BỘ TƯ PHÁP
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------
|
Số: 152/BC-BTP
|
Hà Nội, ngày 04 tháng
8 năm 2009
|
BÁO CÁO
KẾT QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM
CÔNG TÁC TƯ PHÁP 6 THÁNG ĐẦU NĂM VÀ NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CÔNG TÁC 6 THÁNG CUỐI
NĂM 2009
Ngành Tư pháp triển khai nhiệm vụ công tác năm 2009 trong
bối cảnh có những thuận lợi: thể chế, bộ máy của Ngành được kiện toàn một bước;
chức năng, nhiệm vụ được mở rộng; vai trò, vị thế của Ngành trong hệ thống
chính trị ngày càng được nâng cao; sự phối hợp giữa ngành Tư pháp với các Bộ,
ngành, địa phương ngày càng được tăng cường; những nỗ lực, đóng góp của Ngành vào thành tựu phát
triển kinh tế, xã hội chung của cả nước trong thời gian qua được Chính phủ ghi
nhận và đánh giá tích cực[1]. Bên
cạnh đó, năm 2009 cũng đặt ra cho ngành Tư pháp nhiều khó khăn, thách thức:
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu cùng với những hạn chế, bất
cập nội tại của nền kinh tế nước ta tiếp tục tác động tiêu cực đến sự tăng
trưởng kinh tế, tạo thêm khó khăn mới cho việc thực hiện nhiệm vụ của bộ máy
nhà nước nói chung và của ngành Tư pháp nói riêng; Ngành phải triển khai thực
hiện những nhiệm vụ mới, phức tạp, đặc biệt là công tác thể chế nhằm tháo gỡ
khó khăn, chống suy giảm kinh tế, trong khi quá trình hội nhập và phát triển
của đất nước đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với công tác tư pháp.
Trong bối cảnh đó, toàn Ngành đã quyết tâm triển
khai đồng bộ các mặt công tác thuộc chức năng, nhiệm vụ, chú trọng thực hiện nhiệm vụ theo
Chương trình công tác trọng tâm năm 2009 với
các nội dung: 1) triển khai thực hiện tốt Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật, góp phần đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng công tác xây dựng, thẩm định,
kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); chuẩn bị
các điều kiện cần thiết để triển khai công tác theo dõi chung về thi hành pháp
luật; 2) tiếp tục tổ chức thực hiện Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg của Thủ tướng
Chính phủ; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện tốt Luật Thi
hành án dân sự, Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật Thi hành án dân sự
nhằm tạo chuyển biến mạnh trong công tác THADS; 3) nâng cao chất lượng hoạt
động chứng thực, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp; 4) tăng cường năng lực của các cơ quan bổ trợ tư pháp, tiếp tục đẩy mạnh
xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp; 5) Tiếp tục lộ trình cải cách tư
pháp, cải cách hành chính; 6) kiện toàn tổ chức, cán bộ của Ngành, xây dựng đội
ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh; tạo chuyển biến thực sự về chất lượng
đào tạo cán bộ pháp luật, nhất là đào tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp;
thành lập Trường Trung cấp luật; 7) tiếp tục đổi mới phương thức chỉ đạo điều
hành; đẩy mạnh việc phân cấp trong một số lĩnh vực hoạt động, hướng mạnh về cơ
sở.
Qua 6 tháng thực hiện nhiệm vụ, nhiều mặt công tác đã
có chuyển biến tích cực, đạt được những kết quả cụ thể, góp phần tích cực hình
thành và từng bước khẳng định "thương
hiệu" của ngành Tư pháp trong đời sống xã hội, nhất là trong các lĩnh vực quản
lý nhà nước về xây dựng pháp luật, thẩm định, kiểm tra VBQPPL, trợ giúp pháp lý,
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Bên cạnh đó, việc triển khai
một số mặt công tác gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, kết quả chưa cao như thi
hành án dân sự, quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành chính tư pháp, bổ trợ tư
pháp... Trong khuôn khổ của việc sơ kết công tác tư pháp 6 tháng đầu năm 2009,
Báo cáo này tập trung đánh giá sâu kết quả thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm,
chỉ rõ những khó khăn, bất cập và phân tích nguyên nhân, tìm giải pháp khắc
phục để hoàn thành tốt kế hoạch công tác 6 tháng cuối năm.
I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
CHƯƠNG TRÌNH TRỌNG TÂM CÔNG TÁC TƯ PHÁP 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2009
1. Quản lý nhà nước về
xây dựng và thi hành pháp luật
Kết quả đạt được:
- Tích cực tham mưu, giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về xây dựng pháp
luật; phân công cơ quan chủ trì soạn thảo dự án luật,
pháp lệnh của Chính phủ năm 2009[2]. Năm
đầu tiên thực hiện nhiệm vụ tổ chức, đôn đốc, theo dõi tình hình thực
hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Chính phủ, Bộ đã hoàn thành và
trình Chính phủ Báo cáo số 128/BC-BTP về tình hình soạn thảo và
trình các dự án luật, pháp lệnh của Chính phủ đến hết tháng 6/2009; phối
hợp với Văn phòng Chính phủ tổng hợp, xây dựng Báo
cáo số 114/BC-CP về kiểm điểm công tác xây dựng và trình các dự án luật, pháp lệnh,
trình Chính phủ (thảo luận tại phiên họp thường kỳ tháng 5/2009), qua đó đánh
giá đúng thực trạng, đề xuất giải pháp khắc phục hạn chế, yếu kém để nâng cao
chất lượng, đảm bảo tiến độ công tác xây dựng và trình các dự án luật, pháp lệnh
trong thời gian tới.
- Công tác xây dựng Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội có chuyển biến tích cực; Bộ đã kịp thời,
chủ động phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan để xây dựng, hoàn thành, trình Quốc
hội thông qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2010 tại kỳ
họp thứ 5, Quốc hội khóa XII.
- Tham mưu cho Chính phủ kịp thời
hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008[3]; có kế hoạch triển khai thực
hiện Chỉ thị số 636/CT-TTg ngày 20/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về triển khai
thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các biện pháp thi hành
luật; chủ động phối hợp với các Bộ, ngành tổ chức tập
huấn về công tác xây dựng và đánh giá tác động của văn bản quy phạm pháp luật. Việc
triển khai Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật bước đầu đạt kết quả tốt.
- Chú
trọng phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương nghiên cứu, tổng kết thực tiễn
trong công tác xây dựng đề án, văn bản[4]; một
số dự án Luật do Bộ chủ trì soạn thảo (Luật Lý lịch tư pháp, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLHS, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước) đã được
Quốc hội thông qua; đưa
những nội dung cơ bản của dự án Luật đăng ký bất động sản vào Luật sửa đổi, bổ
sung một số luật về đầu tư, xây dựng, được Quốc hội chấp thuận; trình
Chính phủ cho ý kiến dự án Luật Nuôi con nuôi, Luật Tiếp cận thông tin; xây
dựng trình Chính
phủ ban hành nhiều Nghị định, Quyết định, Chỉ thị liên quan đến các mặt hoạt động
của Ngành.
- Một số Sở
Tư pháp đã tích cực, chủ động trong việc tham mưu, giúp UBND thực hiện nhiệm vụ
quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật trong một số lĩnh vực ở địa
phương, qua đó góp phần tăng thêm uy tín của Sở Tư pháp với chính quyền địa
phương (Đồng Tháp)[5].
- Chất lượng thẩm định đề án, văn
bản có chuyển biến tích cực; việc thẩm định các điều ước quốc tế nhìn chung đảm
bảo đúng tiến độ theo yêu cầu của Luật Ban hành VBQPPL và Luật Ký kết, gia nhập
và thực hiện điều ước quốc tế; ý kiến thẩm định, góp ý của tổ chức pháp chế, cơ
quan Tư pháp địa phương được nhiều Bộ, ngành, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân đánh giá cao; nhiều tổ chức pháp chế, cơ
quan Tư pháp địa phương thực sự trở thành bộ phận tham mưu, chỗ dựa đáng tin
cậy cho các Bộ, ngành, HĐND, UBND trong việc xây dựng chính sách, pháp luật.
- Tích cực kiểm tra và kịp thời kiến
nghị xử lý các văn bản có dấu hiệu trái pháp luật[6]; thí điểm tổng rà soát VBQPPL
tại một số Bộ, ngành và địa phương (Tp. Hồ Chí Minh, Nghệ An, Bộ Tài nguyên
& Môi trường).
- Xây dựng Đề
án triển khai nhiệm vụ theo dõi chung về thi hành pháp luật.
Hạn chế, bất cập:
- Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
năm 2009 chưa toàn diện, tính thực tiễn chưa cao, chưa có ưu tiên hợp lý trong
việc giải quyết những vấn đề bức thiết của đời sống xã hội. Nội dung Chương
trình chủ yếu được lập trên cơ sở đề xuất của các Bộ, ngành, chưa thể hiện rõ
chính kiến của Bộ Tư pháp dưới góc độ là cơ quan quản lý nhà nước về công tác
xây dựng pháp luật, dẫn đến nhiều đề án, văn bản phải điều chỉnh, xin rút, ảnh
hưởng đến chương trình hoạt động của Quốc hội.
- Tỷ lệ hoàn
thành đề án, văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ và liên tịch ban hành đạt
thấp hơn so với cùng kỳ năm 2008[7]; chất lượng một số đề án,
văn bản chưa cao, sau khi trình Lãnh đạo Bộ phải chỉnh sửa nhiều lần.
- Chưa tạo được bước đột
phá thực sự về chất lượng thẩm định VBQPPL; tiến độ hoàn thành thẩm định VBQPPL
đạt thấp hơn so với cùng kỳ năm 2008[8]; chưa ban hành được Thông
tư của Bộ về quy chế thẩm định dự án, dự thảo VBQPPL.
- Việc tiến hành kiểm tra VBQPPL
theo địa bàn, theo chuyên đề còn chưa tích cực, hiệu quả.
- Việc triển
khai nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi hành pháp luật còn chậm, nhìn chung mới
chỉ dừng lại ở những nét "chấm phá" ban đầu.
- Công tác quản lý nhà nước về xây
dựng pháp luật ở địa phương nhìn chung còn yếu; một số địa phương chưa kịp thời
xây dựng, ban hành Chương trình xây dựng VBQPPL năm 2009, chương trình và nội
dung cụ thể về công tác kiểm tra, rà soát VBQPPL; nhiều địa phương chưa thực
hiện nghiêm túc việc xử lý VBQPPL ban hành trái pháp luật đã được cơ quan có
thẩm quyền cấp trên thông báo; tình trạng cơ quan có thẩm quyền của địa phương
ban hành văn bản nhưng chưa có ý kiến thẩm định vẫn còn; tính phản biện xã hội
trong xây dựng văn bản, chất lượng thẩm định, góp ý chưa cao.
- Nhiều Sở Tư pháp chưa làm tốt vai
trò tham mưu cho chính quyền địa phương trong việc kiện toàn tổ chức và nâng
cao năng lực hoạt động của pháp chế Sở, ngành.
Nguyên nhân của hạn chế,
bất cập:
- Việc đăng ký xây dựng một số văn
bản, đề án chưa sát nhu cầu thực tiễn và khả năng thực hiện của đơn vị.
- Một số đơn vị chủ trì soạn thảo
văn bản, đề án chưa chủ động, tích cực triển khai nhiệm vụ (tham mưu thành lập Ban soạn thảo, Tổ
biên tập chậm; tình trạng chờ đôn đốc mới triển khai nhiệm vụ vẫn còn); điều tra,
khảo sát thực tiễn chưa thực sự thấu đáo; phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ,
cũng như với các Bộ, ngành hữu quan chưa thật chặt chẽ; chưa khai thác hết tiềm
năng trí tuệ hiện có trong Bộ; một số dự án đặt ra nhiều vấn đề mới, phức tạp cả
về lý luận và thực tiễn; trình độ, năng lực của một số thành viên các Tổ biên tập
còn hạn chế, nhất là về kiến thức thực tiễn.
- Một số cơ quan chủ trì soạn thảo
gửi hồ sơ thẩm định VBQPPL còn sai sót về thủ tục, thiếu các tài liệu trong hồ
sơ theo quy định, nhất là các cơ quan được giao chủ trì soạn thảo văn bản ở địa
phương; nhiều địa phương chưa có cơ chế để cán bộ làm công tác thẩm định được
tham gia quá trình soạn thảo văn bản ngay từ ban đầu.
- Theo dõi chung về thi hành pháp
luật là một nhiệm vụ mới của Bộ Tư pháp, có nội dung rất rộng, mới chỉ được quy
định ở mức chung nhất tại Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 của Chính
phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp nên cần
có thời gian để xác định rõ nội dung, phạm vi và cách thức triển khai nhiệm vụ.
- Một số Bộ, ngành, địa phương chưa
coi trọng đúng mức công tác kiểm tra và xử lý VBQPPL: chưa thường xuyên gửi văn
bản đến cơ quan kiểm tra; chưa kịp thời xem xét, xử lý theo quy định sau khi
nhận được thông báo của cơ quan kiểm tra về văn bản có dấu hiệu trái pháp luật.
- Việc chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ
công tác văn bản của một số Sở Tư pháp đối với tư pháp cấp huyện, cấp xã còn
chưa kịp thời.
- Kinh phí xây dựng, thẩm định VBQPPL
còn hạn hẹp.
2. Tiếp tục tổ chức thực
hiện Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ; chuẩn bị các điều kiện
cần thiết để triển khai thực hiện tốt Luật Thi hành án dân sự, Nghị quyết của
Quốc hội về thi hành Luật Thi hành án dân sự nhằm tạo chuyển biến mạnh trong
công tác THADS
Kết quả đạt được:
- Kết quả thi hành án 6 tháng đầu
năm 2009: tổng số việc thụ lý là 472.989 việc, bao gồm 169.745 việc thụ lý mới,
303.244 việc chuyển sang từ năm trước; đã uỷ thác 7.080 việc; số việc phải thi
hành là 465.909 việc. Số việc có điều kiện thi hành là 279.455 việc, chiếm 60%
tổng số việc phải thi hành. Các cơ quan Thi hành án dân sự đã thi hành xong
hoàn toàn 128.450 việc/279.455 việc, đạt 46% (tăng 12.448 việc và 4,94% về tỷ
lệ so với cùng kỳ năm 2008). Một số đơn vị đạt tỷ lệ khá, cụ thể: về việc,
Hoà Bình (thi hành xong hoàn toàn/có điều kiện thi hành đạt 73,6%), Lai Châu
(72,8%), Bắc Kạn (71,3%), Tuyên Quang (67,1%), Hà Giang (64,8%); và về tiền,
như ở Hoà Bình (thực thu/có điều kiện thi hành đạt 57,9%), Thừa Thiên Huế
(52%).
- Phân bổ chỉ tiêu thực hiện nhiệm
vụ thi hành án dân sự năm 2009 cho Thi hành án dân sự từng địa phương[9]; nhiều địa phương tổ chức các
đợt cao điểm THADS (Bắc Giang, Lạng Sơn, Yên Bái, Ninh Bình, Gia Lai, Kon Tum,
Sóc Trăng, Đồng Tháp...).
Tổng số tiền và giá trị phải thu là
20.716 tỷ 606 triệu 053 nghìn đồng (tăng 892 tỷ 158 triệu 141 nghìn đồng so với
cùng kỳ năm 2008), trong đó số có điều kiện thi hành là 7.116 tỷ 746 triệu 778
nghìn đồng, chiếm 34,4%. Số tiền thực thu là 1.890 tỷ 022 triệu 895 nghìn đồng, đạt
26,6% số tiền có điều kiện thi hành (giảm 513 tỷ 578 triệu 834 nghìn đồng và
2,01% về tỷ lệ so với cùng kỳ năm 2008).
- Kịp thời
ban hành và triển khai Kế hoạch thực hiện Luật Thi hành án dân sự và Nghị quyết
của Quốc hội về thi hành Luật này; xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
Thi hành án dân sự[10];
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án thực hiện thí điểm Thừa phát lại tại
thành phố Hồ Chí Minh và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực
hiện Đề án; hướng dẫn cơ quan Thi hành án dân sự địa phương áp dụng Luật Thi
hành án dân sự trong thời gian chờ các Nghị định hướng dẫn thi hành[11].
- Tích cực đôn đốc, chỉ đạo thực
hiện việc tổng rà soát các việc thi hành án thu cho ngân sách nhà nước có giá
trị không quá 500.000 đồng mà thời gian tổ chức thi hành án đã quá 05 năm, tính
đến thời điểm Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực nhưng người phải thi hành án
không có điều kiện thi hành án để phối hợp với Viện kiểm sát cùng cấp lập danh
sách đề nghị Toà án cấp huyện nơi cơ quan Thi hành án dân sự có trụ sở ra quyết
định miễn thi hành đối với khoản nghĩa vụ đó trước ngày 10/7/2009. Theo báo cáo
của Cục Thi hành án dân sự, tính đến ngày 08/7/2009 đã có 37/63 địa phương hoàn
thành và báo cáo về việc rà soát, theo đó có 15.706 việc thuộc diện miễn thi
hành án theo Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật Thi hành án dân sự, với
số tiền 2.603.023 đồng.
- Tổ chức
tổng kết việc thực hiện uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp cho Giám đốc Sở Tư
pháp trong việc quản lý một số mặt công tác tổ chức cán bộ thi hành án dân sự,
bàn giao hồ sơ, tài liệu về cán bộ thi hành án sang Trưởng Thi hành án dân sự
cấp tỉnh, chuẩn bị cho cơ quan Thi hành án dân sự tổ chức lễ ra mắt, tiếp nhận
nhiệm vụ mới theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.
- Rà soát,
đánh giá đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chấp hành viên của cơ quan Thi hành án dân sự
địa phương để bổ nhiệm lại, bổ nhiệm mới, miễn nhiệm phù hợp với tiêu chuẩn
theo quy định của Luật Thi hành án dân sự .
- Tiếp tục
tăng cường chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật hành chính trong công tác thi hành án,
xử lý nghiêm các trường hợp cán bộ, công chức thi hành án có hành vi vi phạm
trong thi hành án.
Hạn chế, bất cập:
- Kết quả thi hành án thấp, số việc thi hành xong hoàn toàn đạt 46% với số
tiền thực thu đạt 26,6% trong số có điều kiện thi hành. Nhiều địa phương đạt kết
quả thi hành án rất thấp, cụ thể: về việc, Vĩnh Long (thi hành xong hoàn
toàn/có điều kiện thi hành đạt 28,2%), Long An (24,9%), Bình Phước (28%); về
tiền: Vĩnh Phúc (7,2%), Quảng Nam (8,2%), Vĩnh Long (12,3%), Bình Thuận
(12,1%), Đắk Nông (12%).
- Tình trạng chậm trả lời văn bản xin hướng dẫn, chỉ
đạo nghiệp vụ của địa phương vẫn còn; chưa chủ động, kịp thời ban hành đầy đủ
văn bản hướng dẫn mang tính hệ thống, chỉ đạo chung
để giải quyết những vướng mắc, khó khăn về thi hành án. Bên cạnh đó,
nhiều cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh còn ỷ lại, chưa phát huy một cách
tích cực vai trò của một đơn vị chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ hoạt động thi hành
án đối với cơ quan Thi hành án dân sự cấp huyện.
- Chưa kiện toàn kịp thời thủ
trưởng cơ quan Thi hành án dân sự ở một số địa phương[12]; việc giải quyết một số vụ việc
liên quan đến cán bộ, công chức của ngành Thi hành án còn chậm (các vụ việc ở
Quảng Ninh và Quảng Nam).
Nguyên nhân của hạn chế,
bất cập:
- Ở một số địa phương, ảnh hưởng
của suy giảm kinh tế làm cho giá thị trường của tài sản phải thi hành án là đất
sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản trong nhiều trường hợp thấp hơn giá
sàn theo quy định, dẫn đến việc định giá tài sản để thi hành án gặp khó khăn.
- Chấp hành viên chưa
tích cực, kiên quyết áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong quá trình tổ chức
thi hành án, còn có biểu hiện né tránh, ngại va chạm, thậm chí có sai phạm,
tiêu cực trong quá trình thi hành án; Thủ trưởng một số cơ quan Thi hành án dân
sự chưa thực sự làm tốt trách nhiệm quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các
Chấp hành viên, cán bộ thi hành án trong đơn vị hoặc cơ quan thi hành án cấp
dưới; một số vụ việc giải quyết chưa dứt điểm do các cơ quan hữu quan, chính
quyền địa phương không thống nhất ý kiến với cơ quan Thi hành án về quan điểm,
biện pháp thi hành án, phương thức xử lý tài sản, vận dụng chính sách của Đảng,
Nhà nước trong thi hành án.
- Sự phối hợp
giữa cơ quan Thi hành án dân sự với Toà án, Viện kiểm sát trong việc đề nghị
Toà án giải thích, đính chính hoặc xem xét theo trình tự giám đốc thẩm, tái
thẩm đối với các bản án, quyết định có sai sót, không rõ ràng hoặc có vi phạm
chưa chặt chẽ và còn chậm trễ về thời gian. Việc
phối hợp giữa cơ quan Thi hành án với chính quyền cơ sở, đặc biệt là các tổ
chức chính trị, chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng trong quá trình tổ
chức thi hành án còn chưa tốt.
- Ý thức chấp hành pháp luật của
nhiều đương sự nhất là người phải thi hành án chưa cao, nhiều trường hợp người
phải thi hành án cố tình chây ỳ, tẩu tán tài sản để trốn tránh, khiếu nại nhằm
mục đích kéo dài việc thi hành án. Công tác vận động, thuyết phục đương sự tự
nguyện thi hành án chưa được quan tâm đúng mức.
- Việc giải quyết khiếu nại về thi
hành án gặp khó khăn do nhiều trường hợp đương sự khiếu nại vượt cấp, kéo dài;
có nơi cơ quan Thi hành án dân sự chậm giải quyết hoặc giải quyết chưa chính
xác, không dứt điểm tại nơi phát sinh khiếu nại, vì vậy số lượng đơn thư kéo
dài, vượt cấp còn nhiều. Kỹ năng công tác dân vận và đối thoại với dân vẫn chưa
được các cơ quan Thi hành án dân sự áp dụng triệt để trong quá trình giải quyết
khiếu nại.
- Công tác quy hoạch đối với cán
bộ lãnh đạo của các cơ quan Thi hành án dân sự chưa được thực hiện thường xuyên
và khoa học; đội ngũ lãnh đạo cơ quan Thi hành án nghỉ chế độ hoặc bị xử lý kỷ
luật nhưng thủ tục bổ nhiệm mới các chức danh này phải đảm bảo theo một trình
tự pháp luật quy định nên cần có thời gian.
- Chưa có quy định cụ thể thời gian
trả lời văn bản xin ý kiến chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của các cơ quan Thi
hành án dân sự cấp dưới.
3. Hoạt động chứng thực,
hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp
Kết quả đạt được:
- Trong 6 tháng đầu năm 2009, tổng số
việc chứng thực là 34.828.534; tổng số phí chứng thực thu được là 34.800.136.980
đồng; số cặp đăng ký kết hôn là 337.935; số trường hợp khai sinh là 756.097,
khai tử là 182.867; số cải chính hộ tịch là 32.273; số Phiếu lý lịch tư pháp đã
cấp là 46.393; giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch cho 46 trường hợp,
trở lại quốc tịch Việt Nam cho 19 trường hợp, thôi quốc tịch Việt Nam cho 3.200
trường hợp, trả lời 361 trường hợp tra cứu quốc tịch cho Sở Tư pháp để cấp Giấy
chứng nhận có quốc tịch Việt Nam và 34 trường hợp xác minh quốc tịch cho Cục
Lãnh sự - Bộ Ngoại giao.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế trong
lĩnh vực hành chính tư pháp: xây dựng Kế hoạch triển khai Luật Lý lịch tư pháp;
trình Chính phủ Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch Việt Nam; đang hoàn
thiện Đề án in, phát hành biểu mẫu hộ tịch; tích cực xây dựng dự thảo Luật Nuôi
con nuôi; chuẩn bị các thủ tục pháp lý để ký và phê chuẩn Công ước Lahay về
nuôi con nuôi; hoàn thiện Đề án Tăng cường quản lý các Văn phòng con nuôi nước
ngoài tại Việt Nam; chủ động triển khai các hoạt động nhằm tiếp tục đề xuất hoàn
thiện thể chế trong lĩnh vực hành chính tư pháp (triển khai đề tài khoa học cấp
Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật Hộ tịch”; chuẩn bị tổ chức sơ kết
hai năm thực hiện Nghị định 79/2007/NĐ-CP); triển khai xây dựng Đề án thành lập
Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia...
- Kịp thời ban hành và triển khai Kế
hoạch thực hiện Luật Quốc tịch Việt Nam; Kế hoạch giải quyết nhập quốc tịch cho
người Campuchia lánh nạn tại 03 tỉnh, thành phố (thành phố Hồ Chí Minh, Bình
Dương, Bình Phước); Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 31 của Thủ tướng Chính phủ về
việc giải quyết tình trạng di cư tự do, vượt biên trái phép và kết hôn không
giá thú ở khu vực biên giới Việt Nam - Lào.
- Việc cấp bản sao từ sổ gốc, chứng
thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký tại các địa phương dần đi vào nề
nếp; nhiều địa phương thực hiện tốt việc niêm yết công khai quy trình, thủ tục
giải quyết từng loại việc, mức thu lệ phí, lịch làm việc, nhờ đó giảm bớt thời
gian và chi phí đi lại cho người dân; chủ động đẩy mạnh việc kiểm tra, rà soát,
hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ, tổ chức Hội nghị tập huấn Thông tư số
03/2008/TT-BTP để nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác chứng thực; tuyên
truyền, phổ biến Nghị định số 79/2009/NĐ-CP và Thông tư số 03/2008/TT-BTP đến
đông đảo các tổ chức và người dân; một số địa phương đã tích cực tiến hành kiểm
tra công tác chứng thực (Hà Nội).
- Hầu hết các địa phương đã ban hành
Quyết định quy định mức thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp bản sao, lệ phí
chứng thực đảm bảo phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội tại địa phương.
- Khắc phục được một bước tình trạng
thiếu biểu mẫu hộ tịch; thực hiện việc rà soát nhằm đơn giản hoá các thủ tục
hành chính trong lĩnh vực hộ tịch; nghiệm thu và đưa vào ứng dụng thí điểm phần mềm quản lý hộ tịch, quốc tịch. Phần
lớn các địa phương thực hiện cơ chế một cửa trong lĩnh vực hộ tịch và áp dụng
hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001-2000. Công tác quản lý nhà nước trong lĩnh
vực kết hôn với người nước ngoài ở nhiều địa phương có chuyển biến tích cực
(Cần Thơ, Bạc Liêu, Đồng Tháp).
- Nhiều cơ quan Tư pháp
địa phương đã chủ động phối hợp với cơ quan công an trong việc tiếp nhận, xác
minh, giải quyết hồ sơ xin cấp phiếu lý lịch tư pháp cho nhân dân để đẩy nhanh
tiến độ trả kết quả, xây dựng và đưa vào áp dụng các biểu mẫu về kết quả xác
minh; xây dựng Quy chế phối hợp giữa hai cơ quan trong hoạt động cấp phiếu lý
lịch tư pháp, mang lại nhiều kết quả đáng khích lệ (thành phố Hồ Chí Minh, Cần
Thơ, Lâm
Đồng...).
- Giải quyết về căn bản những vấn đề
tồn đọng về hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi với Hoa Kỳ; đang tích cực giải
quyết tồn đọng trong hợp tác về nuôi con nuôi với Thụy Điển, Ai-Len; tăng cường
kiểm tra hoạt động của Văn phòng con nuôi nước ngoài, trong đó đặc biệt tập
trung vào hoạt động hỗ trợ nhân đạo, hiệu quả triển khai thực hiện dự án nhân
đạo; tăng cường công tác khảo sát, kiểm tra tình hình giải quyết đăng ký việc
nuôi con nuôi tại các địa phương và cơ sở; tiến hành tổng rà soát và nắm tình
hình giải quyết việc cho nhận nuôi con nuôi trong nước và cho trẻ em làm con
nuôi người nước ngoài ở tất cả các địa phương trong thời gian qua nhằm xác định
những khó khăn, vướng mắc, bất cập để đề xuất giải pháp khắc phục và thực hiện
tốt hơn hoạt động này trong thời gian tới.
Hạn chế, bất cập:
- Hoạt động chứng thực ở
một số địa phương còn lúng túng, chất lượng chưa cao (Cà Mau, Hải Phòng, Tiền
Giang); cấp phiếu lý lịch tư pháp không đúng thời hạn (Gia Lai); có nơi cấp bản
sao chưa đúng quy định, thậm chí tuỳ tiện (Ninh Bình).
- Việc giải quyết hồ sơ
xin nhập, xin thôi, trở lại quốc tịch Việt Nam còn chậm; tình trạng chậm cung
cấp biểu mẫu hộ tịch cho cơ sở vẫn còn.
-
Nhiều địa phương thực hiện việc phỏng vấn trong đăng ký kết hôn có yếu tố nước
ngoài còn mang tính hình thức, kết quả phỏng vấn còn đặt ra những nghi vấn.
- Quản lý nhà nước trong
lĩnh vực con nuôi, nhất là nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn bất cập, yếu
kém.
- Việc thực hiện thanh
tra, kiểm tra trong lĩnh vực hộ tịch chưa được đẩy mạnh, nhiều sai phạm chưa
được xử lý, chấn chỉnh kịp thời (Cà Mau).
Nguyên nhân của hạn chế,
bất cập:
- Khối lượng công việc về
hộ tịch và chứng thực lớn, tình trạng quá tải công việc của cán bộ làm công tác
tư pháp - hộ tịch vẫn còn ở nhiều địa phương.
- Thể chế về nuôi con nuôi
còn nhiều kẽ hở, nhất là quy định liên quan đến nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài (như vấn đề xác minh nguồn gốc trẻ bị
bỏ rơi, quy định về các loại bệnh hiểm nghèo với trẻ sống tại gia đình cho làm
con nuôi người nước ngoài); một số quy định về
phỏng vấn đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài chưa rõ ràng, cụ thể; trình độ
của cán bộ làm công tác phỏng vấn còn hạn chế.
- Cơ sở vật chất, trang
thiết bị phục vụ cho công tác chứng thực, hộ tịch chưa đáp ứng được nhu cầu
công việc; một số UBND cấp xã chưa thật sự quan tâm đến hoạt động chứng thực;
công tác thu chi, quản lý lệ phí chứng thực của nhiều xã, phường, thị trấn chưa
được thực hiện thống nhất theo quy định của pháp luật.
- Đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là tư
pháp cấp xã còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
- Việc hiểu và áp dụng các quy định về điều kiện kết hôn,
nhất là kết hôn với người nước ngoài có sự khác nhau ở nhiều địa phương (Hậu
Giang, Tây Ninh, Cà Mau), trong khi công tác chỉ đạo, hướng dẫn, giải
đáp về chuyên môn, nghiệp vụ còn chưa tích cực, kịp thời.
4.
Tăng cường năng lực của các cơ quan bổ trợ tư pháp, tiếp tục xã hội hóa hoạt
động bổ trợ tư pháp
Kết
quả đạt được:
- Trình Ban Bí thư ban
hành Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 30/3/2009 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với tổ chức và hoạt động của luật sư; Phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên
quan tổ chức thành công Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất, bầu ra
Liên Đoàn Luật sư toàn quốc. Đây là sự kiện quan trọng, đánh dấu bước phát
triển mới, có nhiều hứa hẹn tích cực về tương lai của nghề luật sư ở nước ta,
phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam XHCN, cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định về chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp (Quyết định
số 74/2009/QĐ-TTg) để tháo gỡ căn bản chế độ, chính sách đối với giám định viên
tư pháp; đang lấy ý kiến các đơn vị có liên quan về dự thảo Kế hoạch tổ chức
Hội nghị tổng kết 4 năm thi hành Pháp lệnh giám định tư pháp.
- Hoạt động bán đấu giá
tài sản dần đi vào nền nếp; nhiều địa phương
đã chuyển việc đấu giá quyền sử dụng đất cho các Trung tâm dịch vụ bán đấu giá
tài sản của Sở Tư pháp. Trong 6 tháng đầu năm 2009, số cuộc bán đấu giá thành
khoảng 1.750, số phí bán đấu giá tài sản thu được khoảng 10 tỷ đồng.
- Tích cực hướng
dẫn các địa phương tháo gỡ khó khăn trong áp dụng Luật Công chứng; chỉ đạo quyết
liệt việc chuyển giao thẩm quyền chứng nhận các giao dịch hợp đồng về quyền sử
dụng đất của hộ gia đình, cá nhân từ Ủy ban nhân dân cấp xã sang tổ chức hành
nghề công chứng (tính đến nay đã có 24/63 địa phương thực hiện việc chuyển giao); tổng số việc công chứng là: 353.859; số thu nộp
ngân sách là: 156.524.956.800 đồng. Một số địa phương quán triệt và triển khai
thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng (Bà Rịa-Vũng Tàu, Đà
Nẵng); sự ”tiếp nhận” xã hội hóa hoạt động công chứng trong xã hội có nhiều dấu
hiệu tích cực.
Hạn chế, bất cập:
- Việc xây dựng nhiều đề
án, văn bản trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp chưa đảm bảo tiến độ theo kế hoạch;
chậm hướng dẫn Nghị định số 77/2008/NĐ-CP
ngày 16/7/2008 của Chính phủ về tư vấn pháp luật.
- Chất lượng hoạt động
luật sư còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp và hội nhập
kinh tế quốc tế; 01 địa phương chưa có tổ chức Đoàn luật sư
(Lai Châu); tình trạng không có luật sư tham gia vụ án hình sự bắt buộc phải có
luật sư vẫn còn; một số trường hợp luật sư có biểu hiện chưa đúng đắn về lập
trường chính trị, tư tưởng, thậm chí vi phạm pháp luật; công tác quản lý, kiểm
tra hoạt động của luật sư, nhất là đối với luật sư nước ngoài còn chưa hiệu
quả, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan (cơ quan Công an, Tòa án,
Viện Kiểm sát).
- Chưa tạo được chuyển
biến rõ rệt trong công tác giám định tư pháp; đội ngũ giám định viên tư pháp
còn thiếu về số lượng và hạn chế về trình độ chuyên môn; một số kết quả giám
định về một vụ việc còn thiếu thống nhất giữa các cơ quan giám định; việc triển
khai chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp, thu hút các cơ quan, tổ
chức chuyên môn, các chuyên gia giỏi trong và ngoài khu vực nhà nước tham gia
vào hoạt động giám định còn nhiều hạn chế.
- Một số Trung tâm bán
đấu giá tài sản chưa thực hiện nghiêm chỉnh thủ tục bán đấu giá tài sản, dẫn
đến khiếu kiện của đương sự; quản lý nhà nước đối với bán đấu giá tài sản còn
nhiều bất cập, cơ quan tư pháp chưa thực hiện được việc tham mưu cho chính
quyền địa phương thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về bán đấu giá, nhất là
bán đấu giá tài sản công, quyền sử dụng đất.
- Việc xã hội hóa hoạt
động công chứng mới được triển khai chưa thống nhất, đồng bộ ở các địa phương;
có địa phương phát triển "nóng" các Văn phòng công chứng một cách bất
hợp lý (Hà Nội); việc chuyển giao thẩm quyền chứng
nhận các giao dịch, hợp đồng về nhà, đất từ Ủy ban nhân dân cấp xã sang tổ chức
hành nghề công chứng chưa đúng theo hướng dẫn của Bộ (Quảng Nam); một số
nơi có dấu hiện cạnh tranh không làm mạnh, vi phạm pháp luật trong hoạt động
công chứng; sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa Phòng công chứng và Văn phòng
công chứng chưa hiệu quả; nhiều địa phương chưa có quy hoạch tổ chức hành nghề
công chứng, chưa có giải pháp hữu hiệu để quản lý hoạt động của các Văn phòng
công chứng.
Công tác quản lý nhà
nước, tổ chức thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp của Sở
Tư pháp nhiều địa phương còn yếu, nhất là công tác hướng dẫn, giải đáp về
nghiệp vụ cho cơ sở.
Nguyên nhân của hạn chế, bất cập:
- Chưa có chiến lược
tổng thể về phát triển các tổ chức bổ trợ tư pháp.
- Thiếu cán bộ quản lý
có kinh nghiệm và trình độ phù hợp, nhất là trong quản lý nhà nước về bán đấu
giá tài sản, hoạt động của các Văn phòng công chứng.
- Một số địa phương chưa
làm tốt việc đánh giá, dự báo tình hình phát triển kinh tế - xã hội để có bước
đi thích hợp trong xã hội hóa hoạt động công chứng; mặt khác nhận thức chưa đầy
đủ, sâu sắc về chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, về vai trò, ý nghĩa
to lớn của hoạt động công chứng trong việc đảm bảo môi trường pháp lý an toàn,
lành mạnh, nhất là đối với các giao dịch, hợp đồng của người dân, doanh nghiệp.
- Chế độ đãi ngộ đối
với hoạt động giám định tư pháp còn bất cập; năng lực đội ngũ giám định viên
nhìn chung còn yếu; thể chế về giám định tư pháp chưa hoàn thiện.
- Một số Bộ, ngành hữu
quan chưa tích cực phối hợp trong việc xây dựng các văn bản, đề án trong lĩnh
vực bổ trợ tư pháp.
5. Tiếp tục lộ trình cải
cách tư pháp, cải cách hành chính
Kết quả đạt được:
- Ban hành và triển khai thực hiện Chương
trình công tác trọng tâm công tác tư pháp năm 2009 - 2010 của Bộ Tư pháp (Quyết
định số 824/QĐ-BTP ngày 20/4/2009) thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW và Chương
trình trọng tâm năm 2009 - 2010 của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương;
xây dựng, trình Chính phủ phê duyệt và đang tích cực triển khai thực hiện Đề án
thí điểm thừa phát lại tại thành phố Hồ Chí Minh; triển khai xây dựng Đề án về
việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để giao Bộ Tư pháp thống nhất quản lý nhà
nước về thi hành án.
- Luật Trách
nhiệm bồi thường của nhà nước, Luật Lý lịch tư pháp, Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật Hình sự được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 5
chứa đựng nhiều nội dung mới tiến bộ, phù hợp với tinh thần của cải cách tư
pháp (bỏ hình phạt tử hình đối với 8 tội danh).
- Hoàn thành giai đoạn 1 Đề án đơn
giản hóa thủ tục hành chính giai đoạn 2007 - 2010; Tổ công tác Đề án 30 của Bộ
đã phối hợp với các đơn vị liên quan tích cực rà soát các thủ tục hành chính
thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp có liên quan đến người dân và
doanh nghiệp (ủy thác tư pháp; cấp ý kiến pháp lý cho các Bộ, ngành; đào tạo
các chức danh tư pháp; thực thi nhiệm vụ theo dõi chung về xây dựng và thi hành
pháp luật trong phạm vi cả nước...); chỉnh sửa, bổ sung, hoàn chỉnh các biểu
mẫu thủ tục hành chính và cơ sở dữ liệu trong phần mềm Máy xén theo hướng dẫn
của Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính
phủ.
- Nhiều Sở Tư pháp đã công khai các
biểu mẫu và hướng dẫn thủ tục hành chính trên các cổng thông tin điện tử của
địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và tổ chức.
- Bộ tiếp tục xây dựng, sửa đổi, bổ
sung và áp dụng các quy trình giải quyết công việc theo tiêu chuẩn ISO
9001:2000.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động của Bộ, Ngành: ban hành Chỉ thị của Bộ trưởng về tăng
cường ứng dụng công nghệ thông tin.
Hạn chế, bất cập:
- Việc thống kê, rà soát thủ tục
hành chính tuy cơ bản đảm bảo đúng tiến độ, nhưng chất lượng chưa cao (còn lúng
túng về phương pháp và xác định tiêu chí phân loại thủ tục); thủ tục được rà
soát chưa bao quát hết các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ.
- Chưa tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa rà soát, thống kê thủ tục hành
chính với xây dựng các đề án, văn bản có liên quan.
Nguyên nhân của hạn chế,
bất cập:
- Khối lượng công việc liên quan đến
cải cách hành chính, nhất là thống kê, rà soát thủ tục hành chính nhiều, trong
khi lực lượng cán bộ chuyên trách làm công tác này còn mỏng; một số đơn vị chưa
kịp thời phối hợp chặt chẽ với Tổ công tác Đề án 30 trong việc thống kê, rà
soát các thủ tục hành chính.
- Việc bổ sung,
hoàn chỉnh dữ liệu thống kê thủ tục hành chính là công việc thường xuyên, gắn
với công tác xây dựng pháp luật của Bộ Tư pháp, tuy nhiên các thành viên chuyên
trách về cải cách hành chính chưa có điều kiện thuận lợi để tham gia vào quá
trình xây dựng, soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Bộ chủ trì xây
dựng.
6. Kiện toàn tổ chức,
cán bộ; tạo chuyển biến về chất lượng đào tạo cán bộ pháp luật
Kết
quả đạt được:
- Ban hành Quy chế làm việc
của Bộ; các quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của các đơn vị thuộc Bộ bảo đảm sự phù hợp với Nghị định số 93/2008/NĐ-CP[13].
- Kiện toàn một bước về mặt
tổ chức, đội ngũ cán bộ cấp vụ; sắp xếp, điều chuyển về chức năng, nhiệm vụ của
các đơn vị thuộc Bộ phù hợp với Nghị định số 93/2008/NĐ-CP; hoàn thành việc xây
dựng và điều chỉnh quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Bộ.
-
Phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV
hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và công
tác tư pháp của Ủy ban nhân dân cấp xã; Công văn số 60-CV/BCS gửi Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Thành uỷ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc đề nghị
quan tâm kiện toàn, củng cố cơ quan tư pháp địa phương.
- Các cơ quan tư
pháp địa phương đã chủ động hơn trong công tác cán bộ; một số địa phương đã hoàn thành
việc xây dựng đề án kiện toàn tổ chức và hoạt động của Sở Tư pháp; một số Sở Tư
pháp làm tốt công tác tham mưu cho chính
quyền địa phương trong việc tăng biên chế cho đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã và
cấp huyện.
- Hoàn thành và
trình Đề án xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm đào tạo
cán bộ pháp luật, Đề án xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo
các chức danh tư pháp; Đề án thành lập một số trường trung cấp luật; tích cực
triển khai Đề án thành lập trường Trung cấp luật ở Đắk Lắk.
- Tiếp tục thực
hiện các đề tài, nhiệm vụ khoa học được giao, bám sát nhiệm vụ của Bộ, ngành,
nhất là nhiệm vụ xây dựng đề án, văn bản; tổ chức thành công nhiều hội thảo,
tọa đàm khoa học liên quan đến Chiến lược phát triển ngành Tư pháp.
Hạn
chế, bất cập:
- Cơ cấu nhân sự của một
số đơn vị thuộc Bộ chưa hợp lý; việc xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ, công
chức còn chậm; chưa triển khai thực hiện việc điều động, luân chuyển cán bộ,
nhất là việc luân chuyển từ Trung ương về địa phương để nâng cao hiểu biết thực
tế.
- Đội ngũ cán
bộ tư pháp cơ sở một số nơi còn mỏng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ bất cập so với yêu
cầu công việc; tình trạng cấp xã
không có cán bộ tư pháp chuyên trách vẫn còn.
- Ý thức chấp hành kỷ cương hành
chính, kỷ luật lao động, trách nhiệm đối với công việc trong một bộ phận cán
bộ, công chức, viên chức chưa cao; một số cán bộ chưa chuyên tâm với công việc,
ý thức công vụ thấp, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân, thậm chí vi phạm pháp
luật, gây dư luận xấu và làm giảm lòng tin trong xã hội.
- Công tác tổ chức, cán bộ của các
cơ quan Tư pháp, tổ chức pháp chế sở, ngành ở địa phương còn nhiều bất cập;
việc bố trí, sắp xếp cán bộ nhiều nơi, nhất là cấp xã còn chưa hợp lý, thậm chí
còn mang tính "phong trào", chạy theo số lượng.
Nguyên nhân của hạn chế,
bất cập:
- Nguồn tuyển
dụng cán bộ vào các cơ quan Tư pháp còn thiếu, nhất là các vùng đồng bào dân tộc,
miền núi, vùng sâu, vùng xa.
- Nhiều địa phương
chưa quan tâm việc tăng biên chế cho ngành Tư pháp, nhất là tư pháp cấp huyện
và cấp xã (vẫn còn tình trạng bố trí cán bộ tư pháp cấp xã kiêm các chức danh
khác); một số Sở Tư pháp chưa thực sự chủ động, tinh thần trách nhiệm chưa cao
trong việc tham mưu, đề xuất với chính quyền địa phương về việc kiện toàn tổ
chức cán bộ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ đặt ra.
- Sự phối hợp
giữa Cục THADS, Vụ Tổ chức cán bộ và các đơn vị có liên quan trong công tác cán
bộ của hệ thống cơ quan THADS chưa thật chặt chẽ.
7. Đổi mới phương thức chỉ
đạo điều hành; đẩy mạnh việc phân cấp trong một số lĩnh vực hoạt động, hướng
mạnh về cơ sở
Kết quả đạt được:
- Hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều
hành tiếp tục được cải tiến, sâu sát, quyết liệt; vừa bám sát kế hoạch, vừa mềm
dẻo, linh hoạt trong từng việc cụ thể; việc phân công, phối hợp công tác, thông
tin hai chiều trong tập thể Lãnh đạo Bộ hợp lý và phát huy hiệu quả; lịch làm
việc của Lãnh đạo Bộ được xây dựng cụ thể theo tuần, tháng, quý, tạo cơ sở cho
các đơn vị xây dựng kế hoạch công tác của mình;
- Các cuộc họp giao ban Lãnh đạo Bộ,
Thủ trưởng các đơn vị, cán bộ cấp Vụ được duy trì đều đặn, chuẩn bị kỹ về nội
dung, tài liệu nên đảm bảo chất lượng, thực chất; sau mỗi cuộc họp đều có kết
luận cụ thể để chỉ đạo các lĩnh vực hoạt động, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện
các kết luận của Lãnh đạo Bộ, nhờ đó, hoạt động chỉ đạo, điều hành đạt hiệu quả
cao hơn, góp phần tích cực hơn vào việc hoàn thành nhiệm vụ của Bộ, Ngành; Văn
phòng Bộ có nhiều cố gắng thực hiện vai trò tham mưu, tổng hợp phục vụ chỉ đạo
điều hành của Lãnh đạo Bộ.
- Tập thể Lãnh đạo Bộ chỉ đạo sát
sao, quyết liệt việc triển khai công tác theo kế hoạch của các đơn vị, nhất là
công tác xây dựng đề án, văn bản và công tác giải quyết các vụ việc khiếu nại
tồn đọng, kéo dài; nhờ đó nhiều việc tồn đọng được giải quyết, bảo đảm tiến độ,
chất lượng.
- Việc theo dõi và chỉ đạo giải
quyết kịp thời những vấn đề các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin có liên
quan đến các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ được Lãnh đạo Bộ quan tâm thực
hiện; Lãnh đạo Bộ chú trọng việc đi cơ sở, nhất là về các địa phương có nhiều
khó khăn trong triển khai công tác tư pháp để nắm tình hình, chỉ đạo, kịp thời
tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc liên quan đến tổ chức và hoạt động của Ngành[14];
- Chế độ báo
cáo công tác được thực hiện cơ bản tốt; nội dung báo cáo đã chú trọng đi sâu
phân tích, nhận định đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ, đề xuất được nhiều
giải pháp xác đáng.
- Thực hiện việc phân cấp mạnh cho
các đơn vị, các cá nhân nhằm xác định cụ thể nhiệm vụ, nâng cao tinh thần trách
nhiệm.
- Công tác phối hợp giữa ngành Tư
pháp với các ngành hữu quan tiếp tục được tăng cường, mở rộng và phát huy hiệu
quả[15].
- Việc ứng dụng công
nghệ thông tin phục vụ hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành có chuyển biến
tích cực.
Hạn
chế, bất cập
- Việc xây dựng chương trình, kế
hoạch công tác của một số đơn vị còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm,
chưa bám sát yêu cầu nhiệm vụ của Ngành, địa phương để tập trung giải quyết
ngay các bức xúc mà thực tiễn đang đặt ra; công tác thống kê còn nhiều bất cập,
chưa bài bản và thống nhất trong toàn Ngành.
- Việc
hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ của một số đơn vị chức năng thuộc Bộ
nhiều khi chưa kịp thời; một số chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ chưa được kịp thời triển
khai rộng khắp xuống tận cơ sở; vai trò chỉ đạo, hướng dẫn của Sở Tư pháp đối
với cấp huyện và cấp xã nhìn chung còn hạn chế.
- Một số cơ quan Tư pháp địa phương
còn chưa thực sự chủ động trong việc giải quyết các công việc thuộc chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình; tình trạng trông chờ, ỷ lại vào sự hướng dẫn cụ
thể của Trung ương, của cấp trên vẫn còn.
Đánh giá chung
Trong 6 tháng đầu năm 2009, nhìn
chung ngành Tư pháp đã triển khai nhiệm vụ công tác có trọng tâm, trọng điểm;
một số mặt công tác có chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn so với năm
2008: tạo được bước chuyển quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về xây
dựng pháp luật, nhất là xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương, góp
phần tích cực từng bước hình thành chu trình quản lý,
điều hành thông suốt, nhanh nhạy, hiệu quả của Chính phủ; tháo gỡ được
một bước về thể chế trong một số lĩnh vực quản lý của Ngành (thi hành án, quốc
tịch, lý lịch tư pháp, bồi thường nhà nước); tham mưu kịp thời về việc tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác luật sư; tạo được chuyển biến bước
đầu, có nhiều hứa hẹn về tương lai phát triển của nghề luật sư ở nước ta; xã
hội hóa hoạt động công chứng đạt được những kết quả cụ thể; khắc phục dần những
bất cập trong lĩnh vực con nuôi, kết hôn có yếu tố nước ngoài; hoạt động giám
định tư pháp, bán đấu giá tài sản có sự khởi sắc; công tác cải cách hành chính,
cải cách tư pháp trong những lĩnh vực quản lý nhà nước của Ngành có những tiến
bộ đáng kể; công tác tổ chức, bộ máy, cán bộ của Ngành tiếp tục được củng cố,
kiện toàn mạnh mẽ; công tác chỉ đạo, điều hành từ Bộ đến địa phương tiếp tục
được đổi mới, tập trung cao cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành. Những
kết quả này đã góp phần tích cực vào quá trình hoàn thiện pháp luật, nâng cao ý
thức chấp hành, thực thi pháp luật của bộ máy nhà nước và nhân dân, từng bước
khẳng định được vị trí, vai trò của Ngành trong đời sống xã hội.
Có được những thành công nêu trên
trước hết là nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, chỉ đạo kịp thời
của Thủ tướng Chính phủ; việc xây dựng và chỉ đạo, đôn đốc thực hiện kế hoạch
công tác của Bộ và các cơ quan Tư pháp địa phương được thực hiện bài bản, khoa
học, xác định đúng công việc trọng tâm, trọng điểm và có giải pháp thực hiện
phù hợp; ưu tiên hợp lý trong việc thực hiện nhiệm vụ cấp bách. Lãnh đạo Bộ và
Lãnh đạo nhiều cơ quan, đơn vị "đeo bám" công việc với quyết tâm,
tinh thần trách nhiệm cao, hướng mạnh các hoạt động về cơ sở; sớm phát hiện
những vướng mắc, bất cập trong các mặt hoạt động, có biện pháp chỉ đạo xử lý
kịp thời. Công tác phối hợp được tăng cường; chủ động thiết lập, thường xuyên
duy trì, sử dụng hiệu quả quan hệ phối hợp công tác trong và ngoài Ngành. Công tác tổ chức, cán bộ được đặc biệt coi trọng,
nhất là việc kiện toàn người đứng đầu đủ năng lực, trình độ, gương mẫu về phẩm
chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm và hoàn thành công tác.
Bên cạnh đó, một số nhiệm vụ trọng
tâm triển khai còn khó khăn, vướng mắc, kết quả đạt được chưa cao (Phụ lục
I): nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi
hành pháp luật chưa triển khai được; quản lý nhà nước về xây dựng pháp luật còn
lúng túng; việc thẩm định, kiểm tra VBQPPL trong nhiều trường hợp còn mang tính
hình thức, nặng về tư duy pháp lý thuần túy, máy móc, chưa bám sát và phản ánh
đúng nhu cầu thực tế; kết quả thi hành án đạt thấp so với kế hoạch đề ra; thể
chế của Ngành, nhất là về hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp còn nhiều bất
cập; công tác quản lý nhà nước về hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp chưa chủ
động, kịp thời, nhất là trong xây dựng, ban hành chiến lược, quy hoạch, hướng
dẫn nghiệp vụ cho địa phương, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm, dẫn đến
tình trạng "chạy" theo vụ việc, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao.
Công tác hành chính tư pháp và bổ trợ tư pháp ở địa phương chưa thể hiện rõ nét
vai trò của ngành Tư pháp. Các Sở Tư pháp nhìn chung mới dừng lại ở việc thực
hiện những nhiệm vụ theo thẩm quyền được phân cấp, chưa bám sát để có chỉ đạo,
hướng dẫn kịp thời công tác tư pháp của cấp huyện và cấp xã; việc thanh tra,
kiểm tra chưa thường xuyên, chưa kịp thời phát hiện vi phạm để có biện pháp
chấn chỉnh, khắc phục; chưa chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa
phương trong kiện toàn tổ chức, củng cố, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ tương
xứng với yêu cầu nhiệm vụ. Vị trí, tiếng nói của ngành Tư pháp ở nhiều địa
phương còn "mờ nhạt", chưa tạo được dấu ấn, sự tin tưởng cao của Lãnh
đạo chính quyền cũng như trong nhận thức của người dân.
Nguyên nhân chính của những hạn chế,
bất cập nêu trên là: năm 2009, ngành Tư pháp phải triển khai nhiều nhiệm vụ
mới, phức tạp; nhận thức về trách nhiệm của Bộ, Ngành trong việc giúp Chính
phủ, UBND các cấp thực hiện việc quản lý nhà nước về công tác tư pháp chưa cao;
hoạt động tư pháp còn mải theo sự vụ chứ
chưa đạt tầm khái quát cần thiết, chưa thể hiện đầy đủ các nội dung của hoạt
động quản lý nhà nước; sự phối kết hợp với các Ngành đang còn lúng túng; một
số cơ quan, đơn vị chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng kế hoạch công tác cụ
thể (quý, tháng, tuần) sát với Chương trình công tác trọng tâm của Ngành; chưa chủ
động, sát sao, quyết liệt trong triển khai nhiệm vụ trọng tâm để tạo chuyển
biến đột phá; quan hệ phối hợp công tác, tuy đã được cải thiện, nhưng vẫn chưa
đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ, nhất là ở địa phương; đội ngũ cán bộ nhiều nơi còn
mỏng, năng lực hạn chế.
II. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM VÀ
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TRONG 6 THÁNG CUỐI NĂM 2009
Năm 2009 tiếp tục là năm "bản
lề", chuẩn bị một bước cho việc xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 2011-2020; bổ sung, phát triển Cương lĩnh của Đảng; xây dựng Chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII; sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp năm 1992; hoàn thiện và trình Quy hoạch phát triển của ngành Tư pháp đến
năm 2020. Trong 06 tháng cuối năm 2009, ngành Tư pháp phải tập trung thực hiện
nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong khi khối lượng công việc theo kế hoạch ban
hành từ đầu năm còn rất nặng nề, trong đó có những nhiệm vụ mới như: quản lý
nhà nước về thi hành pháp luật; triển khai thi hành các luật mới (Luật Thi hành
án dân sự, Luật Quốc tịch Việt Nam, Luật Lý lịch tư pháp, Luật Trách nhiệm bồi
thường của nhà nước; tiếp tục củng cố, kiện toàn bộ máy, cán bộ, nhất là cán bộ
tư pháp cấp huyện và cấp xã...). Triển khai tốt những nhiệm vụ này là tiền đề để
ngành Tư pháp tạo bước đột phá về chất lượng công tác trong những năm tới, ngày
càng khẳng định vị thế, vai trò của Ngành trong sự nghiệp xây dựng nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Để hoàn thành kế hoạch công tác năm
2009, các cơ quan, đơn vị trong Ngành cần đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất
lượng thực hiện nhiệm vụ được phân công theo Kế hoạch thực hiện Chương trình
công tác trọng tâm của ngành Tư pháp năm 2009[16],
trong đó tập trung cao độ cho các nhiệm vụ và giải pháp theo thứ tự ưu tiên sau:
Thứ nhất, triển khai thực hiện
tốt Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và công tác tư pháp của Ủy ban
nhân dân cấp xã.
Các cơ quan tư pháp địa phương tích
cực tham mưu cho Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân thực hiện tốt các đề nghị của Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp về quan tâm kiện
toàn, củng cố cơ quan tư pháp địa phương (Công văn số 60-CV/BCS ngày 10/06/2009), trong đó
đặc biệt chú trọng việc thành lập đoàn kiểm tra liên ngành của tỉnh để đánh giá
toàn diện thực trạng việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ
chức, số lượng, chất lượng và việc bố trí, sắp xếp cán bộ của Sở Tư pháp, tổ
chức pháp chế của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh; xây dựng và tổ chức
thực hiện Đề án kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức,
biên chế của Sở Tư pháp, tổ chức pháp chế, Phòng Tư pháp và Tư pháp cấp xã.
Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy các
đơn vị thuộc Bộ nhất là đội ngũ cán bộ xây dựng, thẩm định VBQPPL; xây dựng và
ban hành quy chế làm việc của các đơn vị, trong đó có sự phân công, phân cấp khoa
học giữa lãnh đạo và cán bộ, chuyên viên trong triển khai công việc; đổi mới và
thực hiện quyết liệt quy trình tuyển dụng, luân chuyển, điều động cán bộ; thực
hiện việc chuyển đổi vị trí công tác theo Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày
27/10/2007 của Chính phủ quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định
kỳ chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức.
Thứ hai, triển khai thi hành tốt
Luật Thi hành án dân sự; tập hợp các vướng mắc của địa phương để hướng dẫn,
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng Luật Thi hành án dân sự;
kịp thời hướng dẫn địa phương triển khai thực hiện Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành về cơ cấu tổ chức, cán bộ của cơ quan Thi hành án dân sự sau khi được
Chính phủ ban hành.
Giải quyết một bước căn bản số việc
thi hành án dân sự tồn đọng, hạn chế làm phát sinh việc tồn đọng mới, giảm ít
nhất 10% đến 15% số việc thi hành án dân sự tồn đọng; phấn đấu thi hành xong
hoàn toàn đạt 75% về việc và 55% về tiền trong số việc có điều kiện thi hành;
hoàn thành rà soát, đề nghị miễn thi hành các khoản thu cho ngân sách Nhà nước
có giá trị không quá 500.000 đồng mà thời gian tổ chức thi hành án đã quá 05
năm tính đến ngày 01/7/2009 nhưng không có điều kiện thi hành; thực hiện đồng
bộ các giải pháp, thực sự tạo chuyển biến cơ bản trên địa bàn Hà Nội, nâng cao
hiệu quả thi hành án trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Kiện toàn tổ
chức bộ máy của Cục THADS sau khi Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành về cơ cấu tổ chức, cán bộ của cơ quan Thi hành án dân sự được ban hành;
Thi hành án dân sự cấp tỉnh chủ động phối hợp với Sở Tư pháp tiến hành lựa
chọn, đề xuất phương án nhân sự lãnh đạo cơ quan Thi hành án dân sự địa phương,
đảm bảo đủ tiêu chuẩn, xứng tầm của lãnh đạo cơ quan trung ương đóng tại địa
phương; tiếp tục tiến hành rà soát, đánh giá đội ngũ Chấp hành viên để bổ nhiệm
vào các ngạch Chấp hành viên tương ứng.
Hoàn thành việc tổng kết và chuyển giao quản lý một số mặt công tác tổ
chức, cán bộ của cơ quan Thi hành án dân sự từ Giám đốc Sở Tư pháp sang cho
Trưởng Thi hành án dân sự; triển khai thực hiện tốt các công việc theo hướng
dẫn của Bộ tại Công văn số 2315/BTP-THA ngày 17/7/2009.
Tăng cường đoàn kết nội bộ, trách
nhiệm nghề nghiệp của cán bộ thi hành án, nhất là đội ngũ chấp hành viên; kiểm
tra, giám sát thực hiện các kết luận thanh tra đã có hiệu lực pháp luật trong
công tác thi hành án dân sự.
Thứ ba, triển khai tốt Kế hoạch
thực hiện Chỉ thị số 636/CT-TTg ngày 20/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc
triển khai thực hiện Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2008; chuẩn bị các điều
kiện để sơ kết hai năm triển khai thực hiện Luật ban hành VBQPPL 2008 vào năm
2010; nghiên cứu, đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung, kể cả hợp nhất Luật Ban hành
văn bản QPPL 2008 và Luật Ban hành VBQPPL của HĐND và UBND; Ban hành Thông tư
về Quy chế thẩm định VBQPPL của Bộ Tư pháp.
Tổ chức tốt việc tổng kết 5 năm thực
hiện Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,
tham mưu, kiến nghị việc sửa đổi, bổ sung Chiến lược; tích cực, chủ động chuẩn
bị Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII.
Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước
về xây dựng pháp luật, góp phần tích cực vào hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều
hành của Chính phủ phục vụ mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, phòng ngừa lạm
phát, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an sinh
xã hội.
Hoàn thành
và công bố Bộ thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc trách
nhiệm của Bộ Tư pháp. Các đơn vị thuộc Bộ phối hợp tốt với Tổ công tác thực
hiện Đề án 30 của Bộ tiến hành rà soát đầy đủ, chính xác các thủ tục hành chính
đã được thống kê; công bố thủ tục hành chính trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ
để mọi người dân biết, thực hiện và tham gia ý kiến. Tổ chức nghiên cứu các thủ
tục hành chính đã thống kê để đề xuất đơn giản hóa; đề xuất sửa đổi, bổ sung
VBQPPL chứa đựng thủ tục hành chính đã được công bố; gắn kết chặt chẽ giữa rà soát, thống kê thủ tục hành chính với xây dựng
các đề án, văn bản có liên quan.
Chuẩn bị kế hoạch thực hiện Đề án
triển khai nhiệm vụ theo dõi chung về thi hành pháp luật sau khi được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt; ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ theo dõi
chung về thi hành pháp luật; nghiên cứu, đề xuất xây dựng Nghị định về theo dõi
thi hành pháp luật.
Ban hành và tổ chức thực hiện tốt các
Kế hoạch thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của nhà nước, Luật Lý lịch tư
pháp, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự; triển khai thực
hiện tốt Nghị định thay thế Nghị định số 76/2006/NĐ-CP quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp sau khi được Chính phủ ban hành. Tiếp
tục hoàn thiện và trình Luật Nuôi con nuôi, Luật Tiếp cận thông tin; triển khai
xây dựng Luật Thủ đô, Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật và Pháp
lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật.
Cơ quan Tư pháp địa phương chủ động,
tích cực tham mưu cho chính quyền địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà
nước về xây dựng pháp luật, triển khai nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi hành
pháp luật; tham gia kịp thời vào quá trình xây dựng văn bản pháp luật của HĐND,
UBND các cấp để tham mưu các nội dung lớn của văn bản; sớm phát hiện và đề xuất
cơ quan soạn thảo loại bỏ những mâu thuẫn, chồng chéo, những thủ tục hành chính
rườm rà ngay trong dự thảo các văn bản QPPL; chú trọng đánh giá tính khả thi,
tác động của văn bản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là việc
thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương.
Thứ tư, tăng cường hiệu quả quản
lý nhà nước trong lĩnh vực hành chính tư pháp; tiếp tục triển khai thực hiện
tốt các Kế hoạch triển khai thực hiện Luật Quốc tịch Việt Nam; Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 31 của Thủ tướng
Chính phủ về việc giải quyết tình trạng di cư tự do, vượt biên trái phép và kết
hôn không giá thú ở khu vực biên giới Việt Nam - Lào; hoàn thiện hồ sơ xin nhập
quốc tịch Việt Nam đối với người Campuchia lánh nạn tại Việt Nam để trình Chủ
tịch nước xem xét, quyết định.
Triển khai thực hiện Kế hoạch thực
hiện Luật Lý lịch tư pháp, tập trung vào việc tuyên truyền, phổ biến Luật, xây
dựng chương trình bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác
lý lịch tư pháp; tiếp tục hoàn thiện Đề án thành lập Trung tâm lý lịch tư pháp
quốc gia; chuẩn bị xây dựng Luật Hộ tịch, nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật
Chứng thực.
Tăng cường công tác hướng dẫn nghiệp
vụ, trả lời kiến nghị, thắc mắc của địa phương trong công tác hành chính tư
pháp; hoàn thành và trình Đề án in, phát hành biểu mẫu hộ tịch.
Cơ quan Tư pháp địa phương
tích cực tham mưu với UBND các cấp trong việc điều chỉnh thẩm quyền chứng thực
đối với các xã, phường, thị trấn không đủ điều kiện về biên chế, năng lực cán
bộ, cơ sở vật chất để giao thẩm quyền này cho Phòng Tư pháp quận, huyện thực
hiện; tiếp
tục thực hiện việc rà soát, đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong lĩnh vực
hộ tịch, chứng thực; xây dựng, ban hành Quy chế phối hợp các ngành hữu quan trong
giải quyết các vướng mắc giữa giấy tờ hộ tịch và các giấy tờ khác của công dân.
Tăng cường kiểm tra, thanh tra công
tác hành chính tư pháp ở địa phương, nhất là việc in, phát hành, sử dụng biểu
mẫu hộ tịch, thực hiện các thủ tục hành chính liên quan đến người dân ở cấp
huyện và cấp xã.
Thứ năm, tăng cường hiệu quả quản
lý nhà nước trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, nhất là trong các hoạt động luật sư,
công chứng và bán đấu giá tài sản.
Hoàn thành và trình Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt các Đề án về chiến lược phát triển nghề luật sư, Đề án quy hoạch
tổng thể phát triển nghề công chứng đến năm 2020, Đề án về đổi mới và nâng cao
hiệu quả công tác giám định tư pháp; kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo việc xây dựng
và triển khai thực hiện Đề án quy hoạch phát triển nghề công chứng ở địa
phương, đảm bảo dự báo chính xác tình hình phát triển kinh tế xã hội của địa
phương để có định hướng lâu dài trong phát triển nghề công chứng; ban hành
Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định số
77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 của Chính phủ về tư vấn pháp luật; khẩn
trương hoàn thành và trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP
về bán đấu giá tài sản, triển khai thực hiện tốt Nghị định này sau khi được
Chính phủ ban hành; tổ chức tổng kết 4 năm thi hành Pháp lệnh Giám định tư pháp,
Hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện Luật Công chứng và Nghị định 79/2007/NĐ-CP;
phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam xây dựng Luật Trọng tài thương mại; nghiên
cứu, chuẩn bị cho việc đề xuất xây dựng Luật Giám định tư pháp, Luật Đấu giá
tài sản, sửa đổi Luật Công chứng, Luật Luật sư.
Cơ quan Tư pháp chủ động, tích cực tham
mưu cho chính quyền địa phương thực hiện tốt các việc sau:
- Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa hoạt
động công chứng; chuyển giao thẩm quyền chứng thực các hợp đồng, giao dịch liên
quan đến quyền sử dụng đất, bất động sản từ UBND sang cho các tổ chức hành nghề
công chứng ở các địa phương phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa bàn; chú
trọng tuyên truyền về vai trò của hoạt động công chứng trong việc đảm bảo an
toàn pháp lý cho các giao dịch, hợp đồng, nhất là các giao dịch, hợp đồng liên
quan đến bất động sản; tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của Văn phòng công
chứng, kịp thời phát hiện xử lý vi phạm; có kế hoạch cụ thể để đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ cho công chứng viên.
- Củng cố, kiện toàn tổ chức Đảng
trong tổ chức luật sư; tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề
nghiệp, theo dõi, phát hiện và kịp thời chấn chỉnh các biểu hiện lệch lạc, tiêu
cực trong hoạt động luật sư; hỗ trợ về tổ chức và hoạt động của các Đoàn luật
sư; xây dựng và ban hành Chiến lược phát triển đội ngũ luật sư trên địa bàn,
gửi Bộ để tập hợp làm căn cứ xây dựng Chiến lược chung về phát triển nghề luật
sư của cả nước.
- Triển khai thực hiện Quyết định số
74/2009/QĐ-TTg ngày 07/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ bồi dưỡng giám
định tư pháp.
- Thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà
nước về đấu giá tài sản, nhất là về bán đấu giá quyền sử dụng đất và tài sản
công; xây dựng Đề án về việc triển khai thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về
bán đấu giá tài sản, đảm bảo quản lý thống nhất mọi hoạt động bán đấu giá tài
sản tại địa phương; thực hiện tốt việc bán đấu giá tài sản là tang vật vi phạm
hành chính theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi).
Thứ sáu, thực
hiện các nhiệm vụ của Ngành trong Chương trình trọng tâm của Ban Chỉ đạo cải
cách tư pháp Trung ương năm 2009 (theo Kế hoạch ban hành kèm theo Quyết định
824/QĐ-BTP ngày 20/4/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp); chuẩn bị tốt cho buổi
làm việc của Đồng chí Chủ tịch nước, Trưởng Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp (CCTP)
Trung ương với Bộ Tư pháp về công tác tư pháp và cải cách tư pháp (dự
kiến trong tháng 8/2009); báo cáo Thường trực Ban Chỉ đạo CCTP Trung ương về
các Đề án xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm đào tạo
cán bộ pháp luật, Đề án Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo
các chức danh tư pháp, tình hình triển khai thực tế Đề án thí điểm Thừa phát
lại tại Tp. Hồ Chí Minh; hoàn thành và trình các
Đề án về việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để giao cho Bộ Tư pháp giúp
Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi hành án, Đề án đảm
bảo trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các cơ quan, đơn vị thuộc ngành Tư
pháp giai đoạn 2011-2015, Đề án quy hoạch trụ sở làm việc và kho vật chứng của
cơ quan Thi hành án dân sự được tổ chức theo khu vực.
Thứ bảy, tiếp tục chú trọng đổi mới phương
thức quản lý, chỉ đạo, điều hành; các cơ quan, đơn vị xây dựng kế hoạch công
tác (quý, tháng, tuần) một cách khoa học, cụ thể, xác định ưu tiên hợp lý trong
triển khai các nhiệm vụ trọng tâm; đổi mới căn bản và thực hiện thống nhất công
tác thống kê trong toàn Ngành. Lãnh đạo cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu
chủ động, sát sao, phát huy tinh thần trách nhiệm trong quản lý, chỉ đạo, điều
hành triển khai nhiệm vụ; giảm bớt hội họp, tăng cường đi cơ sở để nắm tình
hình và kịp thời chỉ đạo giải quyết những khó khăn, vướng mắc cho địa phương.
Tăng cường thực hiện các Quy chế làm
việc của Bộ, Quy chế văn hóa công sở. Văn phòng Bộ đẩy mạnh việc kiểm tra,
hướng dẫn, đôn đốc, giám sát việc thực hiện các Quy chế này.
Xây dựng và triển khai Kế hoạch thực
hiện Chỉ thị của Bộ trưởng về tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động của Ngành, nhất là trong hoạt động chỉ đạo, điều hành; rà soát, công
bố và thống nhất áp dụng danh mục văn bản quản lý, điều hành chỉ sử dụng hình
thức văn bản điện tử; tăng cường việc tổ chức họp, giao ban bằng hình thức điện
tử đa phương tiện (trực tuyến); tiếp tục cải tiến và ứng dụng hiệu quả phần mềm
quản lý văn bản, hồ sơ công việc, cơ sở dữ liệu pháp luật; xây dựng và triển
khai ứng dụng các phần mềm phục vụ quản lý nhà nước về quốc tịch, hộ tịch, lý
lịch tư pháp, luật sư.
Nơi nhận:
- Ban
Bí thư ;
- Thủ tướng Chính phủ; (để báo cáo)
- Phó TTg Trương Vĩnh Trọng; (để báo cáo)
- Văn phòng Trung ương Đảng; (để báo cáo)
- Văn Phòng Chính phủ;
- Bộ trưởng;
- Các Thứ trưởng;
- Các đơn vị thuộc Bộ;
- STP các tỉnh, TP trực thuộc TW;
- THADS các tỉnh, TP trực thuộc TW;
- Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng;
- Lưu: VT, TH.
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG THƯỜNG TRỰC
Hoàng Thế Liên
|