CHÍNH
PHỦ
-------
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------
|
Số:
165/BC-CP
|
Hà
Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2008
|
BÁO CÁO
VỀ
TÌNH HÌNH KINH TẾ-XÃ HỘI NĂM 2008 VÀ NHIỆM VỤ NĂM 2009
(do
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khoá XII, ngày
16 tháng 10 năm 2008)
Thưa các đồng chí lãnh đạo
Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa các đồng chí lão thành
cách mạng và các vị khách,
Thưa đồng bào, đồng chí và
các bạn,
Để chuẩn bị cho kỳ họp này của
Quốc hội, Chính phủ đã gửi trước đến các vị đại biểu Quốc hội Báo cáo tình hình
kinh tế-xã hội năm 2008, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009; Báo cáo
đánh giá tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2008, dự toán ngân sách nhà
nước năm 2009 và 16 báo cáo chuyên đề khác.
Hôm nay, thay mặt Chính phủ, tôi
xin báo cáo với Quốc hội và đồng bào cả nước những vấn đề lớn của tình hình
kinh tế, xã hội năm 2008; mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu của kế hoạch
phát triển kinh tế, xã hội năm 2009.
Phần thứ
nhất
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH KINH
TẾ-XÃ HỘI NĂM 2008
Kế hoạch phát triển kinh tế, xã
hội năm 2008, năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 được xây dựng trong bối
cảnh thời cơ, thuận lợi rất lớn từ những thành tựu đạt được sau hơn 20 năm đổi
mới, nhất là năm 2006 và 2007; từ đó đã xác định quyết tâm hoàn thành cơ bản
nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm ngay trong năm 2008, tạo tiền đề để
hoàn thành sớm kế hoạch 5 năm 2006 - 2010.
Từ những tháng cuối năm 2007,
những biến động không thuận của kinh tế thế giới, những khó khăn trong nước và
những hạn chế yếu kém trong chỉ đạo điều hành đã làm cho tình hình kinh tế quý
I năm 2008 có những diễn biến bất lợi, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời
sống, đe doạ nghiêm trọng ổn định kinh tế vĩ mô.
Chúng ta đã nghiêm túc phân tích
thực trạng này, cân nhắc thận trọng và quyết định chuyển hướng, xác định nhiệm
vụ trọng tâm là: Phấn đấu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm
an sinh xã hội và tăng trưởng hợp lý, bền vững; trong đó, kiềm chế lạm phát là
mục tiêu ưu tiên hàng đầu; đã điều chỉnh giảm chỉ tiêu tăng trưởng và tập
trung mọi nỗ lực để thực hiện đồng bộ 8 nhóm giải pháp lớn(1).
Những tháng tiếp sau, kinh tế
thế giới tiếp tục suy giảm và biến động rất phức tạp, giá cả tăng cao, lạm phát
diễn ra trên quy mô toàn cầu; ở trong nước, thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại
nặng nề làm cho việc kiềm chế lạm phát càng khó khăn hơn. Chính phủ đã chủ động
theo sát tình hình, phân tích các diễn biến, tiếp thu các ý kiến đóng góp xác
đáng, đề cao trách nhiệm, quyết liệt chỉ đạo điều hành thực hiện các mục tiêu,
nhiệm vụ đã đề ra.
Dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính
trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, sự ủng hộ và giám sát của Quốc hội, sự đồng
tâm hiệp lực của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp, đến nay tuy khó khăn thách thức còn
nhiều nhưng tình hình kinh tế, xã hội đã có những chuyển biến tích cực. Từ kết
quả đạt được trong 9 tháng và ước định khả năng thực hiện của những tháng còn
lại, Chính phủ đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội
năm 2008 như sau:
I. NHỮNG KẾT
QUẢ CHỦ YẾU
1. Việc kiềm
chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô đạt được kết quả bước đầu quan trọng
Đã triển khai khẩn trương và
đồng bộ 8 nhóm giải pháp; trong đó, tập trung chỉ đạo kiên quyết việc thắt chặt
tiền tệ và tài khoá; đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu, kiểm soát chặt chẽ nhập
khẩu, hạn chế nhập siêu; tăng cường quản lý giá cả, ngăn chặn đầu cơ, bình ổn
thị trường.
Điều hành thận trọng, linh hoạt
các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, tín phiếu bắt buộc; điều chỉnh cơ
cấu tín dụng, kiểm soát chặt việc cho vay kinh doanh bất động sản, chứng khoán,
vay tiêu dùng, tập trung vốn cho sản xuất và xuất khẩu, bảo đảm tính thanh
khoản của các ngân hàng và cả nền kinh tế; hạn chế tăng tổng phương tiện thanh
toán cả năm xuống còn khoảng 18% và tổng dư nợ tín dụng khoảng dưới 30%(2);
tăng cường quản lý các ngân hàng thương mại, trợ giúp các ngân hàng yếu kém
vượt qua khó khăn; ban hành các quy định thích hợp để nâng cao hiệu quả, tính
an toàn và cũng là tiêu chí để cấp phép lập ngân hàng mới. Các ngân hàng thương
mại nhà nước đã đóng góp quan trọng vào việc thực hiện chính sách tiền tệ. Lãi
suất ngân hàng ổn định hơn, đã và đang giảm dần cùng với việc giảm của tốc độ
tăng giá.
Trước tình hình tỷ giá biến động
rất phức tạp gây tâm lý bất ổn trong xã hội, Chính phủ đã khẳng định không phá
giá đồng tiền Việt Nam, công khai dự trữ ngoại hối, áp dụng tỷ giá linh hoạt
với biên độ phù hợp, can thiệp hợp lý, đủ mạnh vào quan hệ cung cầu, đồng thời
kiểm soát chặt kinh doanh ngoại tệ và giảm mạnh nhập siêu. Tỷ giá giữa VNĐ với
USD và các ngoại tệ khác đã ổn định trở lại.
Mặc dù giá cả tăng cao nhưng
không điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư tương ứng; đã đình hoãn, giãn tiến độ
trên 3.100 công trình dự án với khoảng 37.000 tỷ đồng vốn từ nguồn ngân sách và
vốn của doanh nghiệp nhà nước(3); cắt giảm khoảng 9.000 tỷ đồng vốn
trái phiếu Chính phủ. Tiết kiệm 2.700 tỷ đồng chi thường xuyên của các cơ quan
đơn vị thụ hưởng ngân sách.
Thu ngân sách năm 2008 vượt dự
toán(4), góp phần giải quyết tốt các nhiệm vụ chi trong kế hoạch,
tăng trợ cấp an sinh xã hội, tạo nguồn bù lỗ giá xăng dầu và giảm bội chi ngân
sách(5).
Những tháng đầu năm nay, nhập
siêu tăng mạnh, riêng quý I là 8,3 tỷ USD, bằng 62,4% kim ngạch xuất khẩu, đe
doạ nghiêm trọng ổn định kinh tế vĩ mô, nhất là cung cầu ngoại tệ và tỷ giá. Đã
tập trung chỉ đạo đẩy mạnh xuất khẩu, đi đôi với kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu
để giảm nhập siêu(6). Đến hết quý III, nhập siêu là 15,8 tỷ USD,
bằng 32,5% kim ngạch xuất khẩu; ước cả năm, nhập siêu khoảng 19 tỷ USD, bằng
khoảng 29% kim ngạch xuất khẩu (tương đương năm 2007).
Tăng cường chỉ đạo công tác quản
lý thị trường giá cả, chống đầu cơ, buôn lậu; điều chỉnh thích hợp giá xăng dầu
và từ tháng 9, đã kiên quyết thực hiện cơ chế giá thị trường, xoá bù lỗ đối với
mặt hàng này.
Cán cân thanh toán quốc tế được
bảo đảm; ước cả năm 2008 thặng dư khoảng 2,7
tỷ USD. Dự trữ ngoại hối được tăng thêm, góp phần quan trọng vào ổn định kinh
tế vĩ mô. Từ tháng 6 năm 2008, mức tăng giá tiêu dùng đã giảm dần(7),
tháng 9 tăng 0,18%, tính chung 9 tháng giá tiêu dùng tăng 21,87%, dự báo cả năm
2008 tăng khoảng 24%.
2. Nền kinh tế
duy trì được mức tăng trưởng khá trong điều kiện lạm phát cao
Tăng trưởng GDP cả năm ước đạt
khoảng 6,5 - 7%(8); trong đó, nông nghiệp tăng 3,5 - 3,9%; công
nghiệp và xây dựng tăng 7,3 - 7,5%, dịch vụ tăng 7,2 - 7,8%; GDP bình quân đầu
người đạt trên 1.000 USD(9). Mặc dù gặp nhiều khó khăn do
thiên tai, dịch bệnh, giá đầu vào tăng cao nhưng nông nghiệp vẫn đạt được những
kết quả nổi trội: giá trị sản xuất ước tăng 5,1% (năm 2007 tăng 4,6%); sản
lượng lúa tăng khoảng 2,6 triệu tấn, là mức tăng cao nhất từ trước đến nay(10),
thuỷ sản tăng gần 9,0%. Giá trị sản xuất công nghiệp ước tăng 16,2% (năm 2007
tăng 17,1%). Nhiều ngành dịch vụ phát triển khá, tổng mức bán lẻ hàng hoá và
doanh thu dịch vụ tăng 31% (năm 2007 tăng 22,7%).
Xuất khẩu năm 2008 tăng cao.
Kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đạt 48,6 tỷ USD tăng 39% so với cùng kỳ năm 2007
(cùng kỳ tăng 19,4%); ước cả năm đạt trên 65 tỷ USD, tăng 33,9% là mức tăng cao
nhất trong 10 năm qua (năm 2007 tăng 21,9%). Xuất khẩu tăng ngoài yếu tố
tăng giá, còn do lượng hàng tăng (khoảng 30%) và thị trường xuất khẩu được mở
rộng. Đây là yếu tố cơ bản làm giảm nhập siêu, góp phần quan trọng vào tăng
trưởng kinh tế, thể hiện năng lực nội sinh
của các ngành sản xuất và sự năng động của các doanh nghiệp trong điều kiện
nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới.
Phần lớn các doanh nghiệp nhà
nước, nhất là các tập đoàn, tổng công ty đều hoàn thành vượt kế hoạch, góp phần
quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát, bảo đảm cân đối cung cầu
các mặt hàng thiết yếu và giữ ổn định thị trường. Khu vực dân doanh, chủ yếu là
doanh nghiệp nhỏ và vừa tuy gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn đạt kết quả khá, giá
trị sản xuất công nghiệp tăng khoảng 22%; số doanh nghiệp mới thành lập tiếp tục
tăng thêm(11); ước cả năm, tổng vốn đầu tư khu vực dân doanh khoảng
180 nghìn tỷ đồng, tăng 7% so với năm 2007. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ước cả
năm có số vốn đăng ký trên 60 tỷ USD, gấp khoảng 3 lần so với năm 2007, vốn
thực hiện khoảng 10 - 11 tỷ USD(12). Vốn ODA cam kết nhiều hơn(13),
đến hết tháng 9 các nhà tài trợ đã ký hiệp định cung cấp trên 1,8 tỷ USD; đã
giải ngân trên 1,4 tỷ USD, đạt 74,5% kế hoạch năm. Đây là kết quả của việc môi
trường đầu tư tiếp tục được cải thiện, thể hiện niềm tin của các nhà đầu tư,
các nhà tài trợ vào triển vọng phát triển của đất nước ta; đồng thời khẳng định
chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước là: kiềm chế lạm phát nhưng vẫn duy
trì tăng trưởng hợp lý và gây dựng tiền đề cho sự phát triển cao, bền vững
trong những năm sau.
3. An sinh xã
hội được quan tâm và triển khai thực hiện có hiệu quả
Ngay từ đầu năm 2008, cùng với
việc chỉ đạo thực hiện tốt các chương trình, đề án về an sinh xã hội có tính cơ
bản lâu dài thuộc kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, chúng ta đặc biệt coi trọng giải
quyết những yêu cầu về an sinh xã hội cấp bách theo 3 hướng: Nâng mức hỗ trợ,
mở rộng đối tượng thụ hưởng theo chính sách đã có và ban hành thêm nhiều chính
sách mới(14).
Tổng ngân sách nhà nước hỗ trợ
trực tiếp cho người thụ hưởng các chính sách an sinh xã hội năm 2008 khoảng
19.800 tỷ đồng, tăng khoảng 14.700 tỷ đồng so với thực hiện năm 2007. Ngoài ra,
tính đến hết tháng 9 năm 2008 đã cấp không thu tiền trên 40.000 tấn gạo cho
đồng bào vùng bị thiên tai, thiếu đói; miễn giảm thuỷ lợi phí và một số loại
phí, lệ phí khác, bãi bỏ và giảm một số khoản huy động từ nhân dân khoảng 1.200
tỷ đồng. Hỗ trợ thông qua 12 chương trình tín dụng ưu đãi(15) cho hộ
nghèo, đồng bào dân tộc, gia đình chính sách và một số đối tượng khó khăn khác
để đầu tư phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động, làm nhà
ở, định canh, định cư, nước sạch và vệ sinh môi trường, sinh viên học sinh
nghèo đi học... Tổng số vốn cho vay ưu đãi trong 9 tháng là trên 20.000 tỷ đồng,
ước thực hiện cả năm khoảng 28.000 tỷ đồng, tăng 36% (khoảng 7.000 tỷ đồng).
Trong năm 2008 ngân sách nhà nước
cũng đã chi khoảng 28.900 tỷ đồng để điều chỉnh tăng lương tối thiểu và điều
chỉnh tăng lương hưu, trợ cấp ưu đãi người có công, người lương thấp.
Trong điều kiện thiên tai dịch
bệnh và lạm phát tăng cao, các trợ giúp này đã góp phần thiết thực làm giảm bớt
khó khăn cho sản xuất và đời sống của nhân dân.
4. Các lĩnh vực
giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, thông tin và bảo vệ môi trường được chú trọng
Giáo dục và đào tạo có những
chuyển biến tích cực cả về quy mô và chất lượng: đã có 46 tỉnh được công nhận
đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tăng 7 tỉnh so với năm 2007. Việc
chống tiêu cực trong thi cử tiếp tục được thực hiện có kết quả. Tỷ lệ học sinh
tốt nghiệp trung học phổ thông cao hơn năm học trước. Việc đào tạo theo nhu cầu
của doanh nghiệp trong các trường đại học, cao đẳng đã có bước chuyển mạnh mẽ
hơn. Đến nay đã có 23 chuyên ngành khoa học công nghệ và kinh tế bậc đại học áp
dụng chương trình giảng dạy tiên tiến của các trường đại học trên thế giới.
Việc xây dựng một số trường đại học chất lượng cao đang được triển khai tích
cực. Chính sách tín dụng cho sinh viên học sinh nghèo được xã hội đánh giá cao.
Cơ chế quản lý khoa học, công
nghệ tiếp tục được đổi mới. Các nhiệm vụ khoa học, công nghệ được triển khai đã
góp phần tích cực vào việc hoạch định chính sách, phát triển kinh tế, xã hội.
Các biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được thực hiện có hiệu quả hơn.
Hệ thống y tế được củng cố và
phát triển, nhất là tuyến huyện, đã góp phần giảm dần tình trạng quá tải ở các
bệnh viện tuyến trên. Y tế xã, thôn bản tiếp tục được tăng cường(16).
Công tác khám, chữa bệnh được nâng lên cả về chất lượng chẩn đoán và điều trị. Phòng
chống dịch bệnh, đặc biệt là HIV/AIDS và các dịch bệnh mới phát sinh được coi
trọng, không để xảy ra các dịch bệnh lớn.
Lĩnh vực thông tin, văn hoá có
bước phát triển mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu về thông tin, góp phần nâng cao
đời sống văn hóa và tinh thần của nhân dân, phục vụ tốt việc thực hiện các
nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội theo chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Đã triển khai nhiều biện pháp
thiết thực, nhất là thanh tra, kiểm tra để nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ
tài nguyên và môi trường.
5. Cải cách
hành chính, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí có
những chuyển biến tích cực
Đã khẩn trương triển khai Chương
trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý của bộ máy nhà nước. Tổ chức các Bộ và cơ quan chuyên môn của chính
quyền địa phương tiếp tục được kiện toàn. Chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện mở
rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội, bảo đảm sự ổn định và tính liên tục
trong các hoạt động của Thủ đô.
Đang tập trung rà soát 14 loại
thủ tục hành chính còn gây khó khăn, phiền hà cho người dân và doanh nghiệp; đã
công khai, minh bạch và đơn giản hoá việc đăng ký kinh doanh, kê khai nộp thuế,
đăng ký phương tiện giao thông, xuất nhập cảnh; đang tích cực rà soát để giảm
tối đa đối với 33 thủ tục trong đầu tư xây dựng. Nhiều Bộ, địa phương triển
khai có kết quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông, làm thêm ngày thứ 7 để giải
quyết các yêu cầu thiết thực của nhân dân. Một số dịch vụ công đã được xã hội
hoá đem lại kết quả tích cực.
Các Bộ, địa phương đã triển khai
thực hiện chương trình kế hoạch về phòng chống tham nhũng; coi trọng việc phòng
ngừa và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm. Ban Chỉ đạo phòng chống tham
nhũng của Trung ương và các địa phương được kiện toàn về tổ chức và hoạt động.
Công tác hoàn thiện thể chế, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng chống
tham nhũng được đẩy mạnh. Việc điều tra và xử lý các vụ việc tham nhũng được
thực hiện đúng pháp luật.
Công tác thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí được các ngành, các cấp, các doanh nghiệp và nhân dân hưởng ứng
tích cực. Nhiều doanh nghiệp đã có các biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá
thành sản phẩm. Nguồn tiết kiệm 10% chi thường xuyên trong 8 tháng cuối năm
(tương đương 25% dự phòng ngân sách nhà nước năm 2008) được bổ sung cho việc
thực hiện chính sách an sinh xã hội, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai,
dịch bệnh.
6. Hoạt động
đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế đạt được nhiều kết quả
Việc triển khai thực hiện đường
lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước đã đạt
được kết quả khá toàn diện, tiếp tục củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên
trường quốc tế, góp phần thiết thực phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Đã chủ động triển khai có hiệu quả nhiều hoạt động đối ngoại song
phương, nhất là các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước đạt được
những kết quả quan trọng, đưa quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn,
các nước bạn bè truyền thống đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững hơn. Công
tác phân giới cắm mốc đạt được những kết quả quan trọng.
Các hoạt động đa phương được đẩy
mạnh. Lần đầu tiên đảm nhận vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an
Liên hợp quốc, Việt Nam đã có những đóng góp tích cực và đã làm tốt cương vị
Chủ tịch luân phiên Hội đồng Bảo an. Đã tham gia có trách nhiệm vào việc củng
cố và tăng cường hợp tác trong ASEAN và ASEAN với các đối tác.
Công tác vận động nguồn Hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA), thu hút đầu tư nước ngoài (FDI, FII) đem lại kết
quả thiết thực; đã chủ động hơn trong đàm phán, ký kết các hiệp định về thiết
lập khu vực mậu dịch tự do và hỗ trợ tích cực doanh nghiệp mở rộng thị trường.
Công tác ngoại giao văn hóa và
tuyên truyền đối ngoại được đẩy mạnh góp phần quảng bá và nâng cao hình ảnh đất
nước, con người Việt Nam trên thế giới.
Công tác người Việt Nam ở nước ngoài được coi trọng. Đã lập Quỹ bảo hộ công dân, miễn thị thực nhập cảnh, triển
khai đề án dạy tiếng Việt, đang nghiên cứu mở rộng đối tượng được mua nhà trong
nước và sửa đổi Luật Quốc tịch nhằm tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào ta định
cư ở nước ngoài gắn bó với quê hương đất nước.
7. Chính trị xã
hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự, an toàn xã hội được
bảo đảm
Các lực lượng vũ trang nhân dân đã vượt qua nhiều khó khăn, hoàn thành
tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và góp phần giữ vững
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Công tác phòng chống tội phạm và các
tệ nạn xã hội được tăng cường và có những kết quả tích cực. Số vụ tai nạn, số
người chết và số người bị thương do tai nạn giao thông giảm nhiều so với năm
2007(17). Việc giải quyết
các khiếu kiện của nhân dân được chú trọng và đạt kết quả tốt hơn.
Đã thực hiện tốt hơn chính sách
dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, bảo đảm tự do tín ngưỡng, tự
do tôn giáo của nhân dân; xử lý kiên quyết, đúng pháp luật các hành vi gây mất
trật tự an toàn xã hội.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
đoàn thể nhân dân và các cấp chính quyền đã phối hợp có hiệu quả trong việc vận
động nhân dân đồng tâm, hiệp lực kiềm chế lạm phát, khắc phục khó khăn, phát
triển sản xuất kinh doanh, xây dựng đời sống văn hoá, đoàn kết các dân tộc, các
tôn giáo phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong bối cảnh rất nhiều khó
khăn thách thức, đạt được những chuyển biến tích cực nêu trên là nỗ lực rất lớn
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị nước ta.
II. NHỮNG HẠN
CHẾ, YẾU KÉM
Trong khi khẳng định những
chuyển biến tích cực bước đầu quan trọng nêu trên, chúng ta cần nhận rõ những hạn
chế, yếu kém nổi lên là:
1. Lạm phát cao, nhập siêu lớn,
cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc. Mặc dù đã được kiềm chế theo hướng giảm
dần nhưng mức tăng giá tiêu dùng vẫn còn cao gấp gần 2 lần năm 2007 và là mức
tăng cao nhất từ hơn 10 năm nay. Nhập siêu đã giảm mạnh nhưng vẫn còn lớn. Các
cân đối kinh tế vĩ mô tuy đã ổn định hơn nhưng chưa vững chắc.
Lạm phát cao ở nước ta có nguyên
nhân từ giá cả thế giới tăng cao, nhưng chủ yếu là do cơ cấu kinh tế, cơ cấu
đầu tư, chính sách tiền tệ, tài khoá chưa thật phù hợp, kém hiệu quả; chất
lượng và tính bền vững của nền kinh tế thấp; công tác chỉ đạo điều hành, nhất
là về kinh tế vĩ mô tuy đã có bước tiến bộ nhưng còn nhiều bất cập.
2. Hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế còn thấp, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng
kinh tế khó đạt chỉ tiêu đề ra
Nhiều dự án phát triển không dựa
trên việc khai thác và phát huy tối đa lợi thế so sánh; hiệu quả đầu tư còn
thấp, nhất là đầu tư công; hệ số ICOR chưa được cải thiện(18); cơ
cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Kết cấu hạ tầng và chất lượng nguồn nhân lực chưa
đáp ứng kịp yêu cầu phát triển.
Cơ chế đầu tư và giải ngân còn
nhiều bất cập, chậm được khắc phục làm kéo dài thời gian thi công, tăng chi phí
và giảm hiệu quả. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước
hiệu quả còn thấp và còn không ít yếu kém, nhất là trong quản lý, sử dụng nguồn
lực; cổ phần hoá chậm, chưa đạt kế hoạch đề ra.
Giá cả và lãi suất tăng cao làm
cho hoạt động đầu tư, kinh doanh gặp nhiều khó khăn; khả năng tiếp cận vốn tín
dụng, nhất là của doanh nghiệp nhỏ và vừa bị hạn chế. Việc tổ chức sản xuất,
thu mua, bảo quản, chế biến, tiêu thụ nông sản hiệu quả còn thấp. Phát triển
kinh tế chậm lại, rất khó đạt chỉ tiêu tăng trưởng 7%.
3. Đời sống nhân dân, nhất là
người có thu nhập thấp, người nghèo và đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng bị
thiên tai còn nhiều khó khăn. Lạm phát cao và thiên tai, dịch bệnh đã làm giảm
thu nhập thực tế của nhân dân, nhất là của các hộ nghèo. Tỷ lệ tái nghèo tăng;
vẫn còn nhiều huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao. Chỉ tiêu giảm nghèo đạt thấp hơn kế
hoạch (13,1%/11 - 12%).
Tỷ lệ tăng dân số là 1,19%, chưa
đạt chỉ tiêu kế hoạch là 1,14%; ở những vùng đời sống thấp, tăng dân số còn cao
hơn, gây thêm khó khăn cho việc giảm nghèo. Mức giảm tỷ lệ sinh chỉ đạt 0,1%o,
thấp hơn kế hoạch (0,3%o).
4. Việc giải quyết một số vấn đề
xã hội bức xúc còn chậm, kết quả còn hạn chế. Ước cả năm, chỉ tiêu tạo việc làm
mới đạt thấp hơn kế hoạch (1,615/1,7 triệu người), yêu cầu về giải quyết việc
làm gay gắt hơn. Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp có xu hướng tăng. Tranh
chấp lao động và đình công xảy ra nhiều hơn nhưng cơ chế xử lý chưa thật hiệu
quả.
Việc khiếu kiện, nhất là về thu
hồi đất, bồi thường, tái định cư ở nhiều nơi chưa được giải quyết kịp thời, dứt
điểm, dẫn đến những vụ khiếu kiện đông người, kéo dài.
Tai nạn giao thông tuy có giảm
nhưng số vụ, số người chết và bị thương còn lớn. Ùn tắc giao thông tại các
thành phố lớn có xu hướng tăng. Tệ nạn mãi dâm, ma tuý ở một số địa bàn vẫn còn
phức tạp.
5. Cải cách hành chính chưa đạt
yêu cầu là khâu đột phá; kết quả phòng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí còn thấp. Công tác xây dựng thể chế còn chậm, chất lượng chưa
cao; việc kiện toàn bộ máy, tinh giản biên chế chưa đạt yêu cầu. Thủ tục hành
chính còn rườm rà, việc thực hiện ở nhiều nơi vẫn còn tuỳ tiện, chưa công khai,
minh bạch. Không ít cán bộ, công chức còn tiêu cực, nhũng nhiễu, gây phiền hà
cho dân. Một số nơi, lãnh đạo chủ chốt chưa quan tâm đúng mức cải cách thủ tục
hành chính, phòng chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Điều
tra, truy tố, xét xử một số vụ án tham nhũng vẫn còn chậm.
6. An ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội ở một số địa bàn vẫn còn phức tạp. Các thế lực thù địch và những
phần tử xấu tiếp tục lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc để
kích động khiếu kiện đông người, biểu tình, đưa ra các đòi hỏi trái pháp luật,
gây mất trật tự xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân.
Tội phạm hình sự chưa giảm
nhiều, ở một số địa bàn vẫn còn phức tạp. Tình trạng phạm tội trong thanh,
thiếu niên là đáng lo ngại.
7. Quản lý nhà nước và tổ chức
thực hiện tuy có bước tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Quản lý nhà nước
trong kinh tế thị trường còn nhiều bất cập; môi trường đầu tư, kinh doanh còn
nhiều vướng mắc; tình trạng đầu cơ, buôn lậu, buôn bán hàng giả, hàng không bảo
đảm vệ sinh an toàn thực phẩm còn nghiêm trọng. Môi trường sống ở nhiều nơi bị
giảm sút, nhiều vụ việc vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường chậm bị phát
hiện, xử lý. Việc chỉ đạo thực hiện không ít nơi trách nhiệm chưa cao, thiếu
sâu sát, thiếu quyết liệt. Kỷ luật, kỷ cương trong xã hội còn nhiều yếu kém.
*
*
*
Những tháng cuối năm 2007 và năm
2008 là thời đoạn khá đặc biệt. Từ không khí thuận lợi trước những thành tựu
đạt được và những cơ hội mở ra sau khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), chúng ta lại phải đứng trước những khó khăn thách thức gay gắt và
những lo toan về triển vọng phát triển của đất nước và cuộc sống của mỗi người
dân; từ tốc độ tăng trưởng khá cao, lạm phát
thấp liên tục trong nhiều năm lại phải đương đầu với lạm phát cao và tăng
trưởng chậm lại. Lạm phát hiện nay tuy không đến mức “phi mã” như những
năm 80 của thế kỷ trước, nhưng do kinh tế nước ta đã hội nhập sâu rộng vào kinh
tế thế giới cũng đang trong tình trạng lạm phát cao, tăng trưởng suy giảm, do
đó, việc xử lý cũng rất phức tạp. Qua thực tiễn điều hành, bước đầu có thể rút
ra một số bài học thiết thực sau đây:
Một là, phải phát huy sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn thể nhân dân trong việc kiềm
chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và duy trì tăng trưởng hợp lý, bền vững. Lạm
phát cao ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống nhân dân, đe doạ nghiêm
trọng ổn định kinh tế vĩ mô. Kiềm chế lạm phát thực sự là công việc hệ trọng
của đất nước, đòi hỏi phải có sự nhất trí trong cả hệ thống chính trị, từ đánh
giá tình hình, phân tích nguyên nhân đến xác định mục tiêu, nhiệm vụ và các
giải pháp thực hiện; tạo ra sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động của
toàn Đảng, toàn dân, cùng đồng tâm hiệp lực phấn đấu vì lợi ích của đất nước,
của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Phải thực sự
phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật kỷ cương và làm tốt công tác thông tin,
tuyên truyền, đưa chủ trương của Đảng, Nhà nước đến mọi người dân; đồng thời
nghiêm túc lắng nghe, tiếp thu những ý kiến đóng góp xác đáng để hoàn thiện
chính sách, giải pháp. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định và cũng là bài học
lớn về thực hành dân chủ, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để đạt
được những kết quả bước đầu quan trọng nêu trên.
Hai là, phải đặc biệt coi
trọng chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh và tính bền vững của nền kinh tế
trong quá trình phát triển. Là một nước có điểm xuất phát thấp, nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế luôn là thách thức gay gắt. Yêu cầu tăng trưởng cao là
cấp thiết, nhưng điều đó phải được thực hiện trên cơ sở tăng dần tỷ trọng đóng
góp của các yếu tố: kỹ thuật, công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, năng suất
lao động, quản lý tiên tiến và bảo đảm các cân đối vĩ mô để nâng cao hiệu quả,
tính bền vững của sự phát triển. Chúng ta đã chậm chuyển hướng nền kinh tế theo
yêu cầu này. Tăng trưởng kinh tế của nước ta tuy đạt tốc độ khá cao, liên tục
trong thời gian dài, nhưng chủ yếu là theo chiều rộng, nhờ tăng mạnh vốn đầu
tư, nhất là đầu tư công, đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và buộc phải thực
hiện chính sách tiền tệ, tài khoá nới lỏng
kéo dài, làm cho hiệu quả đầu tư thấp, hệ số ICOR cao, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch chậm, sức cạnh tranh của nền kinh tế kém. Đây là nguyên nhân sâu xa của
lạm phát cao, nhập siêu lớn, đe doạ ổn định kinh tế vĩ mô.
Ba là, phải kiên trì và nhất
quán thực hiện cơ chế kinh tế thị trường, đồng thời coi trọng vai trò quản lý
của Nhà nước. Do duy trì quá lâu bao cấp về giá xăng dầu, giá điện, than và
một số hàng hoá, dịch vụ khác; chậm điều chỉnh tỷ giá theo thị trường; chưa coi
trọng đúng mức việc tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, chậm hình thành đồng bộ các yếu tố của
kinh tế thị trường đã làm cho việc phân bổ và
sử dụng nguồn lực không hợp lý, gây lãng phí và ngân sách phải bù lỗ lớn, hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp và cả nền kinh tế thấp. Thực trạng đó đòi
hỏi phải thực hiện khẩn trương hơn cơ chế thị trường, kiên quyết xoá bao cấp
qua giá, điều hành tỷ giá linh hoạt theo cung cầu và xác lập nhanh môi trường
kinh doanh cạnh tranh lành mạnh công bằng. Nhưng mặt khác, để hạn chế mặt trái
của kinh tế thị trường, nhất là trong một nền kinh tế đang chuyển đổi như nước
ta, phải tăng cường quản lý của Nhà nước, trước hết là: kiểm soát giá cả, ngăn
chặn đầu cơ và các hành vi kinh doanh trái pháp luật; sử dụng tiềm lực kinh tế
của Nhà nước để can thiệp vào thị trường khi cần thiết và phải đặc biệt quan
tâm bảo đảm an sinh xã hội, trợ giúp những đối tượng dễ bị tổn thương. Phải
thường xuyên chăm lo tăng cường tiềm lực kinh tế nhà nước; kiên quyết đổi mới,
nâng cao hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, làm cho
các nguồn lực này đủ mạnh, thực sự là công cụ hữu hiệu điều tiết thị trường,
phục vụ tốt hơn yêu cầu phát triển bền vững. Đây cũng là quá trình vừa làm, vừa
rút kinh nghiệm để hoàn thiện dần mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
Bốn là, phải quan tâm, tổ
chức tốt công tác dự báo và phân tích kinh tế. Tuy có nhiều cơ quan dự báo
và phân tích kinh tế, nhưng công tác này chưa thực sự được coi trọng đúng tầm,
chưa được tổ chức chặt chẽ, hiệu quả và thiếu cơ chế thích hợp để tranh thủ ý
kiến của các chuyên gia độc lập. Hệ quả là chúng ta chưa nhận thức kịp thời,
đầy đủ những nhân tố bên trong tiềm ẩn đe doạ lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô
từ những năm trước và cũng chưa kịp thời dự báo được những ảnh hưởng lớn do
biến động của kinh tế toàn cầu đến kinh tế trong nước, để sớm có phản ứng chính
sách thích hợp. Điều này đã làm cho chúng ta có phần lúng túng trong thời gian
đầu đối phó với lạm phát cao và nhập siêu lớn. Khi phân tích, đánh giá đúng
tình hình, đã kịp thời chuyển hướng, xác định đúng nhiệm vụ trọng tâm và đề ra
các nhóm giải pháp hành động thích hợp.
Năm là, phải căn cứ tình hình
thực tế của đất nước mà xác định nhiệm vụ, giải pháp và tổ chức hành động với
trách nhiệm cao nhất. Lạm phát cao ở nước ta có nguyên nhân khách quan từ
bên ngoài, nhưng chủ yếu vẫn là những nguyên nhân chủ quan bên trong; có nhiều
điểm giống nhưng cũng có những khác biệt với các nước. Để chống lạm phát, cần
tham khảo kinh nghiệm của thế giới, chân thành lắng nghe những ý kiến đóng góp
của các chuyên gia, nhưng phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước để xác định
mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, không thể rập khuôn, máy móc. Đồng thời
phải nghiêm túc đề cao trách nhiệm của từng tổ chức, trước hết là tinh thần
chịu trách nhiệm cao của người đứng đầu trong thực thi chức năng nhiệm vụ được
giao, trong triển khai tổ chức thực hiện, với chương trình hành động thiết
thực, có trọng tâm, trọng điểm, lựa chọn đúng khâu then chốt trong từng thời
gian, ở từng lĩnh vực để tập trung sức chỉ đạo và phối hợp hành động đạt cho
được những kết quả cụ thể; mặt khác, phải kịp thời bổ sung điều chỉnh để các
chính sách, giải pháp luôn phù hợp với thực tế tình hình.
Phát huy những kết quả tích cực
bước đầu, vận dụng tốt những bài học thiết thực nêu trên, tiếp tục thực hiện
đồng bộ và phù hợp các nhóm giải pháp, nhất định chúng ta sẽ thực hiện thắng
lợi mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
Phần thứ
hai
MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI NĂM 2009
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu được cho là nghiêm trọng nhất từ sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới
1929 - 1933, với quy mô lớn, diễn biến phức tạp và hậu quả nặng nề hơn so với
dự báo trước đây. Kinh tế thế giới đang đứng trước nguy cơ suy thoái. Tình hình này tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta, đặt ra cho chúng ta những
nhiệm vụ khó khăn hơn về ổn định kinh tế vĩ mô và duy trì tăng trưởng trong
thời gian tới.
Ở trong nước, sau 3 năm thực
hiện, một số chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 đã cơ bản hoàn thành hoặc
hoàn thành vượt mức, nhưng nhiệm vụ còn lại trong năm 2009 và 2010 là rất nặng
nề, nhiều chỉ tiêu khó đạt kế hoạch. Cải cách hành chính, nguồn nhân lực và kết
cấu hạ tầng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và đang là những “điểm
nghẽn” trong tăng trưởng. Lạm phát tuy đã được kiềm chế theo hướng giảm dần
nhưng vẫn ở mức cao, cân đối vĩ mô chưa vững chắc, nền kinh tế còn nhiều hạn
chế, yếu kém trong khi sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Biến đổi khí
hậu, thiên tai, dịch bệnh vẫn là nỗi lo tiềm ẩn.
Tuy nhiên, chúng ta cũng có
những thuận lợi rất cơ bản, đó là điều kiện chính trị xã hội ổn định; nội lực,
tiềm năng tăng trưởng của đất nước còn lớn và còn có thể phát huy mạnh hơn; thị
trường xuất khẩu được mở rộng, quan hệ và uy tín của Việt Nam trên trường quốc
tế ngày càng được nâng cao; môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện, các nhà
đầu tư vẫn tin vào triển vọng phát triển của nền kinh tế nước ta.
I. MỤC
TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU
Mục tiêu tổng quát về phát triển
kinh tế, xã hội của năm 2009 cần được xác định là: tiếp tục ưu tiên kiềm chế
lạm phát, chủ động hạn chế tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; chăm lo tốt hơn an sinh
xã hội; duy trì tăng trưởng hợp lý, bền vững; giữ vững ổn định chính trị, bảo
đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội; tạo điều kiện thực hiện
thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010.
Để thực hiện có hiệu quả mục
tiêu tổng quát trên đây, phải tập trung làm tốt các nhiệm vụ chủ yếu sau:
Một là, thực hiện có hiệu
quả các chính sách về tiền tệ, tài khoá, đầu tư, xuất nhập khẩu, tăng cường mức độ an toàn của hệ thống tài chính, ngân hàng;
đưa lạm phát năm 2009 xuống dưới 15% và xuống một con số vào năm 2010.
Hai là, thực hiện tốt các
chính sách hiện có và ban hành các chính sách mới phù hợp nhằm bảo đảm
tốt hơn an sinh xã hội, xoá đói giảm nghèo. Tiếp tục phát triển vững chắc các
lĩnh vực văn hoá, xã hội và môi trường.
Ba là, phát huy mọi tiềm
năng của đất nước, tăng cường hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả,
phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 7%, trên cơ sở tạo mọi điều kiện
thuận lợi phát triển nhanh khu vực dân doanh, nâng cao hiệu quả của doanh
nghiệp nhà nước, thu hút mạnh và nâng cao chất lượng của đầu tư nước ngoài.
Bốn là, đặc biệt coi
trọng tính bền vững và chất lượng tăng trưởng trên cơ sở nâng cao chất lượng
công tác quy hoạch, kế hoạch và hiệu quả đầu tư, áp dụng công nghệ và tiến bộ
kỹ thuật, tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng trong sản xuất kinh doanh, nâng cao
sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của nền kinh tế.
Năm là, tập trung cao hơn
cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp và nông thôn, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của cư
dân nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khoá X.
Sáu là, tập trung khắc
phục những "điểm nghẽn" trong tăng trưởng, tạo thuận lợi cho phát
triển sản xuất, thu hút đầu tư; trong đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
coi đây là sức cạnh tranh cơ bản nhất, là yêu cầu bất biến trong thế giới toàn
cầu hoá và biến đổi không ngừng.
Cụ thể hoá mục tiêu tổng quát và
những nhiệm vụ trên đây, Chính phủ đã trình Quốc hội hệ thống các chỉ tiêu cần
phấn đấu đạt được, trong đó các chỉ tiêu chủ yếu là:
(1) Về kinh tế
Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
tăng khoảng 7% so với năm 2008; GDP theo giá thực tế khoảng 1.820 nghìn tỷ đồng
tương đương 106 tỷ USD, bình quân đầu người khoảng 1.200 USD.
Giá trị tăng thêm khu vực nông
lâm ngư nghiệp tăng khoảng 3%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng khoảng 8%,
khu vực dịch vụ tăng khoảng 7,8%.
Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt
khoảng 76,7 tỷ USD, tăng 18% so với năm 2008.
Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội khoảng 725 nghìn tỷ đồng, bằng 40% GDP.
Tổng thu ngân sách nhà nước
khoảng 418 nghìn tỷ đồng, tăng 4,76% so với ước thực hiện năm 2008; tổng chi
ngân sách nhà nước 509,4 nghìn tỷ đồng, tăng 7,4% so với ước thực hiện năm 2008.
Bội chi ngân sách nhà nước khoảng 87,3 nghìn tỷ đồng, bằng 4,8% GDP.
Chỉ số tăng giá tiêu dùng dưới
15%.
(2) Các chỉ tiêu xã hội
Số tỉnh đạt chuẩn phổ cập trung
học phổ thông cơ sở: 55 tỉnh.
Tuyển mới đại học, cao đẳng tăng
11,4%; trung cấp chuyên nghiệp tăng 15,6%; cao đẳng nghề và trung cấp nghề tăng
18%.
Mức giảm tỷ lệ sinh là 0,2%o.
Tạo việc làm cho khoảng 1,7
triệu lao động, trong đó đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài 9 vạn người.
Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn
12%.
Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị
suy dinh dưỡng xuống dưới 19%.
Số giường bệnh trên 1 vạn dân:
26,85 giường.
Diện tích nhà ở đô thị bình quân
đầu người: 12,2 m2.
(3) Các chỉ tiêu môi trường
Cung cấp nước hợp vệ sinh cho
79% dân số nông thôn; tỷ lệ dân số đô thị được cấp nước sạch: 85%.
Xử lý cơ sở gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng: 65%; tỷ lệ chất thải rắn được thu gom: 82%; tỷ lệ xử lý
chất thải nguy hại: 65%; tỷ lệ xử lý chất thải rắn y tế: 75%; tỷ lệ khu công
nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi
trường là: 65%.
Tỷ lệ che phủ rừng: 40,5%.
II. VỀ CÁC
GIẢI PHÁP LỚN
1. Tiếp tục
kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô
Để kiềm chế mức tăng giá tiêu
dùng cả năm 2009 dưới 15%, đưa lạm phát xuống một con số vào năm 2010 và ổn
định vững chắc hơn kinh tế vĩ mô phải tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ
thắt chặt, nhưng rất linh hoạt trong điều hành nhằm bảo đảm vốn cho việc tăng
trưởng hợp lý và ngăn chặn sự suy giảm của nền kinh tế. Điều hành lãi suất theo
cơ chế thị trường; áp dụng tỷ giá linh hoạt bảo đảm yêu cầu kiềm chế lạm phát,
khuyến khích sản xuất và xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. Tăng cường hiệu quả điều
tiết vĩ mô và thanh tra, giám sát các hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo đảm
an toàn hệ thống. Kiểm soát có hiệu quả việc cho vay kinh doanh bất động sản,
kinh doanh chứng khoán và các luồng tiền trong nền kinh tế.
Thực thi chính sách tài khóa
chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, thực hiện tốt mục tiêu giảm tỷ
lệ bội chi; triệt để tiết kiệm chi thường xuyên; đình hoãn, giãn tiến độ các dự
án đầu tư chưa thực sự cần thiết, không hiệu quả. Kiểm soát chặt chẽ đầu tư của
các doanh nghiệp nhà nước.
Kiên trì chính sách giá theo cơ
chế thị trường, điều chỉnh giá điện, than với lộ trình phù hợp cùng với việc hỗ
trợ các nhóm đối tượng bị ảnh hưởng tiêu cực do tăng giá.
Phát huy tối đa năng lực sản
xuất hiện có, điều hành xuất nhập khẩu và tổ chức tốt thị trường trong nước,
bảo đảm cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu, không để xảy ra thiếu hàng.
Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, buôn bán
hàng giả, hàng kém chất lượng; thực hiện nghiêm các quy định về niêm yết giá và
bán theo giá niêm yết; xử lý kịp thời các hành vi vi phạm; bảo vệ quyền lợi
chính đáng của người tiêu dùng. Đề cao trách nhiệm của các tập đoàn, tổng công
ty nhà nước trong việc bảo đảm cung ứng các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất,
tiêu dùng và tham gia tích cực vào việc bình
ổn thị trường giá cả.
2. Tháo gỡ
khó khăn, huy động mọi nguồn lực để duy trì tăng trưởng và nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh
Đẩy mạnh sản xuất nông lâm ngư
và diêm nghiệp theo quy hoạch. Bảo đảm diện
tích lúa với cơ cấu giống thích hợp để giữ vững an ninh lương thực và nâng cao
hiệu quả xuất khẩu. Phát triển một số loại cây công nghiệp, cây trồng khác có khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu
trong nước và xuất khẩu. Đẩy mạnh việc
trồng mới và bảo vệ rừng, gắn với cơ chế, chính sách thích hợp để xoá đói giảm
nghèo, cải thiện đời sống của người làm nghề rừng. Khôi phục và phát
triển nhanh chăn nuôi đi đôi với làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh. Khai
thác hợp lý hải sản, đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản, tập trung vào những loại có
hiệu quả kinh tế cao. Phát triển một số nông sản, thuỷ sản có điều kiện để làm
thức ăn chăn nuôi, giảm dần nhập khẩu. Tập trung chỉ đạo gắn kết có hiệu quả
hơn giữa sản xuất nông nghiệp với thu mua, chế biến, tiêu thụ sản phẩm.
Tăng năng lực các ngành sản xuất công nghiệp, nhất là các sản phẩm mà
thị trường đang có nhu cầu; phát triển công nghiệp chế tạo, chế biến nhất là
công nghiệp cơ khí và chế biến khoáng sản. Thu hút mạnh đầu tư vào các ngành
công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn, thân thiện với
môi trường; phát triển nhanh một số ngành công nghiệp hỗ trợ có lợi thế cạnh
tranh.
Phát triển các ngành dịch vụ để
tăng nhanh tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế, gắn phát triển dịch vụ vận tải với
dịch vụ logistic nhằm giảm chi phí lưu thông hàng hoá; phát triển các dịch vụ
tư vấn, viễn thông, dịch vụ tài chính; phát triển nhanh hệ thống dịch vụ thương
mại; tăng khả năng liên kết vùng, liên kết ngành để nâng cao hiệu quả tổng hợp
của dịch vụ du lịch.
Các doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp nhà nước cần tích cực đổi mới công nghệ, hoàn thiện quản lý, triệt
để tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, nhằm hạ giá thành, phí lưu thông, nâng
cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Ban hành chính sách thích
hợp để khuyến khích doanh nghiệp thực hiện các yêu cầu này. Các Bộ và địa
phương phải tăng cường kiểm tra, huỷ bỏ các loại phí trái quy định, đặc biệt là
trong các lĩnh vực tiếp cận đất đai, hải quan, nộp thuế, cấp giấy phép đầu tư,
chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, các loại phí trên đường vận chuyển... giảm
chi phí trung gian cho doanh nghiệp.
Đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp
nhà nước, trọng tâm là cổ phần hoá. Thực hiện cổ phần hoá các tập đoàn và tổng
công ty nhà nước theo kế hoạch; tiếp tục bán số cổ phần nhà nước trong các
doanh nghiệp đã cổ phần hoá mà nhà nước không cần chi phối. Phát huy vai trò
của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước trong việc quản lý và phát
triển vốn nhà nước, phục vụ cho nhu cầu phát triển. Phân định rõ trách nhiệm
của Bộ quản lý ngành, Ủy ban nhân dân các địa phương với Tổng công ty Đầu tư và
Kinh doanh vốn nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá.
Thực hiện các giải pháp để bảo
đảm điện cho sản xuất và đời sống. Trong năm 2009, tăng công suất phát điện
thêm khoảng 3.400 MW đi đôi với triệt để tiết kiệm trong sử dụng, phấn đấu giảm
lượng điện tiêu thụ trong quan hệ với tăng GDP. Ban hành cơ chế khuyến khích
đầu tư phát triển nguồn điện; mở rộng việc sử dụng năng lượng tái sinh, năng
lượng sinh học; giảm tối đa và phấn đấu chấm dứt tình trạng cắt điện; xây dựng
thị trường điện cạnh tranh, tách sản xuất điện với phân phối điện.
Bảo đảm đủ vốn cho sản xuất kinh
doanh các mặt hàng thiết yếu, hàng xuất khẩu và vốn để đẩy nhanh thi công, sớm
đưa vào sử dụng các dự án, các công trình quan trọng nhằm tăng năng lực sản
xuất và lưu thông hàng hoá. Ban hành danh mục kêu gọi đầu tư cùng với các chính
sách cụ thể khuyến khích đầu tư các công trình hạ tầng. Có chính sách hỗ trợ
phù hợp để phát huy hiệu quả của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tiến hành sơ kết rút kinh nghiệm
về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; xây dựng danh mục kêu gọi đầu tư phù
hợp với chiến lược phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; chú trọng thu hút
các dự án công nghệ cao, sử dụng đất có hiệu quả và thân thiện với môi trường;
đẩy nhanh việc giải phóng mặt bằng, giải quyết các vướng mắc để tăng tỷ lệ giải
ngân. Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.
3. Đẩy mạnh
xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, giảm nhập siêu
Để đạt kế hoạch kim ngạch xuất
khẩu (khoảng 76,7 tỷ USD) phải cơ cấu lại mặt hàng xuất khẩu theo hướng tăng
xuất khẩu các mặt hàng chế tạo chế biến, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh
tranh của hàng xuất khẩu; phát triển các mặt
hàng xuất khẩu mới; giảm xuất khẩu nguyên liệu thô. Tăng cường các hoạt động
xúc tiến thương mại ở cả 3 cấp: doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và Chính phủ
nhằm mở thêm thị trường mới. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức xúc tiến thương
mại, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, hiệp hội ngành hàng trong việc hỗ
trợ, phối hợp với doanh nghiệp trong xuất khẩu.
Tiếp tục thực hiện các giải pháp
kiểm soát nhập khẩu không trái với quy định của WTO để hạn chế nhập khẩu các
mặt hàng chưa thật sự cần thiết; giữ mức nhập siêu khoảng 20,7 tỷ USD, bằng
27,0% kim ngạch xuất khẩu. Áp dụng các biện pháp đồng bộ để chống nhập lậu,
gian lận thương mại.
4. Thực hiện
có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 7 về nông nghiệp, nông dân và nông thôn
Trên cơ sở Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Chương trình hành
động của Chính phủ, các Bộ và địa phương phải khẩn trương xây dựng kế hoạch
hành động; huy động các nguồn lực, tập trung chỉ đạo nhằm thực hiện thắng lợi
các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết đã đề ra; trong đó, chú trọng một
số trọng tâm sau:
Làm tốt công tác quy hoạch, bao
gồm quy hoạch về đất đai, quy hoạch hạ tầng, quy hoạch phát triển sản xuất và
quy hoạch xây dựng nông thôn gắn với quy hoạch phát triển đô thị.
Tăng cường công tác nghiên cứu
khoa học, phát triển nguồn nhân lực, làm tốt công tác khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư để đẩy nhanh việc chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ khoa học công
nghệ vào sản xuất, nhất là các tiến bộ về giống cây trồng vật nuôi, kỹ thuật
canh tác, nuôi trồng, phòng trừ dịch bệnh, bảo quản, chế biến sau thu hoạch.
Nhà nước tăng đầu tư và khuyến
khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển công
nghiệp chế biến, kinh doanh dịch vụ nhằm đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cơ cấu lao động trong nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của cư dân nông thôn.
Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ
chức sản xuất thích hợp gắn với tích tụ ruộng đất để hình thành những vùng sản
xuất hàng hoá lớn, tạo điều kiện đưa công nghiệp tác động vào nông nghiệp. Tổ
chức tốt hơn việc tiêu thụ nông sản, mở rộng việc tiêu thụ thông qua hợp đồng,
nhất là các sản phẩm khối lượng lớn, có tính thời vụ cao mà người sản xuất khó
khăn trong việc thu hoạch, bảo quản.
Khẩn trương chuẩn bị để trình
Quốc hội xem xét sửa đổi Luật Đất đai và Luật Hợp tác xã.
5. Thực hiện
tốt các chính sách an sinh xã hội và xoá đói giảm nghèo
Tiếp tục thực hiện tốt các
chương trình, dự án và các chính sách đã ban hành để hỗ trợ phát triển sản
xuất, ổn định đời sống người nghèo, vùng nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số khó
khăn, vùng bị thiên tai, dịch bệnh. Các Bộ và địa phương phải bố trí đủ nguồn
vốn và tăng dự trữ, dự phòng, bảo đảm đủ chi cho nhiệm vụ này; hoàn thiện cơ
chế thực thi và chỉ đạo kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện để nguồn hỗ trợ của
Nhà nước đến đúng đối tượng, kịp thời, không để thất thoát, lãng phí. Mở rộng
đối tượng thụ hưởng và tăng mức hỗ trợ thích hợp theo các chính sách an sinh xã
hội hiện có.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách
nhằm hỗ trợ có tính cơ bản lâu dài về an sinh xã hội, trong đó tập trung vào
một số trọng tâm sau:
Nghiên cứu sớm ban hành chuẩn
nghèo mới phù hợp với tình hình lạm phát và thực tiễn nước ta; sớm phê duyệt và
triển khai thực hiện Đề án hỗ trợ các huyện có tỷ lệ nghèo cao nhất trên cơ sở
vận dụng tối đa những chính sách và lồng ghép có hiệu quả những chương trình,
dự án hiện có, đồng thời ban hành các chính sách đặc thù để hỗ trợ giảm nghèo
nhanh và bền vững ở những huyện này.
Tiếp tục thực hiện Đề án cải
cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công giai
đoạn 2008 - 2012. Triển khai tốt việc điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng đối
với các doanh nghiệp. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để điều chỉnh mức lương
tối thiểu chung áp dụng trong năm 2009; thực hiện chế độ phụ cấp công vụ 10%
đối với cán bộ, công chức và lực lượng vũ trang; thực hiện bảo hiểm thất nghiệp
từ ngày 01 tháng 01 năm 2009; mở rộng các hình thức bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế.
Thực hiện Chương trình quốc gia
về nhà ở, phát triển nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp ở khu vực đô thị;
sớm hoàn tất thủ tục để triển khai Đề án hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở, Đề án phát
triển nhà công vụ cho giáo viên; khẩn trương phê duyệt và triển khai Đề án
chung sống an toàn với lũ tại các tỉnh miền Trung.
Nâng cao năng lực của Ngân hàng
Chính sách Xã hội để thực hiện có hiệu quả các chương trình tín dụng an sinh xã
hội và đáp ứng nhu cầu vốn cho người nghèo, các đối tượng chính sách để học
tập, phát triển sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống.
Thí điểm việc thoả ước lao động
ngành và thực hiện đồng bộ các giải pháp để xây dựng quan hệ lao động lành
mạnh, bền vững; khuyến khích doanh nghiệp hỗ trợ thiết thực cải thiện đời sống
vật chất, tinh thần cho người lao động, nhất là ở các khu công nghiệp tập
trung. Chủ động giải quyết phù hợp vấn đề đình công và đưa việc đình công vào
trật tự pháp luật.
Làm tốt công tác bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư, bảo đảm hài hoà lợi ích giữa Nhà nước, người đang sử dụng đất
và nhà đầu tư. Ủy ban nhân dân các cấp phải quan tâm giải quyết các khiếu kiện
của công dân, nhất là về đất đai theo đúng pháp luật và phù hợp với tình hình
thực tế, không để khiếu kiện kéo dài.
Các Bộ, địa phương chủ động lập
phương án cụ thể, chỉ đạo sâu sát việc phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu
nạn, giảm đến mức thấp nhất thiệt hại về người và tài sản. Khẩn trương triển
khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu,
nhất là nguy cơ nước biển dâng, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
6. Tăng đầu
tư ngân sách nhà nước và đẩy mạnh xã hội hoá nhằm nâng cao chất lượng giáo dục,
y tế, văn hoá và bảo vệ môi trường
Tăng tỷ trọng chi ngân sách nhà
nước cho con người, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động tối đa các nguồn
lực đầu tư vào các lĩnh vực quan trọng này. Tiếp tục triển khai đồng bộ các
Chương trình mục tiêu quốc gia trong lĩnh vực xã hội theo kế hoạch 2006 - 2010.
Nâng cao chất lượng và mở rộng
quy mô giáo dục đào tạo, tập trung vào những nội dung sau đây: Nhà nước tập
trung đầu tư cho giáo dục phổ cập, cho các trường công lập, hỗ trợ các học sinh
tài năng, học giỏi, học sinh nghèo và học sinh thuộc diện gia đình chính sách;
đồng thời, đẩy mạnh xã hội hoá nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư
vào giáo dục; mở rộng phương thức đào tạo theo hợp đồng, gắn đào tạo với nhu
cầu sử dụng. Đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy theo hướng
tiên tiến, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên đáp ứng yêu cầu đào tạo nhân lực trình độ cao. Đổi mới quản lý giáo dục,
tăng tính chủ động cho nhà trường, trước hết là các trường thuộc hệ đào tạo
chuyên nghiệp và dạy nghề. Tăng cường hợp tác quốc tế, đưa nền giáo dục nước ta
hội nhập với các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, khẩn trương triển khai
có kết quả các dự án hợp tác quốc tế, nhất là về đào tạo giáo viên.
Tăng cường năng lực khoa học công
nghệ trong nước và tiếp thu, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến.
Phát triển các hoạt động tư vấn, môi giới, chuyển giao công nghệ, tổ chức các
chợ công nghệ và thiết bị. Đổi mới cơ chế hoạt động và tăng cường gắn kết tổ chức
khoa học công nghệ với cơ sở sản xuất. Phát triển các sản phẩm quốc gia do ta
làm chủ với công nghệ tiên tiến. Ban hành chính sách khuyến khích doanh nghiệp
đổi mới công nghệ, đưa tỷ lệ đổi mới công nghệ lên mức cao hơn. Khai thác có
hiệu quả các phòng thí nghiệm trọng điểm đã hoàn thành và đẩy nhanh tiến độ xây
dựng hai khu công nghệ cao.
Thực hiện kiên quyết và đồng bộ
các biện pháp giảm ô nhiễm, bảo vệ và cải thiện môi trường, nhất là ở các khu
đô thị, khu công nghiệp, làng nghề. Làm tốt hơn công tác quản lý, xử lý chất
thải. Đẩy mạnh xã hội hoá và phát triển công nghiệp bảo vệ môi trường; khuyến
khích, tiến tới bắt buộc sử dụng các vật liệu bao gói không gây ô nhiễm; tăng
cường kiểm tra và xử lý nghiêm các vi phạm. Tăng năng lực hệ thống quan trắc,
cung cấp kịp thời các thông tin về môi trường.
Tăng chi cho y tế cao hơn tốc độ
tăng chi chung của ngân sách nhà nước. Tập trung đầu tư cho các bệnh viện tuyến
huyện, nâng cấp các trạm y tế tuyến xã, các trung tâm y tế dự phòng; tiếp tục
đầu tư cho các bệnh viện đầu ngành, bệnh viện vùng, bệnh viện tuyến tỉnh, trung
tâm y tế chuyên sâu theo quy hoạch. Tăng đầu tư trang thiết bị kiểm tra vệ sinh
an toàn thực phẩm và tập trung làm tốt công tác phòng, chống dịch bệnh. Phát
triển công nghiệp dược, sản xuất vắc xin, sinh phẩm y tế, nâng thêm thị phần
thuốc sản xuất trong nước, đi đôi với tổ chức, quản lý tốt việc phân phối, nhất
là ở các bệnh viện để ổn định thị trường thuốc. Kiện toàn tổ chức, nâng cao
chất lượng dịch vụ trong lĩnh vực dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế
hoạch hóa gia đình. Tập trung mọi nỗ lực để đạt mục tiêu giảm sinh vững chắc.
Nâng cao tính văn hóa trong mọi
hoạt động kinh tế, xã hội và sinh hoạt của nhân dân. Tăng cường quản lý hoạt
động xuất bản, nâng cao chất lượng các ấn phẩm, góp phần giáo dục nhân cách,
lối sống lành mạnh, nhất là cho thanh thiếu niên. Chấn chỉnh việc tổ chức các
lễ hội, khắc phục tình trạng lãng phí. Tích cực chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm
Thăng Long - Hà Nội.
Thực hiện tốt chính sách tôn
giáo, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Thực hiện bình đẳng giới, nâng cao vị thế và vai trò của phụ nữ
trong xã hội. Triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá X về thanh niên và trí thức.
7. Đẩy mạnh
cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng
Tiếp tục thực hiện đồng bộ công
tác cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính, làm cho khâu
đột phá này có bước tiến mới về chất. Kiên quyết loại bỏ những giấy phép không
cần thiết; công khai minh bạch các thủ tục hành chính; mở rộng thực hiện cơ chế
một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết
các việc liên quan đến người dân và doanh nghiệp. Trên cơ sở những cách làm tốt
nhất ở các ngành, các địa phương, xây dựng mô hình chuẩn về giải quyết thủ tục
hành chính để áp dụng chung cả nước. Triển khai chặt chẽ việc thí điểm không tổ
chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường và nhân dân bầu trực tiếp Chủ tịch
Ủy ban nhân dân xã.
Thực hiện Chương trình Chính phủ
điện tử, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý nhà
nước; đổi mới phương thức điều hành của cả hệ thống hành chính; từng bước hiện
đại hoá nền hành chính. Giảm mạnh hội họp. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng
cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước.
Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm gắn với thực hiện tốt
cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và đề cao trách nhiệm của người đứng
đầu trong phòng chống tham nhũng, lãng phí. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng các cấp. Đẩy nhanh việc xét xử các
vụ việc vi phạm. Thực hiện minh bạch, công khai cơ chế chính sách, quy hoạch
phát triển... coi đây là tiền đề quan trọng trong phòng ngừa tham nhũng, lãng
phí. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân đối với công tác này.
8. Tăng cường
công tác đối ngoại, quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội
Kiên trì thực hiện có hiệu quả
đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước nhằm tạo môi trường và
điều kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển đất nước; đưa các quan hệ với các
nước láng giềng, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống đi vào chiều sâu,
ổn định và bền vững; phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước,
các dân tộc trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi.
Thực hiện tốt trách nhiệm Ủy
viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Tích cực tham gia vào các
cơ chế hợp tác khu vực, nhất là trong khuôn khổ ASEAN và các chương trình hợp
tác tiểu vùng.
Nâng cao hiệu quả hợp tác kinh
tế, thương mại, đầu tư với các nước. Chủ động xây dựng khuôn khổ hợp tác kinh
tế với các đối tác tiềm năng, xúc tiến đàm phán Hiệp định Đầu tư, Hiệp định
Kinh tế song phương. Tiếp tục vận động các nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường.
Thực hiện tốt Nghị quyết của Bộ
Chính trị về công tác đối với cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài; đẩy mạnh ngoại giao văn hóa và tuyên truyền đối
ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bằng các giải pháp tổng hợp, đẩy
mạnh phòng chống để giảm tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức; bảo đảm tốt hơn
trật tự an toàn giao thông, phấn đấu giảm ùn tắc và tai nạn giao thông.
Tăng cường tiềm lực quốc phòng
và an ninh của đất nước, xây dựng quân đội và công an vững mạnh; củng cố nền
quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ và an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Nhiệm vụ năm 2009 là rất nặng
nề. Chúng ta vừa phải phấn đấu đạt cho được những kết quả cơ bản trong việc
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết tốt hơn những vấn đề an
sinh xã hội; vừa chủ động hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đến nền kinh tế nước ta, phấn đấu
giữ tăng trưởng ở mức hợp lý với yêu cầu chất lượng cao hơn. Tình hình kinh tế
thế giới đang diễn biến rất nhanh, phức tạp và cũng rất khó dự báo. Chính phủ
xin kiến nghị Quốc hội xem xét quyết định những chỉ tiêu kinh tế, xã hội, môi
trường mà Chính phủ trình là những chỉ tiêu có tính định hướng. Chính phủ sẽ nỗ
lực hết sức mình, hành động khẩn trương, quyết liệt cùng toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân nỗ lực phấn đấu đạt kết quả cao nhất trong năm 2009, tạo tiền đề thực
hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 2006 - 2010.
Chúng ta tin tưởng vững chắc
rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, làm tốt hơn nữa công tác
thông tin, tuyên truyền, tạo sự đồng tâm hiệp lực trong cả hệ thống chính trị
và sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, nhất định chúng ta sẽ vượt qua khó khăn
thách thức, tranh thủ thời cơ thuận lợi đưa đất nước tiếp tục phát triển bền
vững.
Xin cảm ơn các vị đại biểu
Quốc hội, đồng chí, đồng bào và các bạn.
|
TM.
CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng
|
(1) 8 nhóm giải pháp lớn: (1)
Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt và bảo đảm thanh khoản cho hệ thống ngân
hàng và nền kinh tế; (2) Kiểm soát chặt chẽ, cắt giảm đầu tư và nâng cao hiệu
quả chi tiêu công; (3) Tập trung sức phát triển sản xuất và dịch vụ, bảo đảm
cân đối cung cầu về hàng hóa; (4) Đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, giảm
nhập siêu; (5) Triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng; (6)
Tăng cường công tác quản lý thị trường, chống đầu cơ buôn lậu và gian lận
thương mại; (7) Tăng cường các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất
của nhân dân, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội; (8) Đẩy
mạnh và nâng cao hiệu quả công tác thông tin và tuyên truyền.
(2) Số liệu tương ứng của
các năm trước là: năm 2003: 23,9% và 28,8%; năm 2004: 20,6% và 27,2%; năm 2005:
24,4% và 20,6%; năm 2006: 29,7% và 24,8%; năm 2007 là 43,7% và 53,9%.
(3) Gồm 1.968 công trình với gần
6.000 tỷ đồng vốn ngân sách nhà nước và 1.145 dự án với trên 31.000 tỷ đồng vốn
đầu tư của 55 tập đoàn và tổng công ty nhà nước.
(4) Ước vượt 23,5% so với
dự toán, tăng 26,3% so với thực hiện năm 2007.
(5) Ước mức bội chi NSNN năm
2008 là 4,95% GDP so với kế hoạch là 5%.
(6) Nhập siêu tháng 4: 3,2
tỷ USD; tháng 5: 1,9 tỷ USD; tháng 6: 728 triệu USD; tháng 7: 753 triệu USD;
tháng 8: 258 triệu USD; tháng 9: 500 triệu USD.
(7) Tăng giá tiêu dùng
tháng 1: 2,38%; tháng 2: 3,56%; tháng 3: 2,99%; tháng 4: 2,2%; tháng 5: 3,91%;
tháng 6: 2,14%, tháng 7: 1,13%, tháng 8: 1,56%, tháng 9: 0,18%.
(8) Tăng trưởng kinh tế quý
I là 7,38%; quý II là 5,85%, quý III là 6,55%. 9 tháng là 6,52%.
(9) Xấp xỉ đạt mục tiêu kế hoạch
5 năm 2006 - 2010 là 1.050 - 1.100 USD/người.
(10) Các năm khác tăng cao là:
năm 1989 sau khi có Khoán 10, sản lượng lúa tăng 1,996 triệu tấn so với năm
1988; năm 1999 và năm 2002 đều có mức tăng khoảng 2,3 triệu tấn.
(11) Trong 9 tháng đầu năm 2008, có trên 49.300 doanh nghiệp thành lập với số
vốn đăng ký khoảng 377.100 tỷ đồng, tăng 27,4% về số lượng và 28% về vốn đăng
ký so với cùng kỳ năm 2007.
(12) Trong 9 tháng, số vốn đăng ký hơn 57 tỷ USD, gấp gần 5 lần so với cùng kỳ
năm 2007, vốn thực hiện trên 8 tỷ USD, tăng 37% so với cùng kỳ.
(13) Vốn ODA cam kết năm
2006 là 3,75 tỷ USD; năm 2007 là 4,45 tỷ USD; năm 2008 là 5,426 tỷ USD.
(14) Bao gồm hỗ trợ về đất ở,
nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu, vay
vốn; hỗ trợ về y tế, giáo dục, việc làm, trợ giúp pháp lý, sắp xếp ổn định dân
cư, giao khoán bảo vệ rừng gắn với cung cấp lương thực; hỗ trợ tiền dầu thắp
sáng cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ thuộc diện chính sách và hộ nghèo
chưa được sử dụng điện; hỗ trợ khai thác thuỷ sản; hỗ trợ về khắc phục hậu quả
thiên tai; phòng chống dịch bệnh; điều chỉnh lương; trợ cấp khó khăn cho người
lương thấp; hỗ trợ miễn giảm thuỷ lợi phí và một số loại phí, lệ phí; các chính
sách hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội đối với vùng Bắc Trung Bộ, duyên hải
miền Trung, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, Trung du và miền núi Bắc Bộ;
Chương trình xây dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu
Long giai đoạn 2.
(15) Trong đó có 2 Chương trình
cho vay uỷ thác của các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế.
(16) Hết năm 2008, 100% xã,
phường, 84,5% thôn bản có cán bộ y tế; 98,2% xã có trạm y tế, 70% xã có bác sỹ;
trên 46% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã; trên 70% xã thực hiện khám, chữa
bệnh ban đầu cho người có thẻ bảo hiểm.
(17) So với cùng kỳ năm
2007, 9 tháng năm 2008 xảy ra 9.463 vụ tai nạn giao thông, giảm 1.548 vụ (14%).
Số người chết là 8.598, giảm 1.307 người (13,2%). Số người bị thương là 6.165,
giảm 2.224 người (26,5%).
(18) Mấy năm gần đây, hệ số
ICOR của Việt Nam giao động từ 4,5 - 5,3; năm 2008, có thể còn cao hơn.