợp công tác, tuy đã được cải thiện, nhưng chưa đồng đều ở các đơn vị, địa
phương, vẫn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Việc hướng dẫn, chỉ
đạo chuyên môn, nghiệp vụ cho địa phương và trả lời kiến nghị địa phương, người
dân, doanh nghiệp của một số đơn vị chức năng thuộc Bộ chưa kịp thời; một số
chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ chưa được triển khai rộng khắp xuống tận cơ sở; vai trò
chỉ đạo, hướng dẫn của Sở Tư pháp đối với cấp huyện và cấp xã nhìn chung còn
hạn chế. Một số cơ quan Tư pháp địa phương còn chưa thực sự chủ động trong việc
giải quyết các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Việc bố trí chương
trình đi công tác của Lãnh đạo Bộ còn thiếu hợp lý; chưa tham mưu được cho Lãnh
đạo Bộ việc kết hợp giải quyết đồng thời các công việc tư pháp ở địa phương, kế
hoạch đôi lúc quá gấp ảnh hưởng đến công tác chuẩn bị nội dung, tạo sự bị động
cho các đơn vị và địa phương trong việc sắp đặt, tổ chức làm việc.
12.3. Bài
học kinh nghiệm
- Tranh thủ sự lãnh
đạo, chỉ đạo, sự quan tâm, ủng hộ của các cấp ủy đảng, chính quyền các cấp,
nhất là sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, sự chỉ đạo của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ; cần kịp thời báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo về những khó khăn,
vướng mắc hoặc những vấn đề mới. Chủ động thiết lập, thường xuyên duy trì, sử
dụng hiệu quả quan hệ phối hợp công tác trong và ngoài Ngành;
- Xác định đúng công việc trọng tâm, trọng điểm, chủ động bám
sát kế hoạch, nhiệm vụ chính trị của Chính phủ, Bộ, Ngành và địa phương để có
biện pháp tập trung chỉ đạo.
-
Cần sâu sát, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành; dám chịu trách nhiệm hướng
mạnh các hoạt động về cơ sở, lắng nghe ý kiến phản ánh từ cơ sở, từ xã hội.
ĐÁNH GIÁ CHUNG:
Công tác tư pháp năm 2009 được toàn
Ngành triển khai có trọng tâm, trọng điểm, bám sát các Nghị quyết của Đảng,
Quốc hội, Chính phủ, ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị triển
khai công tác tư pháp năm 2009 và nhiệm vụ chính trị của từng địa phương. Công
tác hoàn thiện thể chế cơ bản hoàn thành trên các lĩnh vực chủ chốt của Ngành
đảm bảo thực hiện trong năm 2010 một cách toàn diện các chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Bộ, Ngành theo Nghị định số 93/2008/NĐ-CP. Kết quả ở nhiều lĩnh
vực công tác tiếp tục cao hơn so với năm 2008, đóng góp tích cực
vào những thành tựu chung của đất nước về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố
quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu của người dân và
doanh nghiệp, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập kinh tế quốc
tế.
Những kết quả nổi bật
của Ngành Tư pháp năm 2009 có thể kể đến là: triển khai quyết liệt, đồng bộ Luật
THADS với việc thành lập hệ thống 3 cấp Tổng cục, Cục và các Chi cục THADS trên
toàn quốc, đồng thời triển khai Đề án thí điểm Thừa phát lại tại TP.Hồ Chí
Minh; chỉ đạo tổ chức thành công Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ
nhất, thành lập Liên đoàn Luật sư Việt Nam sau hơn 60 năm phát triển của nghề
này tạo nên thời cơ mới cho sự đóng góp tích cực của luật sư toàn quốc vào sự
nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, hội nhập quốc tế; có bước đột phá
trong việc đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hoá các hoạt động công chứng,
bán đấu giá tài sản..., nhằm tháo gỡ, giải toả những “nút thắt” trong lĩnh
vực bổ trợ tư pháp, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và
Nhà nước; kiện toàn tổ chức các cơ quan Tư pháp 4 cấp, Tổ chức pháp chế các bộ,
ngành nhằm đáp ứng các nhiệm vụ mới được giao cho Ngành Tư pháp đồng thời tập
trung chỉ đạo nâng cao chất lượng đào tạo luật và đào tạo nghề tư pháp, xúc
tiến việc mở các trường Trung cấp luật tại các khu vực phục vụ nhu cầu về đào tạo
cán bộ pháp luật và cán bộ Tư pháp cơ sở, ưu tiên các khu vực khó khăn như Tây
Nguyên, Tây Nam bộ, Tây Bắc...
Đặc biệt công tác xây
dựng pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật của Ngành Tư pháp đã có những
chuyển biến về chất. Đây là năm đầu tiên thực hiện Luật Ban hành VBQPPL 2008
với những yêu cầu mới và nghiêm ngặt về lập Chương trình xây dựng pháp luật của
Quốc hội, Chính phủ, về quy trình, tiến độ, chất lượng soạn thảo, thẩm định,
thẩm tra đánh giá tác động của dự thảo văn bản. Phối hợp chặt chẽ với Văn phòng
Chính phủ và các bộ, ngành, Bộ Tư pháp đã triển khai việc lập dự kiến Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2010 sớm hơn 6 tháng và theo
quy trình mới, nên Chương trình có tính khả thi cao hơn, đồng thời cũng linh
hoạt hơn để phúc đáp các đòi hỏi của tình hình kinh tế - xã hội diễn biến phức
tạp dưới sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Ý thức được trách
nhiệm của mình, ngoài việc kiểm tra, đôn đốc các bộ, ngành thực hiện đúng
Chương trình, Bộ Tư pháp đã cố gắng hoàn thành ở mức cao nhất kế hoạch soạn
thảo trình Chính phủ ban hành các nghị định thuộc phạm vi quản lý của Ngành
hướng dẫn thi hành các đạo luật có hiệu lực trong năm 2009 và từ 01/01/2010 như
Luật Ban hành VBQPPL, Luật Quốc tịch Việt Nam, Luật THADS, Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước... Quy trình và chất lượng thẩm định các dự thảo văn bản
pháp luật có bước chuyển tích cực theo yêu cầu của Luật 2008, ý kiến thẩm định
không chỉ còn quá thiên về các khía cạnh pháp lý đơn thuần nên đã góp phần nâng
cao tính phù hợp, khả thi và hiệu quả của các dự thảo văn bản. Ở nhiều địa
phương, các Sở Tư pháp cũng ngày càng trở thành chỗ dựa tin cậy, không thể
thiếu của HĐND và UBND cấp tỉnh trong việc ban hành VBQPPL của địa phương đảm
bảo tính thống nhất, hợp hiến, hợp pháp. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra VBQPPL,
kể cả văn bản quy phạm nội bộ của các tổ chức xã hội cũng đạt kết quả tốt.
Nhiệm vụ mới theo dõi
chung về thi hành pháp luật bắt đầu được Ngành Tư pháp triển khai trong năm
2009 theo phương châm vừa học, vừa nghiên cứu, vừa làm. Trên cơ sở phối hợp
cùng các bộ, ngành, địa phương chọn các điểm “nóng”, trong thực tiễn thi
hành pháp luật cần có sự theo dõi và tháo gỡ chung, Bộ Tư pháp đã soạn thảo và
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án về theo dõi thi hành pháp luật làm cơ
sở cho việc triển khai có tính thí điểm nhiệm vụ này ở một số ngành, lĩnh vực
và địa phương trong 2 năm tới, trên cơ sở đó xây dựng khuôn khổ pháp lý đầy đủ
cho việc quản lý nhà nước về thi hành pháp luật của Chính phủ. Ngoài ra,
công tác tổ chức, bộ máy, cán bộ của Ngành tiếp tục được củng cố, kiện toàn
mạnh mẽ; công tác chỉ đạo, điều hành từ Bộ đến địa phương tiếp tục được đổi
mới, tập trung cao cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành. Những kết
quả này đã góp phần tích cực vào quá trình hoàn thiện pháp luật, nâng cao ý
thức chấp hành, thực thi pháp luật của bộ máy nhà nước và nhân dân, từng bước
khẳng định được vị trí, vai trò của Ngành trong đời sống xã hội.
Tóm lại, công tác của
Ngành Tư pháp đã có nhiều chuyển biến tích cực, đóng góp thiết thực vào thành
tựu chung của đất nước trong việc ngăn chặn suy giảm, từng bước phục hồi nền
kinh tế; bảo đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô và tăng cường an sinh xã hội. Sở dĩ
có thể đạt
được những kết quả đó, ngoài sự nỗ lực của toàn thể cán bộ, công chức của
Ngành, trước hết phải nhờ có sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sát sao của Bộ
Chính trị, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, tiếp đó là sự phối hợp
chặt chẽ và có hiệu quả của các bộ, ngành hữu quan, đặc biệt là của Văn phòng
Chính phủ, Văn phòng Quốc hội, các cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương trong
quá trình Ngành Tư pháp thực hiện nhiệm vụ được giao. Nhờ đó, vai trò của
công tác Tư pháp trong đời sống chính trị, kinh tế - xã hội ngày càng được
khẳng định; vị trí của Ngành từ Trung ương đến địa phương ngày càng được củng
cố, tăng cường.
Bên cạnh đó, công tác tư pháp năm 2009
vẫn còn một số hạn chế, yếu kém lớn cần khắc phục như: một số hoạt động tư
pháp chưa gắn kết đầy đủ với các chỉ tiêu kinh tế - xã hội; công tác xây dựng,
thẩm định, kiểm tra VBQPPL còn chưa bảo đảm tốt yêu cầu thực tiễn xã hội; quản
lý nhà nước về hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp còn nhiều bất cập, chưa phát
huy tốt hiệu quả; hoạt động trợ giúp pháp lý, phổ biến, giáo dục pháp luật, báo
chí, xuất bản còn mang nặng tính hình thức; việc kiện toàn đội ngũ cán bộ Tư
pháp, THADS còn chậm, chất lượng cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; kết quả
thi hành án chưa có nhiều chuyển biến tích cực tương xứng với việc kiện toàn tổ
chức cán bộ; khiếu nại, tố cáo liên quan đến lĩnh vực tư pháp có xu hướng gia
tăng và một số vụ việc chưa được giải quyết dứt điểm..., cần nghiêm túc kiểm
điểm, đánh giá đúng nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, rút kinh nghiệm
và kịp thời chấn chỉnh, khắc phục để công tác tư pháp năm 2010 được triển khai
đúng phương hướng, có trọng tâm, trọng điểm với những chuyển biến mạnh mẽ hơn.
Phần thứ
hai:
PHƯƠNG
HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CỦA CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2010
Năm 2010 được
Chính phủ xác định là năm cần tập trung mọi nỗ lực phấn đấu phục hồi tăng
trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao chất lượng tăng trưởng; tăng
cường ổn định kinh tế vĩ mô và ngăn chặn lạm phát cao trở lại; bảo đảm tốt hơn
an sinh xã hội và phúc lợi xã hội; tạo bước tiến mới về chất lượng giáo dục -
đào tạo; tổ chức tốt các hoạt động kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội; bảo
đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt
động đối ngoại; tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh cải
cách thủ tục hành chính, tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành
tiết kiệm chống lãng phí; phấn đấu hoàn thành cao nhất các chỉ tiêu của Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010.
Đối với Ngành Tư pháp, năm 2010 cũng
là năm triển khai sâu rộng các VBQPPL mới được ban hành liên quan đến tổ chức
và hoạt động của Ngành; hoàn thiện cơ bản thể chế, chiến lược, đề án phát triển
Ngành; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong phạm vi quản lý của
Ngành và tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin. Tập trung triển khai mọi
nguồn lực, khắc phục khó khăn, lập thành tích cao nhất trên tất cả các mặt công
tác để chào mừng kỷ niệm 65 năm Ngày truyền thống Ngành Tư pháp (28/8/1945 - 28/8/2010),
Đại hội Thi đua yêu nước Ngành Tư pháp lần thứ 3 và các sự kiện lớn khác của
đất nước; góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Quốc hội về
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010, Nghị quyết của Chính phủ về
những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội năm 2010.
Ngành Tư pháp đề ra phương hướng,
nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu thực hiện công tác tư pháp năm 2010 như sau:
I. PHƯƠNG
HƯỚNG
1. Bám sát kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội năm 2010 của đất nước, Nghị quyết của Chính phủ về chỉ đạo, điều hành
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước
năm 2010 để kịp thời tham mưu cho Chính phủ, các bộ, ngành, HĐND, UBND các cấp
xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý phục vụ đắc lực cho việc thực hiện nhiệm vụ
của Ngành và đất nước; đưa công tác tư pháp gắn kết sâu rộng vào tiến trình
phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết những vấn đề quan trọng của đất nước và
những vấn đề nhạy cảm, bức xúc của xã hội.
2. Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất
lượng công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL,
theo dõi thi hành pháp luật, trong đó tập trung vào các giải pháp, chính sách
kinh tế, xã hội, góp phần cải thiện môi trường đầu tư, phát triển sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, thúc đẩy phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế, đưa pháp luật
thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm tính
đồng bộ và kịp thời trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật; giải quyết
một bước cơ bản tình trạng nợ Nghị định và các văn bản hướng dẫn thi hành luật
thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Hoàn thành kế hoạch xây
dựng các dự án luật, pháp lệnh của Ngành, đặc biệt là việc xây dựng Pháp lệnh
về pháp điển quy phạm pháp luật và Pháp lệnh hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật
nhằm tạo khuôn khổ pháp lý cho việc tăng cường tính minh bạch, làm cho hệ thống
pháp luật dễ tiếp cận, dễ sử dụng với mọi cá nhân, tổ chức. Triển khai đến các bộ,
ngành, địa phương việc sơ kết 5 năm thực hiện Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật đến năm 2010 và định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật đến
2020 theo chỉ đạo của Chính phủ.
3. Tăng cường xã hội hoá các hoạt động
tư pháp gắn kết với dân sinh như: hoạt động bổ trợ tư pháp, phổ biến giáo dục
pháp luật, trợ giúp pháp lý, nghiên cứu khoa học, báo chí, xuất bản; nâng cao
chất lượng công tác hộ tịch, chứng thực; tăng cường hiệu quả công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật và ý
thức chấp hành pháp luật của các tầng lớp xã hội. Thu hút, phát triển nguồn
nhân lực, nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ Tư pháp, nhất là ở cấp cơ sở;
tiếp tục kiện toàn tổ chức hệ thống cơ quan Tư pháp cấp huyện và cấp xã.
4. Tập trung cao độ cho việc triển
khai các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến thể chế của ngành, đặc biệt
là Luật Lý lịch tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật Quốc
tịch Việt Nam.
5. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải
cách tư pháp trong phạm vi quản lý của Ngành và tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chuyên môn.
6. Tiếp tục hướng mạnh công tác chỉ
đạo, điều hành của Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ, Sở Tư pháp, Cục
THADS cấp tỉnh về cơ sở để tổ chức thực hiện nhiệm vụ bám sát thực tiễn, nhất
là công tác cán bộ và triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Ngành
trong năm 2010; tăng cường hơn nữa sự phối hợp với các bộ, ngành ở Trung ương,
các cấp ủy, chính quyền địa phương trong quá trình triển khai các hoạt động của
Ngành.
II. NHIỆM
VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Nâng cao
chất lượng công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa
VBQPPL; tập trung giải quyết một bước cơ bản tình trạng nợ Nghị định và các văn
bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh thuộc thẩm quyền của Chính Phủ và Thủ
tướng Chính phủ, các văn bản hướng dẫn luật, nghị định (trong quý I/2010 giải
quyết xong 95% văn bản, đề án); ban hành và triển khai hiệu quả Thông tư của
của Bộ Tư pháp ban hành Quy chế thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL và các quy định
thẩm định của các cơ quan tư pháp, pháp chế bộ, ngành để tạo cơ chế phản biện
mạnh mẽ đối với các dự thảo văn bản, đề án. Theo dõi, đôn đốc quá trình xử lý
văn bản trái pháp luật đã được phát hiện, đảm bảo sự thống nhất của hệ thống
pháp luật và phù hợp với các cam kết quốc tế. Tăng cường sự tham gia của các Tổ
chức pháp chế bộ, ngành, địa phương trong công tác xây dựng, thẩm định VBQPPL.
Các giải pháp chủ
yếu:
- Tiến hành đồng bộ
các công việc để triển khai thực hiện Luật ban hành VBQPPL năm 2008, Chỉ thị 636/CT-TTg
ngày 20/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Luật Ban
hành VBQPPL và các biện pháp thi hành Luật, như: chủ động ban
hành hoặc phối hợp với các bộ, ngành liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn
thi hành luật, pháp lệnh; tham mưu cho Chính phủ, phối hợp với các bộ, ngành
tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong khi thi hành pháp luật.
- Xây dựng, ban hành
các văn bản hướng dẫn về xây dựng, thẩm định VBQPPL, nhất là vấn đề liên quan
đến kinh phí; Quy chế thẩm định VBQPPL của Bộ. Chỉ đạo và hướng dẫn các địa
phương xây dựng Quy chế thẩm định VBQPPL; tăng cường cơ sở vật chất và nhân sự
cho các đơn vị trực tiếp triển khai thi hành Luật.
- Hoàn thiện thể chế
về công tác kiểm tra VBQPPL; kiện toàn tổ chức, hoạt động của hệ thống kiểm tra
văn bản trên toàn quốc; bổ sung cán bộ làm công tác văn bản ở các địa phương;
chú trọng hướng dẫn nghiệp vụ, tập huấn cho cán bộ trực tiếp làm công tác văn
bản; tích cực, chủ động trong việc phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây
dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát hệ thống VBQPPL; tham gia ngay từ khâu đầu
tiên của quy trình soạn thảo VBQPPL ở tất cả các bộ, ngành.
- Sử dụng tốt hơn nữa
cơ chế phản biện xã hội trong thẩm định các dự án, đề án xây dựng luật; khai
thác tốt các kênh thông tin báo chí và ý kiến phản hồi của người dân và doanh
nghiệp về những bất cập của pháp luật để kịp thời kiểm tra, rà soát hệ thống
VBQPPL.
2. Tập
trung cao độ cho việc hoàn thiện văn bản hướng dẫn thi hành Luật THADS; kiện
toàn tổ chức và quy hoạch đội ngũ cán bộ các cơ quan THADS; phấn đấu thi
hành xong đạt 80% về việc và 60% về tiền trên số có điều kiện thi hành; giảm từ
5 đến 10% số vụ việc thi hành án tồn đọng; giải quyết triệt để và hạn chế đến
mức thấp nhất khiếu nại, tố cáo trong THADS; tăng cường chỉ đạo,
điều hành của Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS, đảm bảo nghiêm chế độ kỷ luật, kỷ
cương công vụ; Sở Tư pháp tiếp tục thực hiện vai trò tham mưu, giúp Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân tỉnh quản lý nhà nước về công tác THADS, phối hợp và tạo điều kiện
thuận lợi cho các cơ quan THADS hoàn thành nhiệm vụ. Tiến hành bổ nhiệm xong
Thừa hành viên và phối hợp với các cơ quan hữu quan của thành phố Hồ Chí Minh triển
khai thí điểm chế định thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh.
Các giải pháp chủ yếu:
-
Chủ động phối hợp với các bộ, ngành ban hành đầy đủ các VBQPPL hướng dẫn thi
hành Luật THADS và các Nghị định hướng dẫn Luật THADS, tạo cơ sở pháp lý đồng
bộ, thống nhất cho hoạt động THADS.
- Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo, điều
hành công tác tổ chức, cán bộ và công tác thi hành án trên cơ sở tăng cường ứng
dụng công nghệ thông tin.
- Tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy
cơ quan quản lý THADS và cơ quan THADS theo Luật THADS và Nghị định về tổ chức
cơ quan THADS; bổ nhiệm các chức danh thẩm tra viên, thẩm tra viên chính, thẩm
tra viên cao cấp tại các cơ quan THADS; chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật trong hoạt
động thi hành án, tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành
để kịp thời chấn chỉnh các sai phạm, giáo dục, nâng cao phẩm chất chính trị,
đạo đức của đội ngũ cán bộ; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
- Tăng cường công tác phối hợp với Ban
Thường vụ Tỉnh uỷ, Thành uỷ và Uỷ ban nhân dân các cấp trong công tác cán bộ và
quản lý, chỉ đạo THADS; tăng cường phối hợp giữa cơ quan THADS với cơ quan Tư pháp
các cấp nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong THADS và giải quyết tốt các
khiếu nại, tố cáo về THADS. Phối hợp với Toà án nhân dân tối cao tổng rà soát
các bản án, quyết định của Toà án tuyên không rõ, có sai sót, có căn cứ kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và án tuyên khó thi hành để chỉ đạo
giải quyết.
- Tiếp tục tăng cường kinh phí, cơ sở
vật chất, phương tiện hoạt động cho công tác THADS. Phối hợp, đề xuất với Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục tạo điều kiện
về đất đai, giải phóng mặt bằng để xây dựng trụ sở và kho vật chứng cho cơ quan
THADS, phấn đấu đến năm 2015 phải xây dựng xong kho vật chứng của các cơ quan THADS.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về THADS
để tranh thủ sự hỗ trợ về kỹ thuật cho công tác hoàn thiện thể chế, tăng cường
năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức THADS.
3. Triển
khai hiệu quả Đề án "Triển khai thực hiện công tác theo dõi tình hình thi
hành pháp luật": tổ chức có trọng tâm, trọng điểm tại một số bộ, ngành,
địa phương công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực an
toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường. Củng cố, kiện toàn tổ chức thực hiện công
tác theo dõi thi hành pháp luật tại Bộ Tư pháp và các Bộ: Tài chính, Tài nguyên
và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương, Khoa học và
Công nghệ và Y tế; Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Đà
Nẵng, Cần Thơ, thành phố Hồ Chí Minh và Nghệ An. Đánh giá, rút kinh nghiệm để xây
dựng Nghị định của Chính phủ về theo dõi thi hành pháp luật (trong đó quy định các
tiêu chí đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật).
Các giải pháp chủ yếu:
- Sớm ban hành Thông
tư hướng dẫn nghiệp vụ công tác theo dõi thi hành pháp luật.
- Hướng dẫn, tập huấn
cho Sở Tư pháp, các Tổ chức pháp chế bộ, ngành trong việc triển khai thực hiện Đề
án "Triển khai thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật".
- Phối hợp với các
cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương và các bộ, ngành liên quan đảm bảo đủ cơ sở
vật chất, đội ngũ cán bộ có năng lực, được tập huấn tham gia thực hiện nhiệm vụ
này.
4. Xây dựng,
ban hành các văn bản hướng dẫn và triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Lý lịch
tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và Luật Quốc tịch Việt Nam; tăng
cường quản lý nhà nước và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực
hành chính tư pháp và đăng ký giao dịch bảo đảm; phối hợp với Uỷ ban Pháp luật
của Quốc hội hoàn thiện và trình Quốc hội thông qua dự án Luật Nuôi con nuôi;
nâng cao hiệu quả việc quản lý nuôi con nuôi ở Việt Nam.
Tổ chức kiểm tra công tác đăng ký giao dịch
bảo đảm trên toàn quốc, kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh đảm bảo nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm. Tiếp tục củng cố,
kiện toàn mạnh mẽ thiết chế đăng ký giao dịch, bảo đảm; tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ trong công tác đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch, tài sản; triển khai
Dự án xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho Hệ thống đăng ký quốc gia giao dịch
bảo đảm.
Các giải pháp chủ yếu:
- Tổ chức việc phổ biến, quán triệt Luật
Lý lịch tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và các văn bản hướng
dẫn thi hành tới các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Tư pháp và cơ quan THADS các
cấp, Lãnh đạo Sở và các phòng trực thuộc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương;
tập
huấn,
bồi dưỡng
về pháp luật
và
kỹ
năng, nghiệp vụ giải quyết bồi thường, lý lịch tư pháp cho các cán
bộ, công chức trong
và ngoài Ngành Tư pháp được giao thực hiện việc giải quyết yêu cầu bồi thường và lý lịch tư pháp.
- Xây dựng Đề án thành lập Trung tâm Lý
lịch tư pháp quốc gia thuộc Bộ Tư pháp và các tổ chức quản lý cở sở dữ liệu lý
lịch tư pháp tại các Sở Tư pháp; xây dựng đội ngũ công chức có năng lực làm
công tác lý lịch tư pháp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước về lý lịch
tư pháp, xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và cấp Phiếu Lý lịch tư pháp;
bố trí kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho công tác quản lý lý
lịch tư pháp và xây dựng cở sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Trung tâm Lý lịch tư
pháp quốc gia và các tổ chức quản lý cở sở dữ liệu lý lịch tư pháp của các Sở
Tư pháp.
- Kiện toàn về
tổ chức bộ máy, nhân lực để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác bồi
thường; thành lập cơ quan quản lý nhà nước về bồi thường; hoàn thiện,
trình ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
trong quý I/2010, nhất là các Thông tư hướng dẫn việc bồi thường nhà nước trong
lĩnh vực tư pháp, THADS.
- Đẩy mạnh công
tác kiểm tra nghiệp vụ chuyên môn, phát hiện những thiếu sót của địa phương để
có uốn nắn kịp thời; kiểm tra, hướng dẫn các Sở Tư pháp và các Cơ quan đại diện
Việt Nam ở nước ngoài trong việc thực hiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
Quốc tịch Việt Nam, triển khai các việc về hộ tịch.
- Hoàn tất các kết quả tổng kết tình
hình thực hiện Luật Công chứng và Nghị định số 79/2007/NĐ-CP để đề xuất các
giải pháp tích cực nhằm tăng cường hiệu quả công tác chứng thực trong thời gian
tới và đề xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ sung pháp luật về chứng thực cho
phù hợp với thực tiễn và tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
- Chủ động xây dựng
các kế hoạch cụ thể trong việc phối hợp với các đơn vị chức năng trong và ngoài
Bộ để tăng cường hơn nữa công tác xây dựng thể chế; đôn đốc, kiểm tra công tác
đăng ký giao dịch bảo đảm tại các địa phương. Khuyến khích cán bộ, công chức,
viên chức chủ động nghiên cứu, đề xuất giải pháp nhằm thực hiện tốt công việc
được giao. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, điều hành của Lãnh đạo Cục trên cơ
sở phân cấp hợp lý cho Thủ trưởng các đơn vị thuộc Cục và tăng tính chủ động
của cán bộ, công chức, viên chức trực tiếp thực hiện nhiệm vụ.
5. Tiếp tục
hoàn thiện thể chế, xây dựng các chương trình, chính sách phát triển hoạt động
bổ trợ tư pháp, nhất là các chiến lược, quy hoạch phát triển lĩnh vực này; tăng
cường hiệu quả quản lý nhà nước về bổ trợ tư pháp theo định hướng xã hội hoá;
nâng cao năng lực cho đội ngũ luật sư phục vụ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế và
nâng cao vai trò của tổ chức Đảng trong các tổ chức hành nghề luật sư; tăng cường
trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong quản lý và đảm bảo điều kiện
vật chất, nhân lực phát triển hoạt động công chứng, giám định tư pháp.
Các giải pháp chủ
yếu:
- Phối hợp chặt chẽ
với Chính phủ và các bộ, ngành trong việc xây dựng các chiến lược, quy hoạch
phát triển và các đề án, văn bản liên quan, bảo đảm tính đồng bộ và kịp thời.
Chuẩn bị trước kế hoạch triển khai thực hiện các văn bản, đề án đã trình Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ như Nghị định thay thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về
bán đấu giá tài sản, Đề án quy hoạch phát triển các tổ chức hành nghề công
chứng ở Việt Nam, Đề án về đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giám định tư
pháp.
- Phối hợp chặt chẽ
với Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Hội Luật gia Việt Nam và các địa phương để
triển khai hiệu quả Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 30/3/2009 về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của luật sư. Triển khai thực hiện Đề
án phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến
năm 2020 và Đề án đào tạo chuyên gia pháp luật, luật sư phục vụ yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, kết hợp thực hiện tốt
vai trò tự quản của các tổ chức luật sư; sớm phát hiện và kịp thời chấn chỉnh
các biểu hiện lệch lạc, tiêu cực trong hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật.
- Xây dựng và triển khai thực hiện Lộ
trình bước 2 cho việc chuyển giao việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch từ Ủy
ban nhân dân cấp huyện, xã sang tổ chức hành nghề công chứng. Hoàn thành việc
quy hoạch trên phạm vi toàn quốc và tổ chức thực hiện đầy đủ Đề án quy hoạch
phát triển các tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam.
- Triển khai việc bán
đấu giá quyền sử dụng đất ở tất cả các tỉnh, trong đó Sở Tư pháp quản lý nhà
nước về tất cả các loại hình bán đấu giá, đặc biệt là bán đấu giá tài sản công.
- Phối hợp chặt chẽ
với các bộ, ngành và địa phương hoàn thiện các thể chế; tập trung tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc về chế độ, chính sách và các vấn đề phát sinh trong hoạt động
bổ trợ tư pháp.
6. Tăng
cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, báo chí, xuất
bản; xác định trọng tâm nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của
đội ngũ cán bộ, công chức, hỗ trợ đắc lực cho việc thực hiện các nhiệm vụ của
Ngành. Nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Tiếp
tục xây dựng dự án Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật (dự kiến trình Chính phủ
tháng 8/2010); trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “tăng cường
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh
thiếu niên”;
nghiên cứu, rà soát, đánh giá về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở phục vụ
xây dựng Luật Hòa giải; tổng kết 05 năm thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban
Bí thư Trung ương Đảng, Chương trình hành động quốc gia về PBGDPL; đề xuất
“Ngày Hiến pháp” hoặc “Ngày Pháp luật” trong toàn quốc.
Nghiên cứu và triển khai thực hiện các chiến lược,
đề án phát triển lĩnh vực TGPL; xây dựng và trình Chiến lược phát triển TGPL ở
Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030; Đề án tăng cường công tác trợ giúp
pháp lý tại 62 huyện nghèo; Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC
hướng dẫn áp dụng một số quy định về TGPL trong hoạt động tố tụng; tham gia xây
dựng Chiến lược xoá đói giảm nghèo đến năm 2020, tầm nhìn 2030, các chương
trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và tổ chức thực hiện, kiểm tra các chương
trình mục tiêu đảm bảo Chương trình được thể chế hoá và đi vào cuộc sống.
Chuyển tải kịp thời
thông tin về hoạt động của Ngành; nâng cao chất lượng, tính thời sự và hàm
lượng khoa học của các tin, bài, ấn phẩm phát hành; nâng cao uy tín của Ngành
Tư pháp trên các phương tiện thông tin, đại chúng. Thực hiện có hiệu quả cao Đề
án đổi mới tổ chức và hoạt động của Báo Pháp luật Việt Nam, Đề án Báo điện tử
Báo Pháp luật Việt Nam; Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà xuất bản Tư
pháp.
Các giải pháp chủ yếu:
- Tiếp
tục củng cố, phát huy vai trò của Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL các cấp; tăng
cường năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL, nhất là ở cấp huyện và
xã. Nghiên cứu, đổi mới các phương thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật;
các hình thức tủ sách pháp luật; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong
công tác này. Xây dựng kế hoạch và tổ chức tập huấn, phổ biến, giáo dục pháp luật
để nâng cao trình độ cán bộ Tư pháp ở cơ sở. Thường xuyên kiểm
tra, đôn đốc, đánh giá kịp thời kết quả phổ biến, giáo dục pháp luật tại các
địa phương, đánh
giá và nhân rộng những gương điển hình, những cách làm mới, hiệu quả trong hoạt
động PBGDPL.
- Tiếp tục
củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy của các Trung tâm TGPL; phát triển mạng lưới
Chi nhánh, Tổ cộng tác viên TGPL ở cấp huyện và Câu lạc bộ TGPL ở cấp xã; tăng
cường năng lực cho đội ngũ cán bộ và cộng tác viên TGPL; mở rộng mạng lưới cộng
tác viên trợ giúp pháp lý ở cấp huyện và cấp xã. Tăng cường và đẩy mạnh hoạt
động của Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL trong tố tụng; nâng cao chất
lượng tham gia TGPL trong hoạt động tố tụng. Ban hành và áp dụng các quy trình
ISO vào hoạt động quản lý của Cục TGPL, Bộ Tư pháp; chỉ đạo thực hiện tốt Bộ tiêu
chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc TGPL, Quy tắc nghề nghiệp TGPL. Triển khai hiệu
quả hoạt động của Quỹ TGPL. Đẩy mạnh hoạt động TGPL lưu động ở vùng sâu,
vùng xa và hoạt động TGPL cho các đối tượng là người dân tộc, đối tượng chính
sách. Thường
xuyên chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ, theo dõi, kiểm tra việc thực
hiện Luật TGPL và các văn bản hướng dẫn thi hành, kịp thời hướng dẫn các địa
phương tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
- Có cơ chế khuyến
khích cán bộ, công chức, viên chức tham gia viết bài, đưa tin cho các báo, tạp
chí, ấn phẩm của Ngành. Nâng cao ý thức chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp, trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ báo chí cho đội ngũ phóng viên, cộng tác viên và những
người làm công tác báo chí, xuất bản. Đa dạng hóa các kênh phát hành báo, tạp
chí và các ấn phẩm pháp lý, chú trọng công tác quảng cáo, quan hệ công chúng để
xây dựng hình ảnh, thương hiệu cho các báo, tạp chí, chuyên san, Nhà xuất bản
của Ngành.
7.
Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Luật Tương trợ tư pháp; ban
hành Quy chế quản lý hoạt động đối ngoại của Bộ, xây dựng Chương trình đối
ngoại năm 2010 của Bộ thật khoa học, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh hợp tác quốc tế
về pháp luật và tư pháp; triển khai thực hiện Chương trình Đối tác Tư pháp do Uỷ ban Châu Âu, Đan Mạch
và Thụy Điển đồng tài trợ (giai đoạn 2010- 2015)
và các dự án trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý; tiếp tục thực hiện các hoạt động theo Chương trình hậu gia
nhập WTO của Chính phủ nhằm đảm bảo thực thi các cam kết của Việt Nam với WTO. Củng
cố quan hệ hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp với các nước, tổ chức quốc
tế; mở rộng hợp tác với các nước có tiềm năng; chú trọng tăng cường hợp tác với
các đối tác truyền thống, các nước láng giềng các nước trong khu vực; đàm phán
và tiến tới ký kết Hiệp định Tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và thương
mại với một số quốc gia.
Các giải pháp chủ
yếu:
- Rà soát, đánh giá
tình hình triển khai hiệu quả Luật Tương trợ tư pháp và tham mưu cho Chính phủ,
các bộ, ngành liên quan có các biện pháp tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng
mắc trong thực tiễn thi hành Luật.
- Tham mưu với các cơ
quan cấp trên việc ký kết, gia nhập các điều ước, diễn đàn quốc tế về pháp luật
và tư pháp (kết thúc đàm phán Hiệp định Tương trợ tư pháp với Vương quốc Anh,
An-giê-ri; chuẩn bị phương án đàm phán với Campuchia, Ấn Độ, Trung Quốc (Đài
Loan)...; nghiên cứu tham gia một số công ước quốc tế La Hay về tư pháp quốc
tế).
- Tiếp tục huy động
các nguồn hỗ trợ quốc tế, điều phối hài hoà, có trọng tâm, trọng điểm các nguồn
tài trợ quốc tế phục vụ công tác của Bộ, Ngành; tham khảo kinh nghiệm các nước
phục vụ các mục tiêu cải cách pháp luật, cải cách tư pháp và Chương trình công
tác năm 2010 của Ngành.
- Chủ động hơn nữa trong việc xây dựng Đề án tăng cường
hợp tác quốc tế của Bộ, Ngành.
8. Xây dựng dự
thảo Quy hoạch tổng thể phát triển Ngành Tư pháp đến năm 2020; tập trung cao
cho việc kiện toàn công tác tổ chức - cán bộ của Ngành, nhất là ở cơ sở và các
đơn vị mới thành lập, xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh;
tạo chuyển biến thực sự về chất lượng đào tạo cán bộ pháp luật ở các tỉnh vùng
sâu, vùng xa có điều kiện khó khăn về trình độ cán bộ tư pháp. Tăng cường năng
lực cho các Tổ chức pháp chế bộ, ngành. Xây dựng và triển khai thực hiện Đề án
tổng thể “Xây dựng và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo trường Đại học Luật
Hà Nội, trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh và Học viện Tư pháp”,
nhằm tạo chuyển biến mạnh về chất lượng trong hoạt động đào tạo luật, đào tạo
các chức danh tư pháp, tập trung đột phá vào khâu đào tạo nguồn cán bộ có
trình độ trung cấp luật phục vụ cho các tỉnh còn khó khăn về nhân lực.
Các giải pháp chủ
yếu:
- Khẩn trương hoàn
thiện kết quả nghiên cứu khoa học về Chiến lược phát triển Ngành; triển khai và
tổng hợp kịp thời các kết quả điều tra cơ bản phục vụ xây dựng chiến lược, quy
hoạch Ngành để làm căn cứ khoa học và thực tiễn phục vụ việc xây dựng Quy hoạch
tổng thể phát triển Ngành Tư pháp.
- Làm tốt công tác
quy hoạch cán bộ, điều chỉnh quy hoạch cán bộ theo định kỳ, chú trọng phát
triển của công chức trẻ, nữ; tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác
đào tạo cán bộ có trình độ phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước khi hội nhập kinh
tế quốc tế; tiếp tục kiện toàn đội ngũ cán bộ, đặc biệt chú trọng đến các đơn
vị mới thành lập và đơn vị chuyển giao hoặc được bổ sung nhiệm vụ, các đơn vị
xây dựng pháp luật. Bộ tiếp tục hỗ trợ các địa phương trong công tác chuẩn hóa
đội ngũ công chức tư pháp, tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho tư pháp cấp
huyện, cấp xã.
- Tiếp tục đổi mới cơ
chế tuyển dụng cán bộ, tạo môi trường làm việc công bằng, bình đẳng, công khai,
dân chủ, đoàn kết, quan tâm tốt hơn đến đời sống của cán bộ; thực hiện việc điều
động, luân chuyển cán bộ, đặc biệt là việc luân chuyển cán bộ từ Trung ương về
địa phương và luân chuyển cán bộ trẻ đi địa phương để nâng cao hiểu biết thực
tế về tư pháp địa phương.
- Phối hợp chặt chẽ
với Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai thực hiện Đề án đưa pháp luật các nước
ASEAN vào giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật.
- Xây dựng và thực
hiện hiệu quả cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan (như Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Liên đoàn Luật sư Việt Nam)
trong hoạt động đào tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp nhằm tháo gỡ các
khó khăn trước mắt, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo các chức danh tư pháp.
- Xây dựng và trình
Chính phủ ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế Nghị định số 122/2004/NĐ-CP
ngày 18/5/2004 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức
pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn
thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và doanh nghiệp nhà
nước phù hợp với giai đoạn mới.
-
Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ của các cơ sở đào tạo cán bộ pháp luật;
đào tạo thành công khoá 1 tại Trường Trung cấp Luật thành phố Buôn Ma Thuột và
tiếp tục tuyển sinh các khoá tiếp theo, đáp ứng yêu cầu của các tỉnh Tây
Nguyên. Thành lập một số trường trung cấp luật tại một số tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương và triển khai kế hoạch đào tạo trong năm 2010.
9. Tập trung
nghiên cứu các vấn đề thực tiễn quản lý nhà nước về công tác tư pháp đặt ra
trong năm 2010, đặc biệt là các nhiệm vụ trọng tâm của Ngành và các dự án luật,
pháp lệnh đang soạn thảo; hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp
theo tinh thần Nghị quyết số 48/NQ-TW, Nghị quyết số 49/NQ-TW; nghiên cứu bổ sung,
phát triển Cương lĩnh, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2011-2015, bổ
sung các định hướng và giải pháp cho Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, các nhiệm vụ trọng tâm thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây
dựng Chiến lược và Quy hoạch phát triển Ngành Tư pháp trong bối cảnh công
nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là vai trò của Bộ Tư pháp trong
việc đại diện Chính phủ thực hiện các cam kết, giải quyết các tranh chấp quốc
tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hoá.
Các giải pháp chủ yếu:
- Đổi mới quy trình
tổ chức nghiên cứu, nghiệm thu kết quả nghiên cứu khoa học và triển khai ứng
dụng trong hoạt động của lý nhà nước của Ngành.
- Tăng cường đầu tư
một cách tập trung kinh phí cho công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, Ngành;
tăng cường hợp tác quốc tế để tranh thủ kinh nghiệm pháp lý và các nguồn lực
bên ngoài cho công tác nghiên cứu khoa học pháp lý; đa dạng hóa hình thức tổ
chức nghiên cứu khoa học theo phương châm thiết thực, hiệu quả.
- Có cơ chế thỏa đáng
khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp tích cực tham gia
nghiên cứu khoa học; phát huy trí tuệ của đội ngũ chuyên gia trong và ngoài
Ngành.
10. Đổi mới
và nâng cao chất lượng công tác thống kê, công tác kế hoạch, tài chính của
Ngành. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu của Ngành phù hợp với hệ thống chỉ tiêu quốc
gia có liên quan và đảm bảo gắn kết với các chỉ số phát triển kinh tế - xã hội.
Tạo
chuyển biến cơ bản về quản lý ngân sách, tài sản và xây dựng cơ bản của Ngành
trên cơ sở triển khai hiệu quả các Đề án đổi mới xây dựng hệ thống trụ sở và
kho vật chứng cơ quan THADS địa phương đến năm 2015, tầm nhìn 2020, Đề án nâng
cao chất lượng các công trình xây dựng cơ bản của Bộ Tư pháp.
Các giải pháp chủ
yếu:
- Khẩn trương triển
khai có hiệu quả Đề án đổi mới công tác kế hoạch của Ngành Tư pháp, trong đó
tập trung xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê của Ngành; hoàn thiện thể chế về
thống kê của Ngành (xây dựng và ban hành các Thông tư về thống kê của Ngành).
-
Chủ động nắm bắt kế hoạch hoạt trong năm của các đơn vị và chương trình hành
động trọng tâm của Ngành để đưa ra định hướng phân bổ ngân sách cho phù hợp, ưu
tiên cao nhất cho việc hoàn thành các nhiệm vụ của Bộ, Ngành.
- Thông báo vốn đầu
tư kịp thời ngay từ đầu năm, bảo đảm đủ định mức cho các đơn vị dự toán, các dự
án. Theo dõi sát sao việc thực hiện kế hoạch ngân sách của các đơn vị để có những
bổ sung, điều chỉnh kịp thời. Kiên quyết xử lý những đơn vị, cá nhân không thực
hiện đúng kế hoạch ngân sách đã được phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật, kể cả
yêu cầu phải xuất toán.
- Chủ động tổ chức
các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thống kê, kế hoạch, tài
chính tại cơ quan tư pháp địa phương.
11. Thực hiện
công tác thanh tra, thường trực tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý và giải quyết
kịp thời, đúng pháp luật đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, góp phần giữ
vững ổn định chính trị - xã hội, nhằm phục vụ tốt nhất và kịp thời cho Đại hội
Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI. Tiếp tục
chỉ đạo kiểm tra, đôn đốc giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo tồn
đọng, bức xúc, kéo dài về THADS; chỉ đạo chủ động giải quyết ngay các vụ việc
mới phát sinh tại cơ sở, hạn chế tối đa khiếu kiện vượt cấp.
Các giải pháp chủ
yếu:
-
Đẩy mạnh hoạt động thanh tra việc thực hiện chính sách pháp luật đối với hoạt
động đầu tư xây dựng cơ bản và thanh tra chuyên ngành trên một số lĩnh vực quản
lý nhà nước của Ngành; thành lập các đoàn thanh tra, xác minh giải quyết khiếu
nại, tố cáo khi có yêu cầu thực tế; tổ chức các Đoàn kiểm tra việc thực hiện
kết luận thanh tra và quyết định giải quyết khiếu nại tại các địa phương.
- Tăng cường năng lực
và đề cao trách nhiệm giải quyết dứt điểm khiếu nại, tố cáo ngay từ cấp cơ sở,
các địa phương.
- Thực hiện đúng quy
trình thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và thanh tra chuyên ngành.
- Thường xuyên tổ
chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ thanh tra cho đội ngũ cán
bộ làm công tác này, cập nhật những kiến thức mới, nhất là kiến thức về những
lĩnh vực chưa chuyên sâu như: xây dựng, tài chính...
12. Đẩy mạnh
cải cách hành chính, cải cách tư pháp và tăng cường ứng dụng công nghệ thông
tin trong các lĩnh vực hoạt động của Ngành.
Các giải pháp chủ
yếu:
- Tổ chức sơ kết 05
năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, để xác định phương hướng cải cách tư pháp
trong những năm tiếp theo.
- Hoàn thành nhiệm vụ
rà soát và kiến nghị đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong lĩnh vực tư
pháp, đảm bảo giảm tối thiểu chung là 30%; công khai các thủ tục hành chính
ngay sau khi được ban hành.
- Tiếp tục triển khai
thực hiện Chỉ thị số 01/CT-BTP ngày 10/6/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Ban
hành các Quy chế và sử dụng và quản lý hệ thống thư điện tử của Bộ; quản lý và
sử dụng Cổng thông tin điện tử của Bộ; nhất là tập trung đẩy mạnh ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo, điều hành và hoạt động chuyên môn nghiệp
vụ trên các lĩnh vực thi hành án dân sự, hộ tịch, lý lịch tư pháp, công chứng.
13. Duy trì
tốt sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trong công tác tư pháp, bám sát thực tiễn
công việc, phát hiện, tháo gỡ và giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc,
bất cập, yếu kém trong hoạt động của Bộ, Ngành, đặc biệt là của các cơ quan Tư
pháp và THADS địa phương; đảm bảo giải quyết đúng tiến độ và không ngừng nâng
cao chất lượng công việc. Đẩy mạnh thực hiện
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Ngành một cách thực chất, hiệu quả, đặc biệt là trong khối
cơ quan THADS. Xây dựng hệ tiêu chí đánh giá, xếp
loại các đơn vị thuộc Bộ, cơ quan Tư pháp, THADS địa phương.
Các giải pháp chủ
yếu:
- Xây dựng chương
trình công tác cụ thể, sát với chương trình trọng tâm của địa phương và của
Ngành.
- Lãnh đạo Bộ, Thủ
trưởng các cơ quan, đơn vị trong Ngành tiếp tục chỉ đạo sát sao, kịp thời việc
thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị; khắc phục tình trạng thụ động, ỷ
lại sự chỉ đạo của cấp trên trong triển khai thực hiện nhiệm vụ.
- Tranh thủ hiệu quả
sự lãnh đạo, chỉ đạo, quan tâm, giúp đỡ của cấp ủy, chính quyền địa phương
trong công tác tư pháp; tiếp tục chú trọng công tác phối hợp, tăng cường mối
quan hệ trong công tác; hướng mạnh về cơ sở; thực hiện việc phân cấp mạnh cho
các đơn vị, các cá nhân nhằm xác định cụ thể nhiệm vụ, nâng cao tinh thần trách
nhiệm.
-
Tăng cường vai trò đầu mối tham mưu, tổng hợp, điều phối hoạt động của cơ quan,
đơn vị, phục vụ sự chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo Bộ, lãnh đạo cơ quan, đơn
vị; ban hành và triển khai hiệu quả Quy chế tiếp nhận, xử lý, giải đáp các kiến
nghị của địa phương.
- Tăng cường kỷ cương
hành chính, kỷ luật lao động; phát huy tinh thần trách nhiệm của lãnh đạo các
đơn vị trong việc duy trì kỷ cương, kỷ luật, đảm bảo chất lượng và tiến độ công
việc.
- Duy trì nghiêm chế
độ giao ban công tác của Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo các đơn vị trong Ngành.
14.
Phát động phong trào thi đua sâu
rộng trong toàn Ngành; phấn đấu hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ của Ngành để
hướng tới kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước trong năm 2010, Đại
hội Đảng bộ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI. Tổ chức thành công Kế hoạch kỷ niệm 65 Ngày thành lập Ngành Tư pháp và Đại hội Thi đua yêu nước Ngành Tư
pháp lần thứ III.
Để tiếp tục khẳng định vị thế của
Ngành Tư pháp gắn chặt với sự chỉ đạo, điều hành của Quốc hội, Chính phủ và sự
phát triển kinh tế - xã hội, toàn thể cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư
pháp cần đồng lòng, quyết tâm chung sức vì nhân dân hoàn thành xuất sắc các
nhiệm vụ chính trị được giao, nâng cao tinh thần trách nhiệm, làm việc chủ động,
sáng tạo, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, cùng các ngành, các cấp và cả
nước thực hiện thắng lợi kế hoạch công tác năm mà Quốc hội và Chính phủ đã đề
ra./.
Nơi nhận:
-
Bộ Chính trị;
- Ban Bí thư;
- Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp TW;
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Thủ tướng Chính phủ;
- Phó TTg Trương Vĩnh Trọng;
- Văn phòng TW Đảng;
- Văn phòng Quốc hội;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ;
- Các Thứ trưởng;
- Các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp;
- Sở Tư pháp, Cục THADS cấp tỉnh;
- Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng;
- Các Tổ chức pháp chế bộ, ngành;
- Lưu: VT, TH.
|
BỘ TRƯỞNG
Hà Hùng Cường
|
(1) Trình Quốc hội khoá XII thông qua tại kỳ
họp thứ 5 các dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự, Luật
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Luật Lý lịch tư pháp; Chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh năm 2010 và bổ sung Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XII (2007 - 2011); cho ý kiến tại kỳ họp thứ 6 dự án
Luật Nuôi con nuôi; tiếp tục phối hợp với Văn phòng Chính phủ chỉnh lý dự án Luật
Tiếp cận thông tin.
(2) Năm 2008, đã ban hành 38 văn bản, đề án
thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ hoặc liên tịch ban hành, đạt 60,31% kế hoạch.
(3) Cụ thể: thi hành xong
hoàn toàn: 315.477 việc, thi hành đều: 16.578 việc, đình chỉ: 21.885 việc.
(4) Đến nay đã có 51/63
tỉnh, thành phố và 22 bộ, ngành có báo cáo tổng kết.
(5) Phát hành 13 số
tạp chí định kỳ, 13 số chuyên đề hàng tháng với các chủ đề: “Con nuôi quốc tế”,
“Trợ giúp pháp lý”, “THADS”, "Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp”, "Hợp
tác quốc tế về pháp luật”, "Giám định tư pháp”, "Hoà giải ở cơ sở”,
"Luật Quốc tịch”, "Thi hành pháp luật”, "Tư pháp Lâm Đồng”; xuất
bản 07 ấn phẩm về các chuyên đề : “Khiếu kiện hành chính và tài phán hành
chính”, “Pháp luật xử lý vi phạm hành chính”, “Kiểm tra và rà soát VBQPPL”,
“THADS và công tác xã hội hoá”, “Pháp luật về con nuôi”, “Đăng ký giao dịch
bảo đảm”, “Pháp luật và doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập”
(6) Luân chuyển, bổ nhiệm
đồng chí Phó Cục trưởng Cục Trợ giúp pháp lý tăng cường cho tỉnh Điện Biên với
chức danh Phó Giám đốc Sở Tư pháp; đồng chí Nguyên Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Cao
Bằng, đồng chí cán bộ nữ, trẻ, về công tác tại Bộ, với chức danh Phó Vụ trưởng
Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, nhằm tăng cường cán bộ có kinh nghiệm, kiến
thức thực tiễn cho các đơn vị quản lý của Bộ; đồng chí nguyên Giám đốc Sở Tư
pháp Bắc Giang về công tác tại Bộ với chức danh Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục
THADS.
(7) Hiện nay, Trường có trên 17.000 sinh
viên, trong đó có 6.100 sinh viên đại học hệ chính quy, 283 học viên cao học,
42 nghiên cứu sinh tiến sĩ luật học. Năm 2009, Trường đã tổ chức tốt nghiệp cho
gần 3.000 cử nhân luật ở các hệ đào tạo, 39 thạc sỹ luật và 15 tiến sỹ luật.
(8) Tổ chức cho học viên đi dự 25 phiên tòa trên địa
bàn thành phố Hà nội; 29 buổi tham quan tại các văn phòng Luật sư; phối hợp tổ
chức 04 phiên tòa xét xử lưu động tại Học viện Tư pháp...
(9) Nghiên
cứu Đề tài cấp Bộ: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về
tiếp cận thông tin; Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật Nuôi con nuôi; Cơ
chế đảm bảo thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính…
(10) Triển
khai nghiên cứu các đề tài cấp nhà nước như: đề tài Văn hoá pháp luật, đề tài
Thể chế xã hội; đề tài Thực thi pháp luật và Hội thảo quốc gia "1000 năm
Thăng Long - Hà Nội với những sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng trong lịch
sử phát triển của nhà nước và Pháp luật Việt Nam"; tổ chức hội thảo khoa
học, tọa đàm về "Mô hình tổ chức hoạt động của Ngành Tư pháp trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá", "Phương pháp sơ kết Nghị quyết số 48/NQ-TW
và đánh giá nhu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam giai đoạn 2010- quy
phạm pháp luật", "Đánh giá tác động kinh tế - xã hội đối với một đạo luật
sau khi ban hành", "Nhận diện các đặc trưng của VBQPPL"...
(11) Đề tài cấp Bộ về xây
dựng Chiến lược phát triển Ngành Tư pháp trong giai đoạn hiện đại hóa, công
nghiệp hóa đất nước đang trong giai đoạn xây dựng báo cáo phúc trình.
(12) Đề án điều tra cơ bản phục vụ xây dựng
chiến lược và quy hoạch Ngành mới bắt đầu triển khai.
(13) Bộ Tư pháp là 01 trong 03 Bộ đầu tiên
hoàn thành việc thống kê và trình Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục
hành chính của Thủ tướng Chính phủ Bộ thủ tục hành chính của Ngành Tư pháp.
(14) Trong năm 2009, Ban Cán sự Đảng, Lãnh
đạo Bộ đã làm việc với Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo các cơ quan: TAND tối cao,
VKSND tối cao, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Nhà nước, Bộ
Tài chính, Bộ Xây dựng, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam... và khoảng 60 địa
phương về công tác Tư pháp, THADS.