UỶ
BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
-------
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------
|
Số:
171/BC-UBTVQH12
|
Hà
Nội, ngày 6 tháng 11 năm 2008
|
BÁO CÁO
GIẢI TRÌNH, TIẾP THU VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ KINH TẾ-XÃ
HỘI VÀ DỰ THẢO NGHỊ QUYẾT VỀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI NĂM 2009
Kính thưa các vị
đại biểu Quốc hội,
Trên cơ sở Báo cáo
của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của các cơ quan của Quốc hội, các vị đại biểu
Quốc hội đã thảo luận ở Tổ (ngày 17 tháng 10) và tại Hội trường (trong hai ngày
28 và 29 tháng 10) về đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội năm 2008, phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm
2009. Căn cứ ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ
đạo các cơ quan của Quốc hội phối hợp với các cơ quan của Chính phủ nghiên cứu
để chuẩn bị báo cáo giải trình, tiếp thu và dự thảo Nghị quyết về Kế hoạch phát
triển kinh tế- xã hội năm 2009. Ngày 5 tháng 11 năm 2008, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội đã chỉ đạo Đoàn thư ký kỳ họp gửi dự thảo Nghị quyết xin ý kiến các vị đại
biểu Quốc hội.
Sau khi thống
nhất với Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo Quốc hội một số vấn đề
kinh tế-xã hội và giải trình, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội về dự thảo Nghị
quyết như sau:
I. GIẢI TRÌNH, TIẾP THU Ý KIẾN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ KINH
TẾ-XÃ HỘI NĂM 2008 VÀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI NĂM 2009
Đại đa số ý kiến đều
biểu thị sự nhất trí cao với các nội dung được nêu trong Báo cáo của Chính phủ,
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và các báo cáo khác. Các đại biểu cũng đã
nêu nhiều ý kiến đánh giá những cố gắng, tiến bộ của nền kinh tế cũng như sự chỉ
đạo, điều hành ở các cấp, các ngành. Nhiều ý kiến phân tích, góp ý sâu sắc những
mặt còn hạn chế, yếu kém với tinh thần thẳng thắn, trách nhiệm, xây dựng vào việc
tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế-xã hội năm 2008 theo Nghị quyết của Quốc
hội. Ví dụ trong lĩnh vực đầu tư, trong thực hiện các nhóm giải pháp kiềm chế lạm
phát, trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, trong lĩnh vực văn hóa, xã hội,
môi trường,... Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành cần
nghiêm túc tiếp thu các ý kiến xác đáng của đại biểu Quốc hội để rút kinh nghiệm
cho việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ năm 2009. Đồng thời, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội xin báo cáo Quốc hội một số vấn đề lớn như sau:
A.
VỀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ KINH TẾ-XÃ HỘI NĂM 2008
1. Về các kết quả đạt được
Đồng tình với nhiều
ý kiến đại biểu, Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, ngay từ khi xuất hiện những
dấu hiệu không bình thường về tài chính, kinh tế, tiền tệ, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã nắm sát tình hình, có những kết luận
sát, đúng và đưa ra định hướng điều chỉnh bổ sung về mục tiêu, nhiệm vụ và giải
pháp cho năm 2008, có tính đến những vấn đề cần phải chuẩn bị cho một số năm tiếp
theo trong tình hình lạm phát cao, kinh tế thế giới và trong nước tăng trưởng
chậm lại.
Chính phủ đã kịp
thời đưa ra 8 nhóm giải pháp phù hợp, đồng thời chỉ đạo kiên quyết, các Bộ
ngành, các địa phương, các tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước đã nghiêm chỉnh thực
hiện.
Cùng với Chính phủ,
các cơ quan của Quốc hội, nhiều đại biểu Quốc hội đã chủ động nghiên cứu, đề xuất
một số giải pháp được Chính phủ tiếp thu. Chính phủ cũng sớm có các hoạt động
phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhiều tổ chức thành
viên của Mặt trận để động viên mọi tầng lớp trong xã hội cùng góp sức với Nhà
nước tổ chức triển khai thực hiện. Các phương tiện thông tin đại chúng và các
cơ quan chức năng về tuyên truyền đã phát huy trách nhiệm, tăng cường các hoạt
động thông tin, tuyên truyền với định hướng đúng, góp phần quan trọng tạo sự đồng
thuận trong xã hội. Một số kết quả nổi bật đã đạt được là:
- Tốc độ lạm phát
và tốc độ tăng giá đã được kìm giữ, có xu hướng giảm dần trong điều kiện cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới ngày càng trầm trọng và kinh tế toàn cầu giảm
sút nhanh và rõ rệt.
- Tốc độ tăng trưởng
kinh tế giảm so với năm 2007 nhưng vẫn duy trì ở mức khá cao trong điều kiện có
rất nhiều khó khăn. Các cân đối vĩ mô cơ bản được kiểm soát, ổn định, không để
xảy ra biến động lớn.
- Các biện pháp an
sinh xã hội đạt kết quả rõ rệt do nỗ lực của toàn xã hội cùng với sự cố gắng rất
lớn của Đảng và Nhà nước trong việc huy động nhiều nguồn lực để hỗ trợ cho các
đối tượng chịu tác động của lạm phát hoặc ở những vùng chịu hậu quả nặng nề của
thiên tai, dịch bệnh.
- Chính trị, xã hội
ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.
Môi trường đầu tư tiếp tục duy trì theo hướng tích cực.
2. Về một số mặt hạn chế, yếu kém
- Về chính sách tiền
tệ: nhiều ý kiến cho rằng, thời gian qua thực hiện chính sách tiền tệ có lúc
mang tính cào bằng, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do khó
tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng.
Ủy ban Thường vụ
Quốc hội thấy rằng, để tập trung ưu tiên cho mục tiêu kiềm chế lạm phát, chúng
ta phải thực hiện các chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm tốc độ tăng tổng
phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng đang có xu hướng tăng cao do sự nới lỏng
tiền tệ trong nhiều năm gây ra. Tuy nhiên, quá trình thực hiện có mặt chưa hợp
lý, chưa có sự chọn lọc, mà còn thực hiện đồng loạt như ý kiến của nhiều đại biểu
nêu. Để khắc phục tình trạng trên, trong thời gian tới, Chính phủ cần chỉ đạo
thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt, cơ cấu tín dụng phải
phù hợp với yêu cầu của sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
tiếp cận nguồn vốn, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp xuất khẩu… Tiếp
thu ý kiến các vị đại biểu Quốc hội, vấn đề này xin được thể hiện trong mục 3,
phần II của dự thảo Nghị quyết.
- Về các doanh
nghiệp nhà nước: Nhiều ý kiến đề nghị cần chấn chỉnh và tăng cường quản lý sử dụng
vốn nhà nước, hoạt động đầu tư của các tập đoàn và các Tổng công ty nhà nước.
Ủy ban Thường vụ
Quốc hội cho rằng, đây là những ý kiến xác đáng. Các doanh nghiệp nhà nước nhất
là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước có vai trò rất lớn trong nền
kinh tế đã có đóng góp trong ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần kiềm chế lạm phát
và bảo đảm ổn định xã hội. Tuy nhiên, hoạt động của không ít doanh nghiệp hiệu
quả thấp, nhất là trong đầu tư, sử dụng các nguồn vốn của nhà nước. Vì vậy, tiếp
thu ý kiến của nhiều đại biểu, đề nghị Chính phủ cần đánh giá toàn diện và có
báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp cuối năm 2009 về hoạt động của các doanh nghiệp
nhà nước đặc biệt là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.
- Về vấn đề đầu tư
xây dựng cơ bản: Nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội bày tỏ trăn trở, bức xúc về những
yếu kém trong đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước như trong thảo luận tại
Hội trường về chuyên đề giám sát đầu tư xây dựng cơ bản ngày 5/11/2008 và đề
nghị Quốc hội cần có Nghị quyết riêng.
Ủy ban Thường vụ
Quốc hội tán thành với ý kiến đại biểu về các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
đầu tư, cơ cấu lại nguồn vốn, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát,
lãng phí ngay từ khâu quy hoạch, kế hoạch và quyết định đầu tư; xử lý dứt điểm
nợ đọng xây dựng cơ bản… và xin được tiếp thu, thể hiện như trong mục 4, phần
II của dự thảo Nghị quyết.
- Về vấn đề thu
hút và giải ngân vốn đầu tư nước ngoài, các đại biểu đều đề nghị cần có chiến
lược dài hạn để thu hút đầu tư FDI nhằm thực hiện chuyển dịch cơ cấu của nền
kinh tế, tận dụng thời cơ các nước trong khu vực đang gặp khó khăn do khủng hoảng
kinh tế, đưa nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, bền vững. Tiếp thu ý kiến đại
biểu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ cần chú trọng công tác định
hướng, hướng dẫn gắn với kiểm tra, đánh giá thu hút đầu tư nước ngoài, bảo đảm
cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ và theo ngành, phù hợp với định hướng chung của
cả nước. Ban hành cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư phát triển công nghiệp phụ
trợ, công nghiệp chế biến gắn với các dự án đầu tư lớn từ nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài.
- Về vấn đề phát
triển nông nghiệp, nông thôn và hỗ trợ nông dân: Nhiều ý kiến đại biểu Quốc hội
đề nghị Chính phủ có kế hoạch cụ thể triển khai thực hiện có hiệu quả trên thực
tế Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn.
Ủy ban Thường vụ
Quốc hội xin báo cáo như sau: Thực hiện Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương,
Chính phủ đã có Nghị quyết về Chương trình hành động để thực hiện nhiệm vụ như
đại biểu đã nêu. Vì vậy, năm 2009 và các năm tiếp theo cần tăng tỷ lệ đầu tư từ
ngân sách nhà nước và thu hút các nguồn vốn khác cho nông nghiệp, nông thôn, có
chính sách mạnh mẽ khuyến khích đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn, thực
hiện chính sách hỗ trợ nông nghiệp và nông dân phù hợp với cam kết WTO.
- Về vấn đề xã hội,
môi trường: Các ý kiến của đại biểu Quốc hội tập trung nêu những vấn đề bức xúc
và đề cập đến tính xác thực của một số chỉ tiêu, như: Tỷ lệ hộ nghèo, nhất là ở
khu vực miền núi, nông thôn trong thực tế cao hơn con số báo cáo do giá cả tăng
cao, chuẩn nghèo hiện tại không còn phù hợp. Chất lượng y tế tuyến cơ sở còn yếu
kém, nhất là ở các vùng miền núi, dân tộc thiểu số cần được tăng cường cả về
con người và cơ sở vật chất. Tình trạng tội phạm trẻ em có chiều hướng gia
tăng. Tình trạng ô nhiễm môi trường, từ môi trường không khí, môi trường nước,
tới môi trường đất đai,... trở nên nghiêm trọng tới mức đáng báo động song các
biện pháp xử lý vi phạm chưa đủ mạnh và triệt để. Tình trạng quản lý an toàn vệ
sinh thực phẩm lỏng lẻo. Cải cách hành chính còn kém hiệu quả: việc xây dựng thể
chế còn chậm, chất lượng chưa cao, thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa công
khai, minh bạch, cơ chế một cửa vẫn chưa phát huy hiệu quả.
Ủy ban Thường vụ
Quốc hội thấy rằng, những vấn đề trên đã được các vị đại biểu Quốc hội đề cập
trong nhiều kỳ họp, mặc dù đã có những chuyển biến nhất định, nhưng vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu của cử tri và xã hội. Tiếp thu ý kiến các vị đại biểu Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương
theo chức năng cần có những giải pháp quyết liệt hơn nữa để giải quyết những vấn
đề bức xúc trên.
- Về sự điều hành
của bộ máy hành chính từ trung ương đến cơ sở: Có ý kiến cho rằng, trong một số
thời điểm, sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa thật nhịp nhàng, một
số quyết định chưa kịp thời, chưa thật sát thực tế. Một số ý kiến đại biểu Quốc
hội đánh giá, công tác dự báo vĩ mô, dự báo chiến lược về tình hình kinh tế thế
giới và trong nước còn nhiều hạn chế, yếu kém, chưa sát với tình hình thực tế,
nhất là dự báo về giá dầu, giá và sản lượng lúa gạo,… Trong chỉ đạo, điều hành
vẫn còn lúng túng và sử dụng nhiều biện pháp hành chính trong quản lý kinh tế,
cần đánh giá lại năng lực, trách nhiệm của một số cơ quan tham mưu.
Tiếp thu ý kiến của
đại biểu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ cần có giải pháp sớm khắc
phục hạn chế, yếu kém trong công tác chỉ đạo, điều hành, phối hợp, trong công
tác dự báo, bảo đảm chủ động, linh hoạt và chính xác hơn.
B.
VỀ DỰ BÁO TÌNH HÌNH VÀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI NĂM 2009
1. Dự báo tình hình
Đa số ý kiến đại
biểu Quốc hội nhất trí với Báo cáo của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban
Kinh tế của Quốc hội và các cơ quan hữu quan về dự báo tình hình thế giới và
trong nước. Nhiều đại biểu đã phân tích sâu về bối cảnh kinh tế quốc tế bị khủng
hoảng và ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam, đề nghị Chính phủ cần nghiên cứu kỹ lưỡng
để có phương án chỉ đạo, điều hành phù hợp.
Ủy ban thường vụ
Quốc hội thấy rằng, từ khi khai mạc kỳ họp đến nay với khoảng thời gian không
dài (mới được hơn 20 ngày), nhưng diễn biến của khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế thế giới diễn ra nhanh, ngày càng lan rộng và vượt ra ngoài tầm dự
báo. Để đối phó, các tổ chức tài chính thế giới, Chính phủ nhiều nước đã phải
áp dụng các biện pháp kiên quyết, đặc biệt nhằm ổn định tình hình của các hệ thống
tài chính - ngân hàng, kích thích thị trường, ngăn chặn sự sút giảm mạnh của nền
kinh tế.
Trong bối cảnh đó,
nền kinh tế nước ta cũng đã bị ảnh hưởng trực tiếp bởi thị trường xuất khẩu bị
thu hẹp, giá xuất khẩu của nhiều mặt hàng sẽ giảm, giá một số mặt hàng chỉ bằng
khoảng 40%-50% so với thời điểm cao nhất của năm 2008, khả năng giải ngân của
các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng như việc huy động vốn từ kênh
đầu tư gián tiếp (FII) và nguồn kiều hối bị ảnh hưởng. Cùng với những khó khăn
hiện hữu trong nước, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới kéo theo sự suy thoái
kinh tế toàn cầu làm cho các khó khăn có thể gay gắt hơn, sức mua trên thị trường
bị giảm sút lớn, các doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn do việc thực hiện chính sách
tiền tệ thắt chặt còn tiếp tục (do chúng ta vẫn phải duy trì mục tiêu tiếp tục
kiềm chế lạm phát).
Từ tình hình trên,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, trong việc xây dựng các chỉ tiêu kinh tế-xã
hội của năm 2009 phải tính đến yếu tố mới này để chủ động xây dựng phương án hạn
chế tác động tiêu cực ở mức thấp nhất.
2. Về mục tiêu tổng quát
Đa số ý kiến các vị
đại biểu Quốc hội đều thống nhất nhận định kiềm chế lạm phát trong năm 2009 vẫn
là vấn đề cần được tiếp tục quan tâm hàng đầu để ổn định kinh tế vĩ mô. Tiếp
theo, cần phải bảo đảm đời sống cho đại bộ phận nhân dân đã gặp rất nhiều khó
khăn do tình hình giá cả tăng cao, thu nhập thực tế giảm sút cũng như đại bộ phận
nông dân bị ảnh hưởng do tăng giá vật tư, nguyên, nhiên liệu đầu vào và thiên
tai, dịch bệnh. Để ngăn ngừa khả năng suy giảm của nền kinh tế, bên cạnh việc
tăng cường khả năng xuất khẩu, cần chú trọng có những giải pháp kích cầu để
phát triển thị trường trong nước. Khác với các năm kinh tế bình thường, lần đầu
tiên trong vòng nhiều năm, tháng 10 năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng giảm so với
tháng 9; tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) có xu hướng giảm so với những tháng
cuối năm 2007, đó là tín hiệu cảnh báo cần có những biện pháp theo dõi chặt chẽ
và xử lý linh hoạt để tránh tình trạng chỉ tập trung vào kiềm chế lạm phát mà
không tính đến các yếu tố dẫn đến suy giảm nền kinh tế.
Ủy ban Thường vụ
Quốc hội nhận thấy, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay, cần tiếp tục
các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô nhưng phải duy trì tăng
trưởng kinh tế ở mức hợp lý nhằm bảo đảm việc làm và thu nhập cho người lao động,
đồng thời chủ động ngăn ngừa suy giảm kinh tế, thực hiện có hiệu quả hơn các biện
pháp bảo đảm an sinh xã hội. Đây là những vấn đề rất quan trọng cần được thể hiện
trong mục tiêu để tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành.
3. Về các chỉ tiêu chủ yếu
3.1. Về tốc độ
tăng trưởng kinh tế
Trong Báo cáo
trình Quốc hội, Chính phủ đề nghị phương án mức tăng tổng sản phẩm trong nước
(GDP) năm 2008 khoảng 7%. Đa số ý kiến đại biểu đều cho rằng tốc độ tăng GDP là
chỉ tiêu mang tính định hướng và nhất trí với phương án năm 2009 nên ở mức từ
6,5%-7%. Một số ý kiến khác đề nghị nên lấy một số cụ thể là 6%, 6,5% hoặc 7% để
có định hướng cụ thể trong việc huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển.
Có ý kiến đề nghị mức 6%-6,5% hoặc cá biệt có ý kiến thấp hơn 6%. Nhiều ý kiến
đề nghị cần làm rõ cơ sở khoa học của việc xác định chỉ tiêu tăng trưởng.
Ủy ban thường vụ
Quốc hội thấy rằng, tăng trưởng GDP là một chỉ tiêu tổng hợp, mang tính định hướng
nhưng là căn cứ quan trọng để xác định các chính sách và phân bổ nguồn lực, để
tính toán các chỉ tiêu khác trong kế hoạch phát triển, là cơ sở quan trọng
trong điều hành kinh tế-xã hội của đất nước. Xác định mức cụ thể của tốc độ
tăng trưởng kinh tế trong Nghị quyết nhằm phấn đấu quyết liệt hơn, bảo đảm mục
tiêu về tăng trưởng không chỉ cho năm 2009 mà còn là cơ sở cho năm 2010 để bảo
đảm hoàn thành toàn diện kế hoạch 5 năm (2006-2010). Trên cơ sở phân tích tình
hình ở trên, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị: tốc độ tăng trưởng kinh tế năm
2009 khoảng 6,5% để trong trường hợp kinh tế thế giới biến động khó lường,
Chính phủ có điều kiện điều hành linh hoạt hơn. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là nếu
tăng trưởng ở mức quá thấp thì sẽ ảnh hưởng lớn đến việc làm, thu nhập, đời sống
của người lao động và đến việc thực hiện nhiều chỉ tiêu kinh tế-xã hội. Trong
trường hợp điều kiện thuận lợi (các giải pháp của các nước thực hiện hỗ trợ khắc
phục khủng hoảng tài chính-kinh tế thành công, tạo điều kiện thuận lợi cho thị
trường xuất khẩu của nước ta, đồng thời 8 nhóm giải pháp tiếp tục phát huy hiệu
quả cao hơn) thì phấn đấu tăng trưởng cao hơn 6,5%. Như vậy, đề nghị Chính phủ
tính cân đối ngân sách và các chỉ tiêu khác trên cơ sở tốc độ tăng trưởng kinh
tế 6,5% để trình Quốc hội xem xét, quyết định.
3.2. Về chỉ số
giá tiêu dùng
Nhiều ý kiến đồng
ý với việc xác định chỉ tiêu tốc độ tăng giá tiêu dùng nên ở mức dưới 15%; Ý kiến
khác cho rằng chỉ tiêu này là khó khả thi do những tác động của tình hình thế
giới đến nước ta. Có ý kiến đề nghị cần có giải pháp hiệu quả với quyết tâm cao
để đến năm 2010 giảm lạm phát xuống còn một con số hoặc ở mức cụ thể là 9-10%.
Có ý kiến đề nghị
Quốc hội không nên đưa chỉ tiêu tốc độ tăng giá tiêu dùng vào Nghị quyết về kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009, mà nên để là một mục tiêu phấn đấu
của Chính phủ. Có ý kiến khác đề nghị nên đưa chỉ tiêu này thành chỉ tiêu hàng
đầu, quan trọng nhất.
Về vấn đề này, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội xin được báo cáo như sau:
Năm 2007 và năm
2008 là hai năm liên tiếp tốc độ tăng giá tiêu dùng ở nước ta ở mức 2 con số,
trong đó năm sau cao gần gấp hai lần so với năm trước. Tình hình trên đã gây
tác động xấu đến sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp và đời sống của đại
đa số nhân dân, nhất là người thu nhập thấp, làm công hưởng lương. Giữa năm
2008, Quốc hội thông qua Nghị quyết điều chỉnh mục tiêu phát triển, trong đó vấn
đề kiềm chế lạm phát là mục tiêu ưu tiên hàng đầu. Do vậy, thực hiện chính sách
tiền tệ thắt chặt trong 6 tháng vừa qua, tổng phương tiện thanh toán trên thị
trường chỉ tăng ở mức dưới 10% so với 31/12/2007. Trong những tháng gần đây, tốc
độ tăng chỉ số giá tiêu dùng đã giảm, cá biệt tháng 10 giảm 0,19% so với tháng
9. Nếu tiếp tục giảm chỉ số giá tiêu dùng ở mức 1 con số sẽ buộc phải tiếp tục
thắt chặt tín dụng đối với các doanh nghiệp, giảm đầu tư từ ngân sách nhà nước,
đồng nghĩa với việc giảm việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động.
Với phân tích như
vậy, để vừa phải tiếp tục kiềm chế lạm phát, nhưng vẫn bảo đảm sản xuất phát
triển ở mức hợp lý, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội chấp thuận đề
nghị của Chính phủ với chỉ số giá tiêu dùng năm 2009 ở mức dưới 15%.
3.3. Về tổng mức
đầu tư toàn xã hội
Báo cáo của Chính
phủ đề nghị tổng mức đầu tư toàn xã hội khoảng 40% GDP. Có ý kiến cho rằng, tổng
đầu tư toàn xã hội bằng 40% GDP là cao. Có ý kiến đề nghị, phải tăng đầu tư cho
khu vực nông, lâm, ngư nghiệp; việc xác định chỉ tiêu giá trị tăng thêm của khu
vực này là 3% (so với năm 2008 là 5,1%) là thấp, không phù hợp với chủ trương của
Đảng được nêu trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7, khoá X.
Đây là mức huy động
cao so với nhiều nước đang phát triển trên thế giới; chỉ số ICOR của Việt Nam mấy
năm gần đây không giảm, do vậy phải tập trung các biện pháp để nâng cao hiệu quả
đầu tư. Đây còn là biện pháp thiết thực để kiềm chế lạm phát. Tình hình sản xuất
của năm 2009 còn tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Mục tiêu tổng quát điều hành nền
kinh tế vẫn phải bảo đảm tốc độ tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Đồng thời,
do điều chỉnh tốc độ tăng GDP giảm (khoảng 6,5%) nên phải giảm tổng mức đầu tư
để bảo đảm ổn định vĩ mô.
Do thay đổi cơ cấu
chi ngân sách nhà nước theo hướng tăng chi cho bảo đảm an sinh xã hội, nên vốn
đầu tư trong cân đối ngân sách nhà nước ít, Nhà nước phải tập trung cho các
công trình cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu, quan trọng, có hiệu quả rõ
rệt và các yêu cầu bức thiết khác nên phải huy động các nguồn lực có sự bảo đảm
của Nhà nước để thực hiện mục tiêu trọng yếu trong đầu tư .
Với cách đặt vấn đề
như vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị tổng mức đầu tư toàn xã hội năm 2009
là 39,5% GDP, tương đương 715 nghìn tỷ đồng, trong đó vốn trái phiếu Chính phủ
huy động từ 30 nghìn tỷ đồng tăng lên 36 nghìn tỷ đồng, đồng thời yêu cầu Chính
phủ phải có các biện pháp chỉ đạo thật quyết liệt về thời điểm, quy mô phát
hành và giải ngân hết, kịp thời nguồn vốn này.
3.4. Về tốc độ
tăng xuất khẩu
Trong Báo cáo
trình Quốc hội, Chính phủ đề nghị mức tăng xuất khẩu 18% so với năm 2008. Trong
quá trình thảo luận, nhiều ý kiến đề nghị cân nhắc lại việc đưa ra chỉ tiêu tốc
độ tăng xuất khẩu 18% vì trên thực tế, diễn biến tình hình xuất khẩu những
tháng cuối năm 2008 có xu hướng giảm dần cả về lượng, cả về giá (do giá thế giới
đã giảm). Bên cạnh đó, như đã phân tích ở trên, nhu cầu tiêu dùng của các thị
trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là Mỹ và Châu Âu cũng sẽ giảm sút do tác
động của khủng hoảng kinh tế, nên cũng khó tăng khối lượng xuất khẩu. 9 tháng đầu
năm 2008, nếu trừ yếu tố tăng giá, thì thực chất xuất khẩu của chúng ta cũng chỉ
tăng 14,8%. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội chấp thuận chỉ
tiêu kim ngạch xuất khẩu năm 2009 tăng ở mức 13%.
3.5. Về tạo việc
làm, tỷ lệ hộ nghèo, các vấn đề xã hội và môi trường khác
Qua thảo luận, có
ý kiến tán thành về chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống 12%. Tuy nhiên nhiều ý
kiến khác cho rằng không khả thi, cần xem xét lại; nên xác định rõ tiêu chí được
xếp vào diện hộ nghèo ở nông thôn là 400.000đ/người/hộ; ở thành thị là
600.000đ/người/hộ.
Có ý kiến cho rằng,
việc xác định chỉ tiêu về tạo việc làm mới cho 1,7 triệu lao động là không khả
thi vì hiện nay, nhiều doanh nghiệp đang thu hẹp sản xuất, cắt giảm nhân công.
Một số ý kiến nhận
thấy, các chỉ tiêu về môi trường, giảm tỷ lệ sinh; cung cấp nước sạch,... chưa
hợp lý, rất khó thực hiện như: chỉ tiêu về xử lý chất thải rắn y tế là 75%; chỉ
tiêu về cung cấp nước sạch cho 79% dân số nông thôn.
Ủy ban Thường vụ
Quốc hội thấy rằng, đây là những chỉ tiêu góp phần nâng cao chất lượng sống của
nhân dân và bảo đảm cho sự phát triển bền vững nhưng phụ thuộc nhiều vào tổng mức
đầu tư của xã hội. Trong điều kiện tốc độ tăng GDP giảm, sản xuất gặp khó khăn,
chúng ta đã tăng mức đầu tư từ trái phiếu Chính phủ để thực hiện các chương
trình mục tiêu quan trọng, do đó cần phấn đấu để đạt được các chỉ tiêu trên. Đồng
thời, đề nghị Chính phủ cần sớm ban hành chuẩn mới đối với các hộ nghèo để có
cơ chế, chính sách phù hợp và phải tập trung trong chỉ đạo thực hiện để đạt được
các chỉ tiêu trên.
4. Về những nhiệm vụ, giải pháp cơ chế, chính sách chủ yếu trong năm
2009
Đa số ý kiến tán
thành các nhóm nhiệm vụ, giải pháp do Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao trình, các kiến nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy
ban Kinh tế, Hội đồng dân tộc, và các Ủy ban khác của Quốc hội trong các báo
cáo giám sát chuyên đề, báo cáo thẩm tra. Các ý kiến tham gia cụ thể của các đại
biểu Quốc hội vào các giải pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu
và thể hiện trong dự thảo Nghị quyết.
II. GIẢI TRÌNH TIẾP THU Ý KIẾN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VỀ DỰ THẢO NGHỊ QUYẾT
VỀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI NĂM 2009
Ngày 05 tháng 11
năm 2008, theo sự chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đoàn thư ký kỳ họp đã
gửi dự thảo Nghị quyết để xin ý kiến các vị đại biểu Quốc hội. Đến cuối giờ chiều
ngày 5/11, Đoàn thư ký kỳ họp đã nhận được 368 bản góp ý. Sau khi tổng hợp ý kiến
các vị đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin giải trình, tiếp thu
như sau:
1.
Về mục tiêu tổng quát
Đa số ý kiến đại
biểu Quốc hội đều tán thành với những nội dung và thứ tự sắp xếp trong mục tiêu
tổng quát đã được thể hiện trong dự thảo Nghị quyết gửi xin ý kiến các vị đại
biểu Quốc hội. Tuy nhiên, một số đại biểu cũng tham gia góp ý cụ thể về từ ngữ,
kỹ thuật văn bản để mục tiêu tổng quát dễ hiểu và súc tích hơn.
Ủy ban Thường vụ
Quốc hội xin tiếp thu và thể hiện như sau:
Tiếp tục kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý, bền vững,
chủ động ngăn ngừa suy giảm, bảo đảm an sinh xã hội; đẩy mạnh hợp tác và hội nhập
kinh tế quốc tế một cách chủ động và hiệu quả; giữ vững ổn định chính trị, bảo
đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội; tạo điều kiện thực hiện thắng
lợi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010.
Về
chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP)
Về vấn đề này, ý
kiến các đại biểu Quốc hội tập trung vào ba hướng lựa chọn: tốc độ tăng trưởng
từ 6%-6,5%, 6,5% và 6,5%-7%. Như vậy, đa số các đại biểu Quốc hội đều thống nhất
với giải trình tại phần I của Báo cáo, nhưng còn khác nhau ở phần thể hiện. Ủy
ban Thường vụ Quốc hội đề nghị chọn mức tăng trưởng năm 2009 là khoảng 6,5% để
tạo điều kiện cho việc xác định các cân đối chỉ tiêu vĩ mô và linh hoạt trong
điều hành; đồng thời tùy tình hình diễn biến thực tế, Chính phủ chủ động có giải
pháp đối phó, nên xin được thể hiện như trong dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội
xem xét, thông qua.
3.
Về chỉ số giá tiêu dùng
Như đã giải trình ở
phần I của Báo cáo, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị giữ chỉ tiêu này như
Chính phủ trình là dưới 15% và thể hiện như trong dự thảo Nghị quyết.
4.
Về tổng mức đầu tư toàn xã hội
Tiếp thu ý kiến đại
biểu tại thảo luận tổ và Hội trường, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin thể hiện
trong dự thảo Nghị quyết tổng mức đầu tư toàn xã hội ở mức 39,5% GDP.
Trong điều kiện
kinh tế khó khăn, thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, giảm tổng phương tiện
thanh toán cũng như giảm tỷ lệ đầu tư toàn xã hội, để bảo đảm tốc độ tăng trưởng
kinh tế ở mức hợp lý đề nghị Quốc hội cho giữ mức huy động trái phiếu Chính phủ
năm 2009 là 36 nghìn tỷ đồng và giao Chính phủ cần đến đâu phát hành đến
đó, tập trung chỉ đạo để giải ngân kịp thời nguồn vốn này.
5.
Về tốc độ tăng xuất khẩu
Có ý kiến đề nghị
để giảm nhập siêu phải giữ tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu năm 2009 cao hơn
13%. Ý kiến khác đề nghị, do thị trường xuất khẩu của Việt Nam bị hạn chế, nên
đề nghị chỉ tiêu này ở mức 12%.
Ủy ban Thường vụ
Quốc hội đã phân tích kỹ vấn đề này ở phần I của Báo cáo, đề nghị Quốc hội cho
giữ chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu năm 2009 tăng 13%.
6.
Về các chỉ tiêu xã hội và môi trường
Sau khi tổng hợp
và chuyển ý kiến đại biểu Quốc hội đến các cơ quan của Chính phủ, Chính phủ tiếp
tục đề nghị giữ như trong báo cáo đã trình Quốc hội ngày 16 tháng 10 năm 2008. Ủy
ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, nếu thực hiện được như các chỉ tiêu của Chính
phủ trình là một cố gắng lớn trong công tác xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh
xã hội và bảo vệ môi trường. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao nỗ lực phấn
đấu của Chính phủ và xin được thể hiện như trong dự thảo Nghị quyết và trân trọng
đề nghị các vị đại biểu Quốc hội chấp nhận.
7.
Về một số nhiệm vụ chính
7.1. Có ý kiến đề
nghị thể hiện lại đoạn 1, mục 1, phần II cho gọn và chặt chẽ hơn.
Tiếp thu ý kiến đại
biểu Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xin được thể hiện lại đoạn này như
sau: “Theo dõi chặt chẽ, nâng cao chất lượng phân tích và dự báo tình hình
trong nước và quốc tế, đặc biệt là những biến động về tình hình kinh tế, tài
chính thế giới, chủ động xây dựng các phương án ứng phó, hạn chế tác động bất lợi
của khủng hoảng từ bên ngoài đến hệ thống tài chính, ngân hàng và toàn bộ nền
kinh tế”.
7.2. Có ý kiến đề
nghị bỏ câu về nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại
cổ phần về vấn đề lãi suất cho vay và lãi suất huy động tại phần cuối đoạn 2 của
mục 1, phần II- Một số nhiệm vụ chính.
Về vấn đề này, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội đã giải trình ở mục 2 phần I của Báo cáo. Tuy
nhiên, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, vấn đề này xin được thể hiện lại như
sau: “Các tổ chức tín dụng điều hành lãi suất cho vay theo lãi suất cơ bản của
Ngân hàng Nhà nước và được phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với các dự
án có hiệu quả”.
7.3. Tiếp thu ý kiến
đại biểu Quốc hội về phát huy vai trò của khoa học công nghệ trong phát triển
kinh tế-xã hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xin bổ sung vào mục 2, phần II- Một số
nhiệm vụ chính như sau: “Có chính sách khuyến khích đầu tư và ứng dụng khoa
học công nghệ vào sản xuất, kinh doanh để tạo thêm giá trị gia tăng cho sản phẩm
và bảo vệ môi trường”.
7.4. Về vấn đề hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước, nhiều đại biểu có ý kiến về xác định rõ vai
trò, nhiệm vụ của tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trong nền kinh tế nước
ta để phát huy tốt nhất lượng vốn và tài sản lớn của nhà nước đã giao cho các
đơn vị. Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xin được
thể hiện vào dự thảo Nghị quyết như sau: “Cần khẳng định vị trí chủ đạo của
doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân để có các chính sách, biện
pháp quản lý phù hợp”.
7.5. Về đầu tư xây
dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội thảo luận tại
Hội trường ngày 5/11/2008, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xin bổ sung các nội dung:
“Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 36/2004/NQ-QH11 của Quốc hội, rà soát, sửa
đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về xây dựng, đấu thầu, đất
đai, ngân sách nhà nước; ban hành các văn bản hướng dẫn kịp thời, bảo đảm thống
nhất, đồng bộ, không trùng chéo, mâu thuẫn; quy định chế tài xử lý đủ mạnh,
nghiêm minh... Coi trọng và nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, rà soát để
hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội cả nước và các quy hoạch
khác, gắn quy hoạch đầu tư với các quy hoạch có liên quan... Tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán để kịp thời ngăn ngừa, sửa chữa sai phạm, chống
lãng phí, thất thoát” vào mục 3, phần II của Báo cáo này và thể hiện như
trong dự thảo Nghị quyết.
7.6. Tiếp thu ý kiến
đại biểu Quốc hội về vấn đề bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, Uỷ ban thường
vụ Quốc hội xin bổ sung một đoạn vào mục 10, phần II như sau: “Bảo đảm trật
tự an toàn giao thông, giảm số vụ tai nạn, số người chết và bị thương do tai nạn
giao thông. Xử lý có hiệu quả vấn đề ùn tắc giao thông ở các thành phố lớn”.
*
* *
Kính thưa các vị
đại biểu Quốc hội,
Ngoài những vấn đề
tiếp thu, giải trình trên đây, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan
hữu quan rà soát, chỉnh lý về từ ngữ, kỹ thuật văn bản và được thể hiện như
trong Dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội.
Trên đây là Báo
cáo giải trình, tiếp thu về một số vấn đề kinh tế-xã hội và Dự thảo Nghị quyết
về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009. Ủy ban thường vụ Quốc hội kính
trình Quốc hội xem xét, thông qua Dự thảo Nghị quyết sau khi đã được tiếp thu
chỉnh lý nói trên.
Nơi nhận:
- Như trên,
- Lưu Văn thư, Vụ KT.
|
TM.
UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
PHÓ CHỦ TỊCH
Nguyễn Đức Kiên
|