BỘ
TƯ PHÁP
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
---------
|
Số:
04/BC-BTP
|
Hà
Nội, ngày 09 tháng 01 năm 2009
|
BÁO CÁO
TỔNG KẾT CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2008 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
CÔNG TÁC NĂM 2009
(Báo
cáo tại Hội nghị triển khai công tác tư pháp toàn quốc năm 2009)
Năm 2008 là năm Chính phủ quyết tâm
phấn đấu đạt một số chỉ tiêu cơ bản của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05
năm (2006 - 2010), đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển trước năm
2010. Năm 2008 cũng là năm tình hình kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động trực tiếp đến
tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước, các hoạt động sản xuất, kinh doanh và
xuất khẩu bị giảm sút, lạm phát tăng cao, đời sống nhân dân gặp nhiều khó
khăn. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, chúng ta
đã giành được nhiều thành tựu quan trọng. Việc kiềm chế lạm phát và ổn định kinh
tế vĩ mô đạt được kết quả bước đầu quan trọng; nền kinh tế duy trì được mức
tăng trưởng khá (khoảng 6,23%); an sinh xã hội được quan tâm đẩy mạnh và triển
khai thực hiện có hiệu quả. Các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá,
thông tin và bảo vệ môi trường được chú trọng. Cải cách hành chính, phòng chống
tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí có những chuyển biến tích cực. Hoạt
động đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Chính
trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự, an toàn xã hội
được bảo đảm.
Cùng với sự nỗ lực chung của cả nước,
Ngành Tư pháp tiếp tục vượt qua khó khăn, đẩy mạnh thực hiện các Nghị quyết của
Đảng về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, Chiến
lược cải cách tư pháp, triển khai đồng bộ các mặt công tác, tập trung hoàn
thành nhiệm vụ theo Chương trình công tác trọng tâm của Ngành năm 2008, cụ thể
là: đẩy mạnh công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn
bản quy phạm pháp luật; tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm thực sự
tạo chuyển biến cơ bản trong công tác thi hành án dân sự; tiếp tục lộ trình cải
cách hành chính, cải cách tư pháp; thu hút nhân tài, nâng cao chất lượng đào
tạo luật, đào tạo nghề, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực; kiện toàn bộ máy của
cơ quan tư pháp các cấp, nhất là tư pháp cấp xã; tăng cường kỷ cương, kỷ luật,
đổi mới lề lối làm việc, thông tin hai chiều; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin; tăng cường vai trò của báo chí, cổng thông tin điện tử; xây dựng, áp dụng
hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9000-2000 vào hoạt động của Bộ và
Ngành; phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, cấp ủy, chính quyền địa phương để
thực hiện hiệu quả công tác tư pháp.
Bước sang năm 2009, toàn Ngành cần
nghiêm túc đánh giá một cách toàn diện, chính xác, khách quan công tác tư pháp
năm 2008, nhất là việc thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm, qua đó khẳng định những
kết quả đã đạt được, ghi nhận và nhân rộng những cách làm mới, hiệu quả; làm rõ
những khó khăn, hạn chế, yếu kém; xác định cụ thể nguyên nhân, rút ra bài học,
đồng thời đưa ra các giải pháp khắc phục nhằm thực hiện thành công Kế hoạch
công tác của Ngành, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Chính phủ về
giải pháp thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2009.
Phần thứ
nhất:
KẾT QUẢ CÔNG TÁC TƯ PHÁP
NĂM 2008
1. Công tác
xây dựng văn bản, đề án; thẩm định, kiểm tra, rà soát và hệ thống hóa văn bản quy
phạm pháp luật
a) Công tác xây
dựng văn bản, đề án
Năm 2008, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ
soạn thảo 42 văn bản, đề án trình Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung
ương, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (trong đó có 07 dự án luật); 63 văn bản,
đề án thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ Tư pháp hoặc liên tịch ban hành. Bên
cạnh đó, các đơn vị thuộc Bộ, các cơ quan Tư pháp địa phương, các Tổ chức pháp
chế Bộ, ngành còn phải thực hiện một số lượng lớn các công việc liên quan đến
việc xây dựng văn bản, đề án.
Bộ đã hoàn thành và trình Ban Bí
thư, Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ 34
văn bản, đề án (trong đó có 18 văn bản đã được ban hành), đạt 80,95% so với kế hoạch,
tăng 12,95% so với năm 2007; riêng việc xây dựng và trình các dự án luật đạt
100% kế hoạch (chi tiết xem Phụ lục số 1). Các đơn vị thuộc Bộ đã hoàn thành và
trình 38 văn bản, đề án thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ hoặc liên tịch ban
hành (trong đó có 22 văn bản đã được ban hành), đạt 60,31%, tăng 17,76% so với
năm 2007.
Quy trình xây dựng các VBQPPL không
những tuân thủ quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, mà còn
được đổi mới theo hướng tăng cường tính dân chủ, công khai, minh bạch, nâng cao
tính chuyên nghiệp trong tất cả các khâu từ lập dự kiến chương trình đến soạn
thảo, thẩm định và ban hành. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu kinh nghiệm
nước ngoài, tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong nước và quốc tế, sự phối
hợp với các Bộ, ngành có liên quan và địa phương trong việc xây dựng văn bản,
đề án được chú trọng thực hiện và có nhiều chuyển biến tích cực.
Nội dung các văn bản, đề án đã thể
chế hóa kịp thời đường lối, chính sách, định hướng quan trọng thể hiện trong
các Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ, chỉ đạo của Thủ
tướng Chính phủ; chứa đựng nhiều vấn đề mới, tiến bộ, đặc biệt là tập trung giải
quyết những vấn đề bức xúc nảy sinh trong đầu tư, sản xuất, kinh doanh, góp
phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng
yêu cầu cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, cải cách hành chính và hội nhập
kinh tế quốc tế trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
b) Công tác
thẩm định, góp ý văn bản, đề án
Tính đến hết ngày 30/9/2008, Bộ đã
tiến hành thẩm định xong 352 văn bản, đề án, 107 điều ước quốc tế (tăng 25 điều
ước so với năm 2007); tham gia góp ý 984 văn bản các loại do các Bộ, ngành gửi
đến (tăng 372 văn bản so với năm 2007); cấp ý kiến pháp lý cho 69 khoản vay nước
ngoài (tăng 42 ý kiến so với năm 2007). Theo thống kê chưa đầy đủ, trong năm
2008, các cơ quan Tư pháp địa phương đã giúp HĐND, UBND các cấp soạn thảo 2.174
văn bản quy phạm pháp luật, thẩm định 30.071 văn bản, góp ý kiến cho 8.422 văn
bản.
Tiến độ thẩm định được bảo đảm, chất
lượng thẩm định từng bước được nâng cao. Nội dung thẩm định đã chú trọng đánh
giá tác động xã hội, sự phù hợp với các cam kết quốc tế, bảo đảm tính khả thi,
góp phần nâng cao chất lượng dự thảo văn bản. Trong quá trình thẩm định các
điều ước quốc tế đã kịp thời phát hiện, đề xuất sửa đổi, bổ sung và ban hành
mới những quy định còn chưa tương thích với các cam kết quốc tế.
Tại nhiều địa phương, Lãnh đạo HĐND,
UBND đánh giá cao công tác thẩm định văn bản, đề án, thể hiện sự tin tưởng qua
việc chỉ ký ban hành khi đã có ý kiến thẩm định của cơ quan Tư pháp. Điều đó
phản ánh sự nỗ lực của toàn Ngành trong việc phấn đấu trở thành "người gác
cổng" tin cậy của chính quyền các cấp trong việc ban hành chính sách, pháp
luật.
Để góp phần nâng cao chất lượng thẩm
định văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Tư pháp địa phương, trong năm
2008, Bộ đã kết hợp với các Sở Tư pháp: thành phố Hồ Chí Minh, Lào Cai, Đà Nẵng,
Hải Phòng tổ chức các hội thảo với sự tham dự của nhiều chuyên gia trong và
ngoài Ngành, đại diện chính quyền các địa phương. Kết quả hội thảo đã giúp cho
các cơ quan Tư pháp nhận thức rõ hơn về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác
thẩm định văn bản cũng như tìm ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả của công
tác này trong thời gian tới.
c) Công tác
kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL
Toàn Ngành đã kiểm tra được 38.083
văn bản, trong đó phát hiện 8.752 văn bản có sai sót; đã kiến nghị xử lý 4.565
văn bản. Riêng Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đã tiến hành kiểm tra
1.968 văn bản theo thẩm quyền (gồm 865 văn bản của cấp Bộ và 1.283 văn bản của
địa phương), bước đầu phát hiện 490 văn bản có sai sót về nội dung và hình thức.
Hoạt động kiểm tra, xử lý văn bản
theo chuyên đề, địa bàn, lĩnh vực và các nguồn thông tin được chú trọng và tích
cực triển khai thực hiện. Việc ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật gây
bức xúc trong dư luận xã hội đã được kịp thời kiến nghị xử lý.
Hoạt động rà soát, hệ thống hóa VBQPPL,
đặc biệt là các VBQPPL ban hành trong các lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ
quản lý nhà nước của Ngành tiếp tục được tăng cường; triển khai thực hiện thí
điểm tổng rà soát tại một số Bộ, ngành và địa phương như: Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Ngân hàng Nhà nước, tỉnh Nghệ An, TP. HCM, chuẩn bị cho việc thực hiện
Đề án tổng rà soát hệ thống pháp luật Việt Nam trong năm 2009.
Trong năm qua, Bộ đã hoàn thành báo
cáo kết quả rà soát, hệ thống hóa văn bản trong một số lĩnh vực theo chỉ đạo
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (các Báo cáo kết quả rà soát văn bản và cơ
chế điều hành về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh
vùng Đồng bằng Sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam;
Báo cáo kết quả rà soát văn bản theo Nghị quyết 27/2007/NQ-CP ngày 30/5/2007
của Chính phủ...). Bộ cũng đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương
tiến hành rà soát pháp luật Việt Nam liên quan đến các cam kết của Việt Nam với WTO. Trên cơ sở các báo cáo rà soát pháp luật của các Bộ, ngành và địa phương, Bộ
đã hoàn thiện và trình Chính phủ Báo cáo Kết quả rà soát pháp luật Việt Nam với
các cam kết WTO.
Công tác đôn đốc thực hiện, kiểm
tra, hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa văn
bản quy phạm pháp luật trong năm qua cũng được quan tâm hơn. Bộ đã chủ trì 4
đoàn công tác liên ngành kiểm tra công tác này ở một số địa phương; tổ chức một
số lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác kiểm tra, rà
soát, hệ thống hóa văn bản ở các bộ, ngành, địa phương.
Bộ đã hoàn thành và trình phê duyệt
Đề án về đổi mới và nâng cao hiệu quả trong công tác rà soát, hệ thống hóa
VBQPPL; Đề án tăng cường năng lực trong công tác kiểm tra, xử lý VBQPPL; Đề án
tổng rà soát hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới
công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL của Ngành trong thời gian tới.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được,
các mặt công tác nêu trên còn một số hạn chế, yếu kém sau đây:
- Tiến độ xây dựng một số văn bản,
đề án còn chậm so với kế hoạch, nhất là các văn bản, đề án thuộc thẩm quyền ban
hành của Bộ hoặc liên tịch ban hành; còn lúng túng trong việc xác định phạm vi
và đối tượng điều chỉnh của một số dự án luật; một số nội dung của dự án luật
chưa được chuẩn bị, giải trình kỹ, do đó, chưa thực sự thuyết phục được các Đại
biểu Quốc hội.
- Hoạt động xây dựng, thẩm định,
kiểm tra văn bản còn rập khuôn, máy móc; chưa thoát khỏi pháp lý thuần tuý, chưa
thực sự “bắt rễ” sâu vào các nhu cầu của đời sống kinh tế - xã hội để điều chỉnh
linh hoạt trong từng giai đoạn, từng hoàn cảnh cụ thể, nhất là khi Chính phủ,
các địa phương phải thực hiện các giải pháp tình thế, cấp bách để kìm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế suy giảm kinh tế.
- Chưa tạo được chuyển biến mạnh
về chất lượng thẩm định VBQPPL; vẫn còn tình trạng thẩm định, góp ý văn bản chậm
so với tiến độ; chất lượng thẩm định một số dự án luật chưa đáp ứng đầy đủ yêu
cầu đặt ra (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Dân sự (phần quy định
về lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố), Luật Ngân hàng Nhà nước (sửa
đổi).
- Sự phối hợp của các đơn vị thuộc
Bộ trong việc tham gia một số Ban soạn thảo, Tổ biên tập văn bản, đề án chưa
thực sự chặt chẽ. Hoạt động xây dựng văn bản, đề án của Bộ và cơ quan Tư pháp
địa phương chưa có sự gắn kết. Cơ quan Tư pháp, cơ quan Thi hành án dân sự địa
phương chưa tích cực tham gia ý kiến vào các văn bản, đề án do Bộ soạn thảo, kể
cả những văn bản điều chỉnh trực tiếp các hoạt động của Ngành dẫn đến hiện
tượng sau khi văn bản được ban hành hoặc trong quá trình triển khai thực hiện
thì mới phát hiện những thiếu sót, bất cập.
- Hoạt động kiểm tra liên ngành về
công tác kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL chưa hoàn thành kế hoạch
đã đặt ra.
- Công tác văn bản ở địa phương chất
lượng không đều; cấp huyện và cấp xã còn nhiều hạn chế, yếu kém. Công tác kiểm
tra, xử lý văn bản của các Sở Tư pháp chưa hiệu quả.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên là
do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Một số dự án luật đặt ra nhiều
vấn đề mới, phức tạp cả về lý luận và thực tiễn, liên quan đến chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của nhiều Bộ, ngành; thủ tục chuyển giao hồ sơ, tài liệu thẩm định
VBQPPL trong nhiều trường hợp còn chưa được thực hiện theo quy định; nhiều địa
phương chưa có cơ chế để cán bộ làm công tác thẩm định văn bản được tham gia
quá trình soạn thảo ngay từ đầu; việc dự báo nhu cầu ban hành VBQPPL còn chưa
sát thực tế.
- Thành viên các Ban soạn thảo văn
bản, đề án không tham dự đầy đủ các cuộc họp Ban soạn thảo thảo dẫn đến tình
trạng thiếu thông tin, không thống nhất được ý kiến về những vấn đề phức tạp;
năng lực của một số thành viên các Tổ biên tập còn hạn chế; kinh phí hỗ trợ xây
dựng pháp luật còn hạn hẹp.
- Đội ngũ cán bộ tham gia xây dựng,
góp ý, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản còn mỏng về số lượng;
kinh nghiệm thực tiễn, kiến thức về các lĩnh vực chuyên môn ngoài chuyên ngành
luật còn hạn chế.
- Một số đơn vị thuộc Bộ chưa chủ
động trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng văn bản, đề án; việc thành lập Ban
soạn thảo, Tổ biên tập còn chậm làm ảnh hưởng đến tiến độ soạn thảo; việc điều
tra, khảo sát thực tiễn chưa thực sự hiệu quả; sự phối hợp giữa các đơn vị thuộc
Bộ, cũng như với các Bộ, ngành có liên quan chưa thật chặt chẽ, chưa khai thác
hết tiềm năng trí tuệ tập thể.
- Một số Bộ, ngành, địa phương chưa
coi trọng đúng mức công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL; việc chỉ
đạo, hướng dẫn nghiệp vụ đối với tư pháp cấp huyện, cấp xã còn chưa kịp thời.
2. Công tác
thi hành án dân sự
Tính từ 01/10/2007 đến 31/8/2008,
tổng số việc phải thi hành trong toàn quốc là 622.610 việc, số việc có điều
kiện thi hành là 407.458 việc (chiếm 65,44%); tổng số tiền phải thu là 22.235
tỷ 226 triệu 503 nghìn đồng, trong đó số có điều kiện thu là 7.815 tỷ 866 triệu
716 nghìn đồng (chiếm 35,15%). Mặc dù số việc phải thi hành tăng 15.950 việc so
với cùng kỳ năm 2007, song nhờ thực hiện đồng bộ các giải pháp, đặc biệt là các
giải pháp mang tính đột phá, nên công tác thi hành án dân sự trong toàn quốc đã
đạt được những kết quả tích cực, cụ thể như sau:
Kết quả thi hành án xong cả về việc
và về tiền cao hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2007, cụ thể là: đã thi hành xong
289.128 việc/407.458 việc có điều kiện thi hành, đạt 70,96%, tăng 34.821 việc =
7,16% so với cùng kỳ năm 2007; đã thu được 3.568 tỷ 897 triệu 278 nghìn đồng,
bằng 45,66% số tiền có điều kiện thu, tăng so với cùng kỳ năm 2007 là 1.153 tỷ
341 triệu 865 nghìn đồng = 16,11 %; giảm 18.872 việc tồn đọng = 9,5% so với
cùng kỳ năm 2007. Một số địa phương đạt tỷ lệ thi hành xong khá cao về việc,
như: Bắc Cạn 94%, Thái Nguyên 88%, Bến Tre 87%, Hà Giang 87%, Hòa Bình 87%,
Tuyên Quang 86%, Lai Châu 86%, Bắc Giang 85%, Thi hành án trong Quân đội 84%,
Phú Thọ 85%, Thừa Thiên - Huế 84%, Hải Phòng 82%, Hậu Giang 82%, Đắc Nông 82%,
Yên Bái 80%, Điện Biên 79% và về tiền như: Gia Lai 74%, Thừa Thiên - Huế 70%,
Hòa Bình 65%, Quảng Nam 63%, Bà Rịa - Vũng Tàu 62%, Thái Nguyên 62%, Cao Bằng
61%, Bắc Giang 59%, Phú Thọ 56% (chi tiết xem Phụ lục 2A, 2B).
Việc giải quyết đơn thư khiếu nại,
tố cáo về thi hành án dân sự được thực hiện quyết liệt, tăng cường đối thoại,
chú trọng công tác dân vận, giải quyết dứt điểm hoặc một bước cơ bản nhiều vụ
việc khiếu nại phức tạp, tồn đọng kéo dài.
Việc kiện toàn tổ chức bộ máy cơ
quan Thi hành án dân sự đạt được kết quả cụ thể, chế độ chính sách đối với cán bộ
thi hành án được quan tâm: chỉ đạo hợp nhất các cơ quan THADS Hà Nội mới; bổ sung
cán bộ cho các cơ quan Thi hành án, nhất là đối với những nơi thiếu biên chế
trong nhiều năm qua; việc điều động, luân chuyển, biệt phái cán bộ thi hành án
cho những nơi thiếu biên chế, có số lượng án nhiều được tăng cường ở nhiều địa
phương; 62/63 cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh đã thành lập các phòng chuyên
môn để thực hiện nhiệm vụ giúp Trưởng Thi hành án dân sự quản lý, chỉ đạo thi
hành án hiệu quả hơn. Kỷ cương, kỷ luật, chế độ trách nhiệm trong các cơ quan
Thi hành án dân sự tiếp tục được tăng cường.
Công tác hoàn thiện thể chế được
chú trọng: Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội thông qua với nhiều nội dung mới,
tiến bộ; xây dựng Đề án thí điểm chế định tổ chức Thừa phát lại tại thành phố
Hồ Chí Minh; xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị về việc tiếp
tục tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự; ban hành nhiều
văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về công tác thi hành án.
Các đề án về tăng cường cơ sở vật
chất, kinh phí hoạt động, xây dựng trụ sở, kho vật chứng cho các cơ quan Thi
hành án dân sự được đẩy nhanh tiến độ[1].
Bên cạnh những kết quả đã đạt được,
công tác thi hành án dân sự còn một số hạn chế, yếu kém sau đây:
- Số lượng việc thi hành án tồn đọng
vẫn còn lớn (333.482 việc với số tiền là 16.503 tỷ 796 triệu 576 nghìn đồng).
- Một số chủ trương lớn của lãnh
đạo Bộ như: giao chỉ tiêu thi hành án cho từng địa phương, ứng dụng công nghệ thông
tin trong công tác thi hành án thực hiện chưa hiệu quả.
- Sự phối hợp giữa Cục Thi hành án
dân sự với Giám đốc Sở Tư pháp, với cấp uỷ, chính quyền địa phương nhìn chung
chưa kịp thời. Cán bộ thi hành án nhìn chung còn thiếu và yếu, nhiều địa phương
chưa tuyển dụng hết biên chế; còn nhiều sai sót trong thực hiện nghiệp vụ, hiện
tượng nhũng nhiễu, vi phạm pháp luật tiếp tục xảy ra; một bộ phận thiếu kỹ năng
thuyết phục, dân vận làm chưa tốt, dẫn đến nhiều vụ việc phải cưỡng chế; kỷ
cương, kỷ luật hành chính còn bị buông lỏng ở nhiều đơn vị;
Những hạn chế, yếu kém nêu trên là
do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Một số cơ quan Thi hành án quá
tải công việc vì có lượng án quá lớn; số việc thi hành án tồn đọng chuyển dồn từ
năm này sang năm khác nhiều mà chưa có cơ chế giải quyết dứt điểm; nhiều vụ việc
phải thi hành theo định kỳ hàng tháng, quý kéo dài trong nhiều năm; không ít vụ
việc không thể thi hành nhanh do phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án,
trong khi đó pháp luật quy định việc bán đấu giá tài sản đã kê biên phải thông
báo nhiều lần trên phương tiện thông tin đại chúng; tài sản đã kê biên, tổ chức
bán đấu giá nhiều lần, nhưng không có người mua; nhiều trường hợp người phải
thi hành án có điều kiện thi hành án, nhưng không tự nguyện thi hành án, thậm
chí chống đối quyết liệt việc thi hành án.
- Nhiều địa phương, nhất là các tỉnh
miền núi, vùng sâu, vùng xa thiếu nguồn tuyển dụng cán bộ thi hành án; cơ chế luân
chuyển, điều động Chấp hành viên cấp tỉnh xuống để làm Trưởng Thi hành án, Phó
trưởng Thi hành án cấp huyện còn nhiều bất cập, thủ tục điều động rườm rà, phức
tạp; chế độ, chính sách còn bất cập, gây khó khăn trong việc luân chuyển Chấp
hành viên từ Thi hành án dân sự cấp tỉnh xuống công tác tại cấp huyện hoặc từ
cơ quan Thi hành án này sang cơ quan Thi hành án khác.
- Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ thi
hành án còn nhiều bất cập, trong khi thi hành án là loại việc phức tạp, tiềm ẩn
nhiều rủi ro, thách thức trong tác nghiệp, vì vậy ảnh hưởng không nhỏ đến sự
yên tâm, lòng nhiệt tình công tác của cán bộ thi hành án.
- Vẫn còn tình trạng chậm trả lời,
hướng dẫn giải quyết những khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ cho các cơ quan Thi
hành án dân sự địa phương, chưa kiểm tra, đôn đốc các cơ quan Thi hành án dân
sự xử lý nghiêm các trường hợp cán bộ thi hành án có hành vi sai phạm, kéo dài
quá trình thi hành án. Một số Chấp hành viên, cơ quan Thi hành án chưa thực sự
tích cực thực hiện nhiệm vụ, còn trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp trên; có
trường hợp Chấp hành viên, cán bộ thi hành án chưa nghiên cứu kỹ các văn bản pháp
luật về thi hành án, trong tác nghiệp thi hành án còn cẩu thả, tùy tiện, đạo
đức công vụ chưa tốt, dẫn đến sai phạm.
- Cơ sở vật chất của cơ quan Thi
hành án dân sự còn nghèo nàn, chưa tương xứng với các cơ quan tư pháp ở địa phương;
kinh phí chưa đáp ứng yêu cầu hoạt động; việc xây dựng kho vật chứng thi hành
án và một số trụ sở cơ quan Thi hành án còn chậm do khó khăn về bố trí địa
điểm, giải phóng mặt bằng; việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ hoạt động
quản lý, chỉ đạo về thi hành án dân sự còn hạn chế.
3. Công tác
hành chính tư pháp
Trong năm 2008, tổng số việc chứng
thực là 16.942.318; tổng số phí chứng thực thu được là 40.529.892.300 đồng; số
cặp đăng ký kết hôn là 502.980; số trường hợp khai sinh là 1.380.645, khai tử
là 245.064; số cải chính hộ tịch là 51.309; số Phiếu lý lịch tư pháp đã cấp là
151.499 (chi tiết xem Phụ lục 3B); giải quyết hồ sơ xin nhập quốc tịch cho 77
trường hợp (tăng 18 trường hợp so với năm 2007); trở lại quốc tịch Việt Nam cho
29 trường hợp (tăng 16 trường hợp so với năm 2007); thôi quốc tịch Việt Nam cho
6597 trường hợp (giảm 1773 trường hợp so với năm 2007), giải quyết việc xác
minh để cấp Giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam 1186 trường hợp (tăng 654 trường
hợp so với năm 2007).
Thể chế về công tác hành chính tư
pháp được tiếp tục hoàn thiện, đặc biệt là việc Quốc hội thông qua Luật Quốc tịch
Việt Nam (sửa đổi). Một loạt các văn bản hướng dẫn cũng được ban hành kịp thời
như: Thông tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008 hướng dẫn thực hiện một số quy
định của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch;
Thông tư số 03/2008/TT-BTP ngày 25/8/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của
Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực
bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký; phối hợp với Bộ Tài chính ban hành
Thông tư liên tịch số 92/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 17/10/2008 hướng dẫn mức thu,
chế độ, thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí cấp bản sao, lệ phí chứng thực. Dự
án Luật Lý lịch tư pháp cũng đã được trình Quốc hội cho ý kiến, dự kiến thông
qua vào kỳ họp tới của Quốc hội.
Các cơ quan tư pháp tiếp tục phối
hợp chặt chẽ với cơ quan công an trong việc tra cứu, xác minh lý lịch tư pháp
cho đương sự; một số địa phương chủ động thực hiện rút ngắn thời hạn giải quyết
việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp, đặc biệt trong khâu lập và cấp phiếu tại Sở Tư
pháp.
Việc triển khai thực hiện các
quy định về kết hôn có yếu tố nước ngoài theo Nghị định số 69/2006/NĐ-CP về sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày càng đi vào nền nếp;
số lượng vụ việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với đàn ông Đài Loan, Hàn Quốc
giảm nhiều so với những năm trước đây; nhiều vụ việc kết hôn không lành mạnh đã
được ngăn chặn.
Thủ tục xử lý hồ sơ xin con nuôi,
cấp giấy phép hoạt động cho các Văn phòng con nuôi nước ngoài được tiếp tục rà
soát để cải tiến; các bước chuẩn bị xây dựng Luật nuôi con nuôi, chuẩn bị các
thủ tục để tham gia Công ước La Hay đang được tiến hành. Theo thống kê chưa đầy
đủ, trong năm 2008, có khoảng 1.700 trường hợp trẻ em Việt Nam được giải quyết
cho làm con nuôi người nước ngoài, trong đó chủ yếu trẻ em được cho làm con
nuôi công dân Hoa Kỳ, Italia, Pháp, Ailen, Canada.
Việc cải cách hành chính trong các
hoạt động hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp được đẩy mạnh dưới nhiều hình thức
như: thực hiện cơ chế “một cửa”, công khai thủ tục trên các trang thông tin
điện tử, tiến hành tin học hóa công tác đăng ký và quản lý hộ tịch cùng với
việc triển khai các hoạt động của Dự án tin học hóa hộ tịch với EC, trong đó
tập trung chủ yếu vào việc xây dựng phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được,
công tác hành chính tư pháp còn một số hạn chế, yếu kém sau đây:
- Hoạt động chứng thực vẫn còn nhiều
lúng túng, chất lượng chứng thực chưa cao, còn nhiều sai sót; cơ chế "một
cửa" áp dụng đối với hoạt động chứng thực ở các địa phương đã bộc lộ một
số điểm bất hợp lý nhưng cơ quan Tư pháp địa phương chưa chủ động tham mưu cho
UBND điều chỉnh cho phù hợp.
- Tình trạng cấp bản sao giấy tờ
hộ tịch, cải chính hộ tịch một cách tùy tiện ở một số địa phương vẫn còn.
- Cơ chế phối hợp giữa cơ quan Tư
pháp với cơ quan Công an chưa thật hiệu quả nên thời gian cấp Phiếu lý lịch tư
pháp còn kéo dài.
- Nhiều địa phương chưa quan tâm
đúng mức đến các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, tư vấn, thông tin liên quan đến
kết hôn có yếu tố nước ngoài; việc áp dụng biện pháp phỏng vấn trong đăng ký kết
hôn có xu hướng bị hành chính hóa một cách xơ cứng, hình thức, có hiện tượng
dùng phỏng vấn để gây phiền hà, sách nhiễu; kết quả phỏng vấn còn nhiều hạn
chế; tình trạng môi giới kết hôn bất hợp pháp, xâm phạm đến nhân phẩm của phụ
nữ vẫn còn nhiều, có những vụ việc nghiêm trọng.
- Công tác quản lý nhà nước về con
nuôi nước ngoài còn nhiều yếu kém, buông lỏng, hời hợt, dễ dãi, thiếu chủ động
trong việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch. Còn có hiện tượng gây phiền hà, nhũng
nhiễu, thậm chí vi phạm pháp luật trong một số khâu của quá trình giải quyết yêu
cầu nhận con nuôi để trục lợị, có nguy cơ làm sai lệch bản chất nhân đạo của
việc cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài (các vụ việc ở Nam
Định). Việc để xảy ra các sai sót đáng tiếc trong quan hệ hợp tác con nuôi với
Hoa Kỳ đã ảnh hưởng lớn đến quan hệ hợp tác về con nuôi giữa nước ta với một số
nước khác.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên là
do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Trình độ cán bộ tư pháp địa phương,
nhất là cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã còn hạn chế, tác phong làm việc còn
quan liêu, máy móc, thiếu trách nhiệm; tình trạng bị động về nhân sự làm công
tác chứng thực ở các địa phương vẫn chưa được khắc phục, phần lớn các xã, phường,
thị trấn hiện vẫn chỉ có 01 cán bộ tư pháp - hộ tịch trong khi khối lượng công
việc rất lớn.
- Việc tra cứu, xác minh lý lịch
tư pháp ở các Sở Tư pháp còn phụ thuộc vào thông tin ở cơ quan khác nên thiếu sự
chủ động.
- Chưa có quy hoạch tổng thể mạng
lưới Văn phòng con nuôi nước ngoài; tiến độ xây dựng Đề án tăng cường quản lý
các Văn phòng con nuôi nước ngoài nước ngoài tại Việt Nam còn chậm; thể chế về
nuôi con nuôi còn chưa được hoàn thiện ảnh hưởng đến hiệu quả, hiệu lực của công
tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này.
- Một số Sở Tư pháp còn thụ động
trong việc hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ đối với cấp huyện, ỷ lại sự hướng dẫn, chỉ
đạo của Bộ; công tác thanh tra, kiểm tra hộ tịch ít được quan tâm nên tình trạng
cấp huyện, cấp xã làm sai nhưng không kịp thời xử lý.
- Việc hướng dẫn, trả lời đề nghị
trả lời của địa phương, nhất là các vướng mắc về thể chế, nhiều trường hợp còn
chậm.
4. Công tác
bổ trợ tư pháp
Triển khai thực hiện Đề án thành
lập Tổ chức luật sư toàn quốc, Bộ đã tích cực phối hợp với Ban Chỉ đạo Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ nhất trong việc thành lập Hội đồng lâm thời luật sư toàn
quốc và chuẩn bị tổ chức Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất. Bộ và
các Sở Tư pháp đã chủ động phối hợp, tham mưu cho Tỉnh ủy, Thành ủy, UBND các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn các Đoàn luật
sư tổ chức thành công đại hội luật sư[2]; công
tác kiểm tra, thanh tra về tổ chức, hoạt động luật sư, tư vấn pháp luật; đào
tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ luật sư tiếp tục được chú trọng. Trong năm
2008, Bộ đã cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư cho 1.015 người, nâng tổng số luật
sư cả nước lên 5.310 người. Đề án đào tạo chuyên gia pháp luật, luật sư phục vụ
yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2008 - 2010 đang được khẩn trương
triển khai thực hiện.
Hoạt động tư vấn pháp luật của các
tổ chức đoàn thể tiếp tục được củng cố và phát triển theo định hướng xã hội hóa.
Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 77/2008/NĐ-CP về tư vấn pháp luật,
trong đó có nhiều nội dung mới, tạo hành lang pháp lý thông thoáng, thuận lợi
để phát triển mạng lưới tổ chức tư vấn pháp luật đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của người dân. Bộ đang phối hợp với các tổ chức đoàn thể cấp Trung ương khẩn
trương xây dựng Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định này.
Các tổ chức giám định tư pháp tiếp
tục được củng cố, kiện toàn theo quy định của Pháp lệnh Giám định tư pháp và
Nghị định số 67/2005/NĐ-CP; Bộ đã chủ trì xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ
Quyết định về chế độ bồi dưỡng giám định tư pháp nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc
thu hút các chuyên gia giỏi tham gia hoạt động giám định tư pháp; phối hợp với
các Bộ, ngành có liên quan xây dựng và đề nghị Bộ Tài chính ban hành quy định
về phí giám định trong lĩnh vực pháp y, kỹ thuật hình sự, pháp y tâm thần. Đội
ngũ giám định viên tư pháp từng bước được bổ sung, nâng cao kiến thức pháp luật
và chuyên môn, nghiệp vụ. Trong năm 2008, các Sở Tư pháp đã tham mưu cho Chủ
tịch UBND cấp tỉnh bổ nhiệm giám định viên và đề nghị Bộ cấp Thẻ Giám định viên
tư pháp cho 179 người, nâng tổng số giám định viên lên 2.357 người. Bộ tăng
cường việc hướng dẫn các Bộ, ngành và địa phương tiến hành tổng kết 04 năm thi
hành Pháp lệnh Giám định tư pháp để phục vụ cho việc xây dựng Luật Giám định tư
pháp.
Bộ đã tích cực phối hợp với các Bộ,
ngành có liên quan giải quyết những vấn đề mâu thuẫn, chồng chéo giữa các văn
bản quy phạm pháp luật liên quan đến bán đấu giá tài sản; chủ động đôn đốc các
địa phương thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về bán đấu giá tài
sản. Qua đó, hoạt động bán đấu giá tài sản ở nhiều địa phương đang từng bước đi
vào ổn định và phát triển; bước đầu tạo được sự tin cậy của chính quyền địa
phương; nhiều địa phương đã chuyển việc đấu giá quyền sử dụng đất cho các Trung
tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản của Sở Tư pháp. Số lệ phí thu được qua bán đấu
giá tài sản năm 2008 tăng 15.737.800.597 đồng so với năm 2007 (chi tiết xem phụ
lục số 3B).
Thể chế về hoạt động công chứng được
tiếp tục hoàn thiện. Bộ đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 02/2008/NĐ-CP
ngày 04/01/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Công chứng. Bộ đã phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số
91/2008/TTLT-BTC-BTP ngày 17/10/2008 hướng dẫn mức thu, chế độ thu, nộp, quản
lý và sử dụng phí công chứng. Tính đến tháng 12 năm 2008, trong cả nước có 476
công chứng viên, trong đó riêng năm 2008 bổ nhiệm mới 91 công chứng viên. Các
Phòng công chứng tiếp tục được kiện toàn tổ chức và hoạt động; hoạt động của
các Văn phòng công chứng bước đầu mang lại những kết quả tích cực. Theo số liệu
thống kê của 60 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong năm 2008, tổng số
việc công chứng là 368.144, tổng số tiền thu được là 70.174.528.587 đồng (chi
tiết xem Phụ lục 3B).
Bên cạnh những kết quả đã đạt được,
công tác bổ trợ tư pháp còn một số hạn chế, yếu kém sau đây:
- Đội ngũ luật sư, mạng lưới tổ chức
luật sư ở nhiều địa phương còn rất mỏng; đến nay vẫn còn 2 địa phương chưa thành
lập được Đoàn Luật sư (Lai Châu, Điện Biên); chất lượng hoạt động luật sư, tư
vấn pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu xã hội; Sở Tư pháp một số địa phương
còn lúng túng trong việc thực hiện nhiệm vụ giúp UBND quản lý nhà nước đối với
luật sư, hành nghề luật sư.
- Công tác giám định tư pháp còn
gặp nhiều khó khăn về kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật; đội ngũ giám định viên
tư pháp còn yếu về trình độ chuyên môn, chưa đáp ứng tốt yêu cầu công việc;
việc triển khai chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp, thu hút các
cơ quan, tổ chức chuyên môn, các chuyên gia giỏi trong và ngoài khu vực nhà
nước tham gia vào hoạt động giám định còn nhiều hạn chế.
- Việc xã hội hóa hoạt động công
chứng mới được triển khai còn nhiều bất cập, có biểu hiện công chứng không đúng
quy định; việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên chưa được
thực hiện; sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa Phòng công chứng và Văn phòng
công chứng chưa hiệu quả; quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng ở nhiều địa
phương còn lúng túng; chưa có giải pháp hữu hiệu để quản lý chất lượng bản dịch,
chi phí dịch thuật; việc tham mưu cho chính quyền địa phương phân định ranh
giới giữa hoạt động công chứng và công tác chứng thực còn lúng túng và chậm
thực hiện.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên là
do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Chưa có Chiến lược phát triển các
hoạt động bổ trợ tư pháp, đặc biệt là Chiến lược phát triển nghề luật sư, Đề án
quy hoạch tổng thể phát triển nghề công chứng ở Việt Nam, Chiến lược phát triển
tổ chức, hoạt động giám định tư pháp. Việc thực hiện công tác quản lý nhà nước
đối với các hoạt động bổ trợ tư pháp còn chưa thực sự chủ động, chưa theo chương
trình, kế hoạch phù hợp với từng lĩnh vực, địa bàn trong các giai đoạn khác
nhau. Thể chế pháp luật về các hoạt động bổ trợ tư pháp chưa được hoàn thiện;
một số lĩnh vực chưa xác định rõ mô hình tổ chức, phương thức hoạt động, chức năng
quản lý nhà nước.
- Liên đoàn luật sư Việt Nam chậm
được thành lập đã gây khó khăn cho việc tăng cường vai trò tự quản thống nhất
của hệ thống tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư từ Trung ương đến địa
phương, làm giảm hiệu quả của nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy
vai trò tự quản của các tổ chức luật sư.
- Các quy định của pháp luật liên
quan đến hoạt động công chứng, chứng thực các hợp đồng giao dịch (Luật Đất đai,
Luật Nhà ở...) còn nhiều bất cập, chưa phân định rõ phạm vi, thẩm quyền công
chứng và chứng thực gây khó khăn cho hoạt động cho các Phòng Công chứng hoạt
động theo cơ chế sự nghiệp có thu.
- Nhiều Bộ chủ quản, UBND, Sở chuyên
môn chưa thực sự quan tâm, tạo điều kiện về cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động,
cán bộ cho tổ chức, hoạt động giám định tư pháp; chưa kịp thời ban hành các quy
định về quy chuẩn chuyên môn, phí giám định, chế độ bồi dưỡng giám định tư
pháp; chưa phối hợp tích cực với ngành Tư pháp trong việc quản lý công tác giám
định tư pháp.
5. Công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, báo chí, xuất bản, ứng dụng
công nghệ thông tin
a) Công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật (PBGDPL)
Với tính chất ổn định của hoạt động
PBGDPL, tuy không nằm trong số nhiệm vụ trọng tâm năm 2008, nhưng công tác công
tác PBGDPL đã tiếp tục thu được những kết quả tốt, sự chỉ đạo, hướng dẫn sát
thực hơn, hoạt động PBGDPL dần chuyển theo hướng tăng tính chuyên nghiệp.
Toàn Ngành đã hoàn thành việc tổng
kết Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ từ năm 2003 đến năm
2007; tổng kết 10 năm Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở và
Quyết định 1067/QĐ-TTg ngày 25/11/1998 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng và
quản lý tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn. Bộ hoàn thành việc tham mưu
cho Chính phủ ban hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008
đến năm 2012 và đang xây dựng trình Chính phủ Đề án củng cố và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cho công tác PBGDPL giai đoạn 2008 - 2012.
Tiếp tục triển khai có hiệu quả Chương
trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp
hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm
2010 (Chương trình 212 đã sơ kết giai đoạn 1 thực hiện Đề án 4 do Bộ Tư pháp
chủ trì).
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp
luật được triển khai đồng bộ, gắn việc tổ chức thực hiện pháp luật với cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Hình thức phổ biến,
giáo dục pháp luật ngày càng đi vào chiều sâu về nội dung, đa dạng về hình
thức. Xuất hiện nhiều cách làm hay đang được tổng kết để nhân rộng như: việc tổ
chức "Phiên chợ pháp luật" ở Hà Giang, Lào Cai; ”Ngăn sách pháp luật”
ở Bắc Kạn; "Giỏ sách pháp luật" ở Bình Dương; "Tổ hòa giải 5
tốt” ở Hà Nội; Đề án “Đem luật về làng” ở huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng;
“Ngày pháp luật” ở Hà Tây; Chương trình “Tòa tuyên án” phát trên các kênh VTV6
và VTV3 Đài Truyền hình Việt Nam do VTV6 phối hợp với Học viện Tư pháp thực
hiện...
Công tác hòa giải ở cơ sở được
các Sở Tư pháp và chính quyền cơ sở quan tâm tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp
luật, nghiệp vụ hòa giải, tạo điều kiện cho hòa giải viên tại cơ sở hòa giải đúng
pháp luật, giữ gìn tình làng nghĩa xóm. Kết quả hòa giải thành ở các địa phương
đạt tỷ lệ khá (50 địa phương đạt tỷ lệ từ 70 đến trên 80%; đặc biệt đã có một
số địa phương đạt xấp xỉ và trên 90% như Bình Dương, Hòa Bình, Lào Cai, Phú
Thọ, Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế).
Hoạt động hợp tác quốc tế về PBGDPL
đã có bước chuyển biến đáng kể, ngày càng có hiệu quả và thiết thực.
b) Công tác
trợ giúp pháp lý (TGPL)
Hệ thống pháp luật về hoạt động trợ
giúp pháp lý tiếp tục được hoàn thiện: Bộ đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quyết định về thành lập Quỹ Trợ giúp pháp lý, Quyết định phê duyệt
Đề án quy hoạch mạng lưới Trung tâm TGPL và Chi nhánh của Trung tâm; phối hợp
các Bộ liên quan ban hành 03 Thông tư liên tịch, ban hành theo thẩm quyền 02
Thông tư và 7 Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về công tác trợ giúp pháp lý[3].
Bộ cũng thường xuyên chỉ đạo, hướng
dẫn các địa phương kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ và chuyên môn, nghiệp vụ
TGPL. Đến nay đã có 58/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phê duyệt Đề án
kiện toàn tổ chức, bộ máy, biên chế của Trung tâm. Các mô hình TGPL tại cơ sở
được mở rộng, đến nay có 108 Chi nhánh, 151 Tổ cộng tác viên ở cấp huyện và 2.213
Câu lạc bộ TGPL ở cấp xã. Đội ngũ cán bộ, cộng tác viên TGPL được tăng cường,
trong toàn quốc hiện có 515 cán bộ trợ giúp pháp lý, trong đó có 162 Trợ giúp
viên pháp lý, 8.489 cộng tác viên; tổ chức thành công hội nghị tập huấn toàn
quốc về TGPL; 28 hội thảo, toạ đàm về các vấn đề chuyên sâu; bồi dưỡng nghiệp
vụ TGPL cấp chứng chỉ khoá III cho 78 người là nguồn bổ nhiệm Trợ giúp viên
pháp lý.
Bộ đã thành lập Hội đồng phối hợp
liên ngành về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng ở Trung ương; 58/63 tỉnh,
thành phố đã thành lập Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố
tụng ở địa phương. Công tác trợ giúp pháp lý ở nhiều địa phương đã được cấp uỷ,
chính quyền quan tâm và chỉ đạo kịp thời hơn. Công tác phối hợp giữa Bộ Tư pháp
với các cơ quan có liên quan trong lĩnh vực TGPL được tăng cường và đạt kết quả
cao.
Phạm vi hoạt động TGPL ngày càng
mở rộng, hoạt động TGPL lưu động đến các địa bàn vùng sâu, vùng xa tiếp tục được
đẩy mạnh, mang lại hiệu quả thiết thực, đi vào chiều sâu hơn, đáp ứng nhu cầu
TGPL đa dạng của các đối tượng, góp phần nâng cao ý thức pháp luật trong nhân
dân. Đến tháng 10/2008 các Trung tâm đã thực hiện trợ giúp được 82.998 vụ việc,
trong đó có 76.950 vụ tư vấn, 517 vụ đại diện, 4.997 vụ bào chữa, 334 vụ kiến
nghị, 230 vụ hoà giải. Qua đó đã TGPL cho 86.289 đối tượng (22.896 người nghèo,
11.958 người có công với cách mạng, 18.629 người dân tộc, 4.077 trẻ em, 28.729
đối tượng khác). Nét mới trong việc thực hiện TGPL năm qua là chất lượng vụ
việc TGPL ngày càng được nâng cao, đáp ứng được yêu cầu TGPL của đối tượng.
c) Công tác
báo chí, xuất bản
Trong năm 2008, Lãnh đạo Bộ đã kịp
thời và kiên quyết chỉ đạo dứt điểm việc kiện toàn tổ chức, cán bộ, tăng cường
năng lực cho 2 đơn vị Báo Pháp luật Việt Nam và Nhà xuất bản Tư pháp; đồng thời
chỉ đạo xây dựng các Đề án đổi mới tổ chức, hoạt động của 2 đơn vị này. Đề án
đổi mới tổ chức, hoạt động của Báo Pháp luật Việt Nam, Đề án Báo Pháp luật điện
tử đã được phê duyệt và triển khai thực hiện, nhờ đó hoạt động của Báo đã có
nhiều khởi sắc. Hoạt động của Nhà xuất bản cũng đã từng bước đi vào ổn định.
Các chuyên mục, chuyên trang của
Báo Pháp luật Việt Nam, các chuyên đề của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật đã đăng tải
thường xuyên thông tin về hoạt động của Ngành; các tin bài, ấn phẩm bám sát chương
trình hành động của Bộ Tư pháp, đảm bảo chất lượng về nội dung và hình thức,
góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị mà Ngành được giao. Báo Pháp luật
Việt Nam đã phát triển thêm một số ấn phẩm mới phù hợp với xu hướng phát triển
của báo chí, truyền thông hiện đại, góp phần đa dạng hóa hình thức tuyên truyền
pháp luật (xuất bản ấn phẩm Doanh nhân và Pháp luật, Báo Pháp luật Việt Nam hoa
văn phát hành tại TP. HCM và các tỉnh phía Nam...). Tạp chí Dân chủ và Pháp
luật đã bám sát chương trình xây dựng pháp luật của Ngành, kịp thời xuất bản
nhiều số chuyên đề về các dự án Luật Tương trợ tư pháp, Luật Quốc tịch Việt Nam
(sửa đổi), Luật Thi hành án dân sự, Luật Bồi thường nhà nước, góp phần làm rõ
cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng các dự án luật này.
d) Ứng dụng
công nghệ thông tin
Việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong các lĩnh vực hoạt động được chủ động đẩy mạnh; kịp thời tổ chức triển khai
thực hiện Quyết định số 43/2008/QĐ-TTg ngày 24/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà
nước năm 2008; trình và đã được phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin
trong hoạt động của Bộ Tư pháp giai đoạn 2009-2010 (Quyết định số 1579/QĐ-BTTTT
ngày 24/10/2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông).
Cung cấp kịp thời và cơ bản đầy đủ
các thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành và phục vụ người dân, doanh nghiệp lên
Cổng thông tin điện tử của Bộ; tổ chức đào tạo và triển khai phần mềm “Quản lý
văn bản và hồ sơ công việc” cho bộ phận văn thư, chuyên viên và lãnh đạo của 18
đơn vị thuộc Bộ.
Bộ và nhiều Sở Tư pháp thực hiện
hướng dẫn thủ tục hành chính, công khai các mẫu, biểu liên quan trên website của
Ngành và của địa phương; hoàn thành việc triển khai hệ thống thư điện tử cho cơ
quan THADS địa phương giai đoạn 1.
Bên cạnh đó, công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, báo chí, xuất bản, ứng dụng công nghệ thông
tin còn một số hạn chế, bất cập sau đây:
- Công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật ở một số nơi chưa được coi trọng; các biện pháp và hình thức phổ biến,
tuyên truyền mới (điều tra thăm dò dư luận xã hội, ký cam kết không vi phạm
pháp luật, Ngày pháp luật...) chưa được tổng kết, đánh giá cụ thể để có hướng
nhân rộng; việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức bộc
lộ nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao; hoạt động của Hội đồng phối hợp công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật ở một số địa phương còn mang tính hình thức và thụ
động.
- Một số địa phương chưa được UBND
tỉnh phê duyệt Đề án kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế của Trung tâm TGPL (5/63
Trung tâm), chưa thành lập Hội đồng phối hợp về TGPL trong hoạt động tố tụng
(15/63 Trung tâm); đội ngũ cán bộ TGPL ở một số địa phương chưa được củng cố,
kiện toàn, biên chế ít, chưa tương xứng với yêu cầu TGPL (Bắc Kạn, Hà Nam...);
chất lượng vụ việc TGPL ở một số Trung tâm còn chưa cao; việc thành lập Câu lạc
bộ TGPL thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo và Chương trình 135
giai đoạn II ở một số địa phương còn chậm.
- Còn hiện tượng chấp hành chưa nghiêm
định hướng thông tin của Đảng và Nhà nước trong công tác báo chí, sai sót về
nghiệp vụ; hoạt động của Nhà xuất bản Tư pháp gặp nhiều khó khăn; đọng vốn,
đọng sách, công nợ lớn chưa được thanh toán làm cho hoạt động của Nhà xuất bản
lúng túng, kém hiệu quả.
- Chưa khai thác hiệu quả tiện ích
của công nghệ thông tin; việc sử dụng văn bản, giấy tờ hành chính, in ấn, sao
chụp và gửi văn bản, tài liệu không cần thiết vẫn còn; hệ thống mạng nội bộ,
thư điện tử, công cụ tìm kiếm, khai thác thông tin được sử dụng chưa thực sự
hiệu quả. Việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý
của Ngành chưa thực sự gắn kết với các yêu cầu cải cách hành chính, nhiều Sở Tư
pháp chưa chú trọng nâng cao trình độ tin học cho cán bộ, công chức; việc thực
hiện chuẩn hóa thông tin, các quy trình nghiệp vụ, các biểu mẫu còn chậm.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên là
do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Việc lãnh đạo, chỉ đạo của cấp
ủy, chính quyền một số địa phương trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa
sát sao; còn thiếu linh hoạt trong lựa chọn hình thức, biện pháp phổ biến, giáo
dục pháp luật phù hợp với trình độ của người được tuyên truyền và đặc thù của
địa bàn; công tác sơ kết, tổng kết còn sơ sài, thiếu thông tin hai chiều dẫn
tới các giải pháp, biện pháp khắc phục chưa sát thực tế; kinh phí dành cho công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là ở vùng sâu,
vùng xa, vùng khó khăn; đội ngũ cán bộ làm công tác PBGDPL, hòa giải ở cơ sở
còn hạn chế về trình độ chuyên độ môn, chất lượng đội ngũ báo cáo viên chưa
đồng đều, chưa có biện pháp khuyến khích thỏa đáng để có thể huy động được
những người có năng lực tham gia công tác PBGDPL.
- Một số địa phương chưa quan tâm
đầu tư nguồn lực (biên chế, cơ sở vật chất và kinh phí) cho công tác TGPL; công
tác quản lý chất lượng vụ việc ở một số Trung tâm TGPL còn chưa chặt chẽ; việc
lựa chọn nguồn cán bộ có đủ điều kiện được đào tạo, bồi dưỡng cấp Chứng chỉ để
bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý còn chậm so với yêu cầu đặt ra; một số Trợ giúp
viên pháp lý còn chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tham gia tố tụng;
- Việc triển khai thực hiện chủ trương
về ứng dụng công nghệ thông tin của Bộ, Ngành chưa thực sự quyết liệt, bài bản;
nhiều cán bộ, công chức chưa chủ động, tích cực trong tiếp cận công nghệ thông
tin; hạ tầng kỹ thuật và cơ sở vật chất cho ứng dụng công nghệ thông tin ở
nhiều địa phương còn hạn chế; chưa có cơ chế cung cấp, trao đổi, thu thập thông
tin giữa các cơ quan, đơn vị trong Ngành; tâm lý ngại ứng dụng công nghệ thông
tin vẫn còn ở một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức của Bộ...
6. Công tác
xây dựng Ngành, đào tạo và nghiên cứu khoa học
a) Công tác
xây dựng Ngành
Công tác tổ chức, cán bộ là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của Ngành trong năm 2008 - “Năm tổ chức cán bộ”. Toàn
Ngành đã tập trung thực hiện nhiệm vụ và đạt được một số kết quả nổi bật.
Thể chế về bộ máy, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Bộ, Ngành được hoàn thiện một bước cơ bản: Bộ đã xây dựng,
trình Chính phủ ban hành Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp (thay thế Nghị
định số 62/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003), trong đó có nhiều quy định mới về cơ cấu
tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ như: bổ sung chức năng quản lý
nhà nước về thi hành pháp luật; các nhiệm vụ mới trong công tác xây dựng pháp
luật, hướng dẫn nghiệp vụ công tác pháp chế Bộ, ngành, hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp, tương trợ tư pháp, đấu giá tài sản, quản lý hoạt động nuôi con nuôi;
thành lập mới, điều chỉnh chức năng, tên gọi một số đơn vị thuộc Bộ phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ mới của Bộ, Ngành... Để triển khai thực hiện tốt Nghị định
này, Bộ đã ban hành Kế hoạch thực hiện (số 2781/KH-BTP ngày 05/9/2008); kịp
thời ban hành các Quyết định về tổ chức và hoạt động của các đơn vị mới thuộc
Bộ; tiến hành sửa đổi, bổ sung Quy chế làm việc của Bộ; xây dựng và trình Thủ
tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Cục THADS, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về các đơn vị sự nghiệp trực
thuộc Bộ Tư pháp.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các
Quyết định số 1256/QĐ-TTg, 1254/QĐ-TTg ngày 12/9/2008 bổ nhiệm thêm 02 Thứ trưởng
Bộ Tư pháp. Để triển khai kịp thời việc thực nhiệm vụ của Lãnh đạo Bộ sau khi
được kiện toàn, Bộ trưởng đã ký ban hành Quyết định số 1934/QĐ-BTP ngày 09/10/2008
về việc phân công công tác của Bộ trưởng và các Thứ trưởng. Nội dung Quyết định
số 1934/QĐ-BTP thể hiện sự phân công công tác trong tập thể Lãnh đạo Bộ được căn
cứ vào các khối công việc lớn của Bộ, Ngành; đảm bảo tính khoa học, sự liên kết
giữa các lĩnh vực công tác, cân đối về khối lượng công việc của từng đồng chí
Lãnh đạo Bộ; đảm bảo quản lý đồng bộ từ công việc tới đơn vị, con người; gắn
kết giữa xây dựng pháp luật với thực thi pháp luật; thống nhất từ Trung ương
tới địa phương.
Bộ đã hoàn thành việc xây dựng quy
hoạch Lãnh đạo Bộ, lãnh đạo cấp Vụ và đã được Ban Bí thư phê duyệt; công tác
quy hoạch cán bộ đã hướng mạnh vào đội ngũ công chức trẻ, công chức nữ; việc
tạo môi trường làm việc dân chủ bình đẳng, cạnh tranh để công chức phát huy sở
trường trong công tác được chú trọng; sắp xếp được một bước cán bộ chủ chốt một
số đơn vị.
Thực hiện việc thông báo rộng rãi
để tuyển dụng các sinh viên giỏi vào công tác ở cơ quan Bộ, bổ sung đội ngũ cán
bộ nhằm đáp ứng yêu cầu công việc; đã ban hành Danh mục các vị trí công tác định
kỳ chuyển đổi; tiếp tục hoàn chỉnh Đề án cơ cấu ngạch cán bộ, công chức, Quy
chế phân cấp và Kế hoạch luân chuyển cán bộ, công chức, viên chức thuộc Bộ.
Sự phối hợp, trao đổi trong thực
hiện công việc giữa Ban Cán sự, Lãnh đạo Bộ với các Bộ, ngành, các cấp ủy, chính
quyền địa phương được tăng cường, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức về
vị trí, vai trò của công tác tư pháp, giúp cho việc triển khai công việc của
các đơn vị thuộc Bộ, cơ quan tư pháp địa phương được nhanh chóng, thuận lợi.
Hệ thống tổ chức các cơ quan Tư pháp,
Thi hành án dân sự từ trung ương đến địa phương tiếp tục được kiện toàn, củng
cố; nhiều Sở Tư pháp làm tốt công tác tham mưu cho chính quyền địa phương trong
việc tăng biên chế cho đội ngũ cán bộ tư pháp cấp xã và huyện. Bộ đã phối hợp
với Bộ Nội vụ xây dựng và triển khai thực hiện Kế hoạch kiểm tra công tác tư
pháp cấp xã ở tất cả các tỉnh, thành phố, qua đó đánh giá toàn diện về năng lực
của đội ngũ công chức Tư pháp - Hộ tịch cấp xã và chất lượng thực hiện nhiệm vụ
công tác tư pháp ở cơ sở, tìm giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp
cấp xã đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao. Hiện Bộ đang tích cực phối hợp
với Bộ Nội vụ để ban hành Thông tư liên tịch thay thế Thông tư liên tịch số
04/2005/TTLT-TP-NV ngày 05/5/2005 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
tổ chức của các cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về công tác tư
pháp ở địa phương.
Công tác bồi dưỡng nâng cao trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ, cập nhật kiến thức mới cho đội ngũ cán bộ, công chức
của Ngành tiếp tục được quan tâm, nhất là với đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện
và xã. Bộ đã hoàn thành việc xây dựng "Bộ chương trình khung, tài liệu tập
huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ tư pháp cấp huyện"; hỗ trợ một số địa phương mở
các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp cấp xã; in ấn và cấp phát tài
liệu bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế cho cán bộ tư pháp, pháp chế
các Bộ, ngành; triển khai các hoạt động của Dự án tăng cường năng lực đăng ký
khai sinh trẻ em vùng miền núi tại một số địa phương (Lai Châu, Lạng Sơn); các
địa phương cũng đã quan tâm triển khai kế hoạch mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ về hộ tịch cho cán bộ tư pháp xã, phường; Các Sở Tư pháp
cũng rất quan tâm tới việc cử cán bộ đi học (các lớp cao cấp chính trị hoặc đào
tạo sau đại học), tạo điều kiện để cán bộ được cập nhật kiến thức nhằm nâng cao
trình độ về chính trị và chuyên môn nghiệp vụ, phục vụ công tác tốt hơn.
Tuy nhiên, công tác xây dựng ngành
trong năm qua vẫn còn những hạn chế, yếu kém sau đây:
- Số lượng và chất lượng đội ngũ
công chức trong ngành Tư pháp nhìn chung chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ; đội
ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện và xã một số nơi quá thiếu, một bộ phận chưa qua
đào tạo luật, chất lượng hoạt động chưa bảo đảm, dẫn đến tình trạng quá tải công
việc, nhất là trong tình hình thực hiện phân cấp mạnh cho cơ sở trong một số
lĩnh vực công tác như hiện nay.
- Chủ trương luân chuyển, điều chuyển
cán bộ, tăng cường cán bộ trẻ đi cơ sở chưa được thực hiện thường xuyên, hiệu
quả chưa cao; công tác đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ trong Ngành tuy đã được
tăng cường nhưng vẫn chưa có quy hoạch, kế hoạch mang tính chiến lược lâu dài;
việc bồi dưỡng, cập nhật kiến thức bổ trợ cho cán bộ chưa được thực hiện thường
xuyên.
- Nguồn tuyển dụng cán bộ vào Ngành
Tư pháp chưa đa dạng về chuyên ngành đào tạo, trình độ đào tạo; hiện tượng cán
bộ xin ra khỏi Ngành có chiều hướng gia tăng.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên là
do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Chế độ, chính sách cán bộ của Ngành
chưa đáp ứng tốt yêu cầu thu hút người có năng lực; đời sống vật chất của cán
bộ, công chức, viên chức trong Ngành còn nhiều khó khăn.
- Nhiều địa phương chưa quan tâm
đến việc tăng biên chế cho ngành Tư pháp, nhất là tư pháp cấp huyện và cấp xã; nguồn
tuyển dụng cán bộ vào cơ quan Tư pháp còn thiếu, nhất là các vùng đồng bào dân
tộc, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
- Công tác cán bộ trong hệ thống
cơ quan THADS còn khép kín, sự phối hợp giữa Cục THADS, Vụ Tổ chức cán bộ và các
đơn vị có liên quan về công tác này chưa thật chặt chẽ.
- Việc tuyên truyền về ý nghĩa, vai
trò của công tác thi đua, khen thưởng chưa sâu rộng; việc lựa chọn, giới thiệu
các mô hình điểm, cách làm hay và các tấm gương điển hình về thi đua trong
Ngành còn chưa được quan tâm đúng mức; tiến độ xây dựng các bảng chấm điểm thi
đua còn chậm.
b) Công tác
đào tạo và nghiên cứu khoa học
Công tác đào tạo cán bộ pháp luật
năm 2008 được tập trung vào việc tăng cường năng lực đào tạo cho các cơ sở đào
tạo thuộc Bộ, tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo luật, đào tạo nghề, đáp ứng
yêu cầu về nguồn nhân lực phục vụ cải cách pháp luật, cải cách tư pháp, xây dựng
Nhà nước pháp quyền.
Bộ đã hoàn thành việc xây dựng và
trình Ban Bí thư phê duyệt Đề án đưa pháp luật các nước ASEAN vào chương trình
giáo dục của các cơ sở đào tạo luật. Trường Đại học Luật Hà Nội tổ chức thực
hiện tốt các hoạt động đào tạo các trình độ trung cấp, cử nhân, thạc sỹ và tiến
sỹ luật theo chỉ tiêu, chương trình và kế hoạch đã được duyệt. Hiện nay, Trường
có gần 18.000 học viên, trong đó có 6.000 sinh viên đại học hệ chính quy; gần
8.000 sinh viên đại học hệ vừa học vừa làm, 2.000 sinh viên hệ đại học văn bằng
hai; 320 học viên cao học; 42 nghiên cứu sinh tiến sĩ luật học và gần 2.000 học
sinh trung cấp luật. Năm 2008, Trường đã tổ chức tốt nghiệp cho 2.809 cử nhân
luật ở các hệ đào tạo; 56 thạc sỹ luật và 10 tiến sỹ luật. Trường đã có nhiều cố
gắng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên đạt chuẩn và đang triển khai
xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng giáo viên; tiếp tục phát triển và hoàn
thiện các chương trình đào tạo; đổi mới mạnh mẽ phương pháp đào tạo; nâng cấp
hệ thống thông tin thư viện, áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào phục vụ
nghiên cứu, giảng dạy và học tập; mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo. Công tác
kiểm định và bảo đảm chất lượng đào tạo đang được triển khai và bước đầu có kết
quả tốt. Trường đã hoàn thành Bản tự đánh giá toàn diện các mặt hoạt động;
triển khai áp dụng ISO 9001 - 2000 với kết quả tốt. Việc triển khai áp dụng đào
tạo theo tín chỉ đối với 19 môn học, năm học 2008 - 2009, đã có bước đầu có tác
dụng tích cực, tạo ra không khí mới trong giảng dạy và học tập. Đề án xây dựng
Trường Đại học Luật Hà Nội trở thành Trường trọng điểm về đào tạo cán bộ pháp
luật cơ bản đã được hoàn thành để trình Chính phủ trong thời gian tới.
Bộ đã xây dựng và trình Thủ tướng
Chính phủ Đề án xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn về đào tạo các
chức danh tư pháp. Học viện Tư pháp tổ chức các lớp đào tạo nghiệp vụ xét xử
(454 học viên), nghiệp vụ luật sư (1412 học viên), nghiệp vụ thi hành án dân sự
(410 học viên); nghiệp vụ công chứng (246 học viên); tổ chức nhiều hoạt động nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo các chức danh tư pháp như: hội nghị giảng viên nhằm
thống nhất chương trình đào tạo và ứng dụng phương pháp giảng dạy mới (phương
pháp tương tác, lấy người học làm trung tâm, diễn án, làm việc nhóm...); tiếp
tục biên soạn, đổi mới chương trình, giáo trình, tài liệu phục vụ nghiên cứu,
giảng dạy; chương trình "Tòa tuyên án" tạo được sự quan tâm trong dư
luận xã hội.
Công tác nghiên cứu khoa học tiếp
tục được triển khai sát với yêu cầu, mục đích, nhiệm vụ trọng tâm của Ngành,
nổi bật là kết quả góp ý kiến của Hội đồng khoa học Bộ vào các Dự thảo luật mà
Bộ đã và sẽ trình Chính phủ trong thời gian tới; triển khai thực hiện Đề tài
"Nghiên cứu Chiến lược xây dựng và phát triển ngành Tư pháp trong thời kỳ
công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước". Nhiều hội thảo khoa học, tọa đàm
đã được tổ chức ở Bộ và một số Sở Tư pháp, góp phần làm rõ cơ sở lý luận và
thực tiễn cho việc hoạch định chính sách phát triển Ngành và nâng cao chất
lượng các hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ của Ngành.
Bên cạnh những kết quả đạt được,
trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học vẫn còn một số hạn chế, bất cập
sau đây:
- Tiến độ triển khai xây dựng Đề
án xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ pháp
luật, Đề án xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn về đào tạo các chức
danh tư pháp còn chậm.
- Năng lực đào tạo còn hạn chế so
với nhu cầu; chất lượng đào tạo chưa có chuyển biến rõ rệt; cử nhân luật vẫn còn
yếu về kỹ năng thực hành, kiến thức bổ trợ và ngoại ngữ, chưa đáp ứng được yêu
cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cải cách pháp luật, cải cách tư
pháp và mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hoạt động nghiên cứu khoa học pháp
lý có mặt còn hạn chế; một số vấn đề phát sinh từ thực tiễn hoạt động tư pháp,
đặc biệt ở các địa phương chưa được kịp thời chuyển hóa thành các nhiệm vụ
nghiên cứu; việc triển khai thực hiện một số đề tài khoa học còn chậm so với tiến
độ dự kiến, do đó tác dụng mở đường, đặt nền tảng lý luận cho hoạt động xây
dựng pháp luật còn hạn chế; công tác khảo sát thực tiễn trong quá trình nghiên
cứu một số đề tài còn kém hiệu quả.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên là
do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
- Một số chương trình, chuyên ngành
đào tạo chưa thật hợp lý, chưa sát với yêu cầu thực tiễn; phương pháp giảng dạy
nhìn chung còn nặng về truyền thụ kiến thức, chưa làm tốt việc trang bị phương
pháp tư duy, phát triển kỹ năng thực hành nghề luật cho sinh viên; hệ thống học
liệu, giáo trình chưa đầy đủ; nội dung một số giáo trình còn đơn điệu, thiên về
giải thích các quy định của luật thực định.
- Chế độ đãi ngộ đối với giảng viên,
nhất là hỗ trợ giảng dạy chậm được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình mới;
chưa khơi dậy tốt tiềm năng của đội ngũ giảng viên.
- Hoạt động nghiên cứu khoa học nhiều
khi chưa chủ động do phải phụ thuộc nhiều vào đội ngũ cộng tác viên bên ngoài.
7. Công tác
hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật
Năm 2008, toàn Ngành tiếp tục đẩy
mạnh hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật; triển khai thực hiện
Luật Tương trợ tư pháp; tập trung làm tốt công tác điều phối, kiểm tra các chương
trình, dự án hợp tác pháp luật với việc đề cao nhiệm vụ điều phối hoạt động hợp
tác ở cấp vĩ mô nhằm tận dụng triệt để và hợp lý sự hỗ trợ của nước ngoài đối
với hoạt động xây dựng pháp luật, tăng cường thực thi pháp luật, đào tạo cán bộ
pháp luật; nhờ đó công tác hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật đã đạt được
những kết quả tích cực.
Công tác hợp tác quốc tế về pháp
luật và tư pháp được triển khai với ý thức chính trị cao về việc giữ vững các nguyên
tắc hợp tác, đặc biệt là đảm bảo an ninh chính trị; đồng thời linh hoạt trong
tác nghiệp nhằm khai thác tốt nhất sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế phục vụ
các mục tiêu cải cách pháp luật, cải cách tư pháp.
Trong năm 2008, Lãnh đạo Bộ đã tham
gia một số Đoàn công tác của Chính phủ tham gia các Hội nghị, Diễn đàn hợp tác
đa phương, qua đó, góp phần nâng cao vị thế của Ngành trong hoạt động đối ngoại
của đất nước nói chung, trong hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật
nói riêng.
Hoạt động ủy thác tư pháp được
thực hiện đúng quy định. Tính đến ngày 30/9/2008, Bộ đã thực hiện ủy thác tư
pháp 1.379 vụ, trả lại 178 hồ sơ do không đảm bảo yêu cầu quy định.
Thể chế về hợp tác với nước ngoài
về pháp luật tiếp tục được hoàn thiện (xây dựng và trình Chính phủ ban hành
Nghị định số 78/2008/NĐ-CP ngày 17/7/2008 thay thế Nghị định số 103/1998/NĐ-CP);
tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác với các nước và tổ chức quốc tế; nối lại quan
hệ với các đối tác truyền thống bị gián đoạn trong một thời gian; tăng cường
quan hệ hợp tác với các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tham gia và
tổ chức nhiều sự kiện lớn về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp và pháp
luật[4]; tham gia Đoàn cán bộ Chính phủ thực hiện
đối thoại nhân quyền với Hoa Kỳ (tháng 5/2008); phối hợp với Bộ Ngoại giao chuẩn
bị Cơ chế Kiểm điểm định kỳ (UPR) của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc; tham
gia đàm phán các Hiệp định trong ASEAN và các hiệp định về thương mại tự do
giữa ASEAN với các nước, các Hiệp định song phương về kinh tế, thương mại, đầu
tư với Nhật Bản, Nga, Canada; tư vấn cho Chính phủ hoặc trực tiếp tham gia ý
kiến về giải quyết nhiều vụ tranh chấp quốc tế mà Việt Nam có liên quan như vụ
Trịnh Vĩnh Bình, vụ tàu Cần Giờ, Vụ Glenco, vụ kiện chất độc màu da cam của các
nạn nhân chiến tranh Việt Nam...
Bộ cũng đã triển khai có hiệu quả
công tác tổng kết, sơ kết việc thực hiện một số nghị quyết, chỉ thị quan trọng
của Đảng về hợp tác với nước ngoài về tư pháp và pháp luật: Chỉ thị số 57/CT-TW
ngày 08/8/1995 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII về hợp tác với nước
ngoài về pháp luật và cải cách hành chính, Quy chế quản lý thống nhất hoạt động
đối ngoại của Bộ Chính trị; tổng kết tình hình tiếp nhận và kết quả sử dụng tài
trợ nước ngoài từ khi có Nghị quyết 08-NQ/TW.
Tuy nhiên, trong công tác hợp tác
quốc tế về tư pháp và pháp luật vẫn còn có một số hạn chế. Quy chế về hoạt động
đối ngoại của Bộ còn chưa được thực hiện nghiêm chỉnh; hoạt động ủy thác tư
pháp gặp nhiều khó khăn; nhiều trường hợp hồ sơ gửi đi các nước không có hồi âm
hoặc các nước không thực hiện; thủ tục ủy thác tư pháp rườm rà, phức tạp và kéo
dài. Những hạn chế nêu trên chủ yếu là do cơ sở pháp lý về ủy thác tư pháp còn
nhiều bất cập; nước ta chưa có Hiệp định tương trợ tư pháp với nhiều nước. Số
lượng cán bộ đáp ứng tốt yêu cầu về năng lực, trình độ trong lĩnh vực hợp tác
quốc tế về tư pháp và pháp luật còn thiếu; tính chuyên sâu về chuyên môn, nghiệp
vụ của cán bộ, công chức trong lĩnh vực pháp luật quốc tế còn hạn chế. Mặt khác,
kinh phí phục vụ các hoạt động hợp tác quốc tế còn eo hẹp, chưa tương xứng với
nhiệm vụ được giao.
8. Các công
tác khác
a) Công tác
đăng ký giao dịch bảo đảm
Trong năm 2008, số lượng vụ việc
đã giải quyết trong toàn hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm cao hơn nhiều so với
năm trước. Theo số liệu thống kê từ ngày 01/10/2007 đến ngày 30/9/2008, các Trung
tâm Đăng ký giao dịch bảo đảm trong cả nước đã giải quyết được 122.453 đơn yêu
cầu (tăng 137% so với năm 2007), 3.657 văn bản cung cấp thông tin (tăng 181% so
với năm 2007).
Thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin
về giao dịch bảo đảm có sự cải tiến, tạo điều kiện cho khách hàng tiết kiệm thời
gian, bảo đảm được tính kịp thời của việc công khai hóa giao dịch và tra cứu
thông tin. Việc triển khai ứng dụng tin học vào hoạt động đăng ký, cung cấp
thông tin tại các Trung tâm đăng ký tiếp tục được chú trọng thực hiện, đảm bảo
đồng bộ dữ liệu giữa các Trung tâm.
Hoạt động kiểm tra, hướng dẫn, giải
đáp về chuyên môn, nghiệp vụ được thực hiện thường xuyên (tổ chức các lớp bồi
dưỡng nghiệp vụ tại thành phố Đà Nẵng và thành phố Cần Thơ; phối hợp với Sở Tư
pháp tỉnh Điện Biên tổ chức lớp bồi dưỡng pháp luật về giao dịch bảo đảm và đăng
ký giao dịch bảo đảm cho cán bộ tư pháp của tỉnh; tiến hành kiểm tra tại 14
tỉnh, thành phố trên cả nước về tổ chức quản lý, thực hiện công tác đăng ký giao
dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất).
Bộ đã tập trung cao cho việc xây
dựng Dự án Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm, Dự án Luật Đăng ký bất động sản và đã
trình Chính phủ xem xét, cho ý kiến về Dự án Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm vào
tháng 5/2008, Dự án Luật Đăng ký bất động sản vào tháng 6/2008. Ủy ban thường
vụ Quốc hội đã hai lần cho ý kiến sơ bộ 02 dự án luật này. Bên cạnh đó, Bộ đã
phối hợp với Bộ Tài chính sửa đổi quy định hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản
lý và sử dụng lệ phí đăng ký và phí cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm.
Tuy nhiên, công tác giao dịch bảo
đảm trong năm qua có một số hạn chế, yếu kém như: năng lực cán bộ đăng ký chưa
đồng đều tại một số địa phương; cơ chế tổ chức, hoạt động chưa thực sự khoa
học; còn tồn tại những thủ tục chưa thuận lợi cho người dân; việc kiểm tra công
tác đăng ký giao dịch bảo đảm tại các địa phương còn chưa hiệu quả; hai dự án
luật chưa được Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng tình.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu
kém nêu trên là do việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện kế hoạch, chương trình trong
công tác đăng ký giao dịch bảo đảm có lúc chưa kịp thời, thường xuyên, thiếu
quyết liệt; kinh phí còn hạn hẹp, ảnh hưởng đến một số hoạt động, nhất là việc
xây dựng văn bản trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm.
b) Công tác
kế hoạch, tài chính
Trong năm 2008, Bộ đã hoàn thành
việc xây dựng Đề án thực hiện đổi mới phân bổ ngân sách đối với cơ quan tư pháp,
hoạt động tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW gửi Ban Cán sự Đảng Bộ Tài Chính.
Nội dung chính của Đề án tập trung vào việc tăng định mức chi thường xuyên cho
các đơn vị thuộc Bộ quản lý lên 50% so với định mức hiện nay. Bộ cũng đã phối
hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 19/2008/TTLT-BTC-BTP ngày
19/02/2008 hướng dẫn việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm
hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự và kinh phí bảo đảm hoạt động của Tổ
quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản; tiếp tục hoàn thiện Đề án phân cấp quản lý ngân sách, tài sản, Đề án phân
cấp trong công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, Đề án mua sắm tài sản tập
trung cho cơ quan thi hành án dân sự.
Bộ tiếp tục chỉ đạo thực hiện nghiêm,
bảo đảm minh bạch, công khai và dân chủ trong công tác tài chính; phân cấp mạnh
việc quản lý tài chính cho các cơ quan, đơn vị; tăng cường trách nhiệm, quyền
hạn của Thủ trưởng đơn vị trong quản lý chi tiêu ngân sách qua đó nâng cao hiệu
quả chi tiêu;
Công tác thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí được quán triệt và thực hiện nghiêm túc trong toàn Ngành. Trong năm
2008 toàn Ngành tiết kiệm chi thường xuyên được 14.570 triệu đồng, cắt giảm 10
dự án đầu tư (trong đó có 07 dự án xây dựng trụ sở cơ quan thi hành án dân sự
và 03 dự án xây dựng kho vật chứng) với số vốn là 12.560 triệu đồng, số vốn này
được Bộ điều chuyển cho dự án khác có nhu cầu về vốn.
Công tác kiểm tra nghiệp vụ cũng
như bồi dưỡng nghiệp vụ tài chính - kế toán cho cán bộ làm công tác ở địa phương
được chú trọng hơn. Năm 2008, Bộ đã phối hợp với Học viện Tài chính mở 5 lớp
bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý tài chính cho 756 chủ tài khoản của các đơn vị dự
toán do Bộ quản lý; tổ chức tập huấn nghiệp vụ quản lý tài chính cho trên 800
chủ tài khoản; hoàn thành 06 lớp tập huấn cho trên 1.000 chấp hành viên về chế
độ kế toán nghiệp vụ thi hành án; chủ động thực hiện việc kiểm tra tình hình đầu
tư xây dựng cơ bản, tình hình xây dựng kho vật chứng tại một số công trình; thành
lập các đoàn kiểm tra tình hình thu phí thi hành án, sử dụng phí thi hành án
được để lại, công tác quản lý, sử dụng, hạch toán phí thi hành án...
Năm 2008, tỷ lệ các dự án triển khai
xây dựng của Bộ đạt trên 80% kế hoạch năm; công tác phê duyệt quyết toán dự án
đạt khoảng 60% kế hoạch năm; việc thẩm định, trình Bộ phê duyệt các dự án triển
khai xây dựng trong năm 2009 đạt 84% số dự án đưa vào kế hoạch.
Bên cạnh đó, công tác kế hoạch, tài
chính còn nhiều hạn chế, yếu kém, cụ thể như sau:
- Công tác xây dựng kế hoạch còn
chưa được tập trung vào một đầu mối; chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa việc xây dựng
kế hoạch công việc với kế hoạch tài chính dẫn đến tình trạng bị động, thậm chí
có tình trạng một số công việc đã đề ra nhưng không có kinh phí để triển khai
thực hiện.
- Tiến độ triển khai một số dự án
đầu tư xây dựng cơ bản, triển khai mua sắm tập trung toàn ngành còn chậm.
- Một số dự án đã hoàn thành bàn
giao và đưa vào sử dụng nhưng chủ đầu tư và nhà thầu chậm lập hồ sơ báo cáo quyết
toán trình Bộ xem xét phê duyệt.
- Một số dự án đưa vào Kế hoạch đầu
tư xây dựng năm 2009 nhưng chủ đầu tư chậm triển khai lập dự án trình Bộ phê
duyệt trước ngày 31/10/2008 nên không được ghi vốn năm 2009.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên
là do các nguyên nhân sau đây:
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn,
cơ cấu tổ chức, cán bộ của đơn vị giúp Bộ trưởng về công tác kế hoạch, tài chính
chậm được củng cố, kiện toàn.
- Giá cả vật tư năm 2008 có nhiều
biến động, do vậy nhiều nhà thầu trúng thầu nhưng không khởi công mà chờ Chính
phủ cho điều chỉnh giá; trình độ năng lực và hiểu biết của một số chủ đầu tư về
lĩnh vực xây dựng còn hạn chế, nên một số dự án xây dựng xong từ trước năm 2006
nhưng chủ đầu tư không đôn đốc nhà thầu lập báo cáo quyết toán, không thuê kiểm
toán để trình Bộ xem xét, phê duyệt.
- Sự phối hợp giữa các đơn vị trong
việc triển khai mua sắm tập trung không chặt chẽ nên ảnh hưởng lớn đến tiến độ
triển khai Kế hoạch.
- Một số địa phương chưa thực sự
quan tâm đến việc cấp đất xây dựng trụ sở và kho vật chứng cho các cơ quan thi hành
án dân sự nên cơ quan thi hành án chưa thể lập dự án để đề nghị cấp vốn xây
dựng trụ sở.
c) Công tác
thanh tra, kiểm tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng chống tham
nhũng
Công tác thanh tra được thực hiện
có trọng tâm, trọng điểm trên một số lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý của Ngành.
Qua thanh tra đã đưa ra được những kiến nghị về các giải pháp tháo gỡ khó khăn,
bất cập của hệ thống pháp luật, tăng cường quản lý thuộc phạm vi quản lý của
Ngành.
Các Sở Tư pháp chú trọng kiểm tra
các quận, huyện, phường, xã về việc triển khai và thực hiện Chương trình công
tác trọng tâm của Ngành và Kế hoạch công tác tư pháp ở địa phương.
Công tác tổ chức tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo tiếp tục có chuyển biến tích cực; một số vụ việc khiếu
nại kéo dài từ nhiều năm đã được tập trung giải quyết dứt điểm; lịch tiếp công
dân của Lãnh đạo Bộ, Cục trưởng Cục Thi hành án và Chánh Thanh tra Bộ được duy
trì cơ bản theo đúng Quy chế tiếp công dân của Bộ; công tác phòng, chống tham
nhũng được thực hiện đúng quy định trong Chương trình phòng, chống tham nhũng
của Ngành.
Tuy nhiên, trong năm 2008, việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo chưa đảm bảo thời gian theo quy định của pháp luật;
chưa chú trọng thực sự đến công tác thanh tra, kiểm tra ở một số địa phương.
Nguyên nhân của tình trạng trên chủ
yếu là do đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra còn thiếu; năng lực, trình độ
chuyên môn của nhiều cán bộ thanh tra chưa ngang tầm với yêu cầu công tác. Một
số quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo còn
bất cập.
d) Công tác
văn phòng
Hoạt động của Văn phòng Bộ, Văn phòng
các Sở Tư pháp trong năm qua có nhiều chuyển biến tích cực, nhất là công tác
tổng hợp, tham mưu cho lãnh đạo Bộ, lãnh đạo các Sở trong hoạt động chỉ đạo,
điều hành, trong xây dựng, theo dõi và đôn đốc thực hiện chương trình, kế hoạch
công tác của Bộ và các cơ quan Tư pháp địa phương.
Văn phòng Bộ tham gia tích cực và
có kết quả vào hoạt động xây dựng đề án, văn bản, nhất là các dự án luật, pháp
lệnh; chủ động xây dựng lịch công tác quý, tháng, tuần của Lãnh đạo Bộ, bảo đảm
tính khoa học, hợp lý; truyền đạt kịp thời, đầy đủ, chính xác ý kiến chỉ đạo
của Lãnh đạo Bộ tới các đơn vị, đồng thời chủ động đôn đốc các đơn vị thực hiện
các ý kiến chỉ đạo đó.
Việc thành lập Phòng Tổ chức - Hành
chính ở cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh đã góp phần củng cố tổ chức và hoạt
động của hệ thống tổ chức văn phòng trong Ngành.
Hạn chế, bất cập và nguyên nhân:
công tác văn phòng, nhất là công tác tham mưu chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu
chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Bộ, lãnh đạo các Sở. Nguyên nhân chính là đội
ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, tổng hợp còn mỏng (nhất là ở Bộ), còn những
hạn chế về chuyên môn, kỹ năng thực hiện nhiệm vụ, trong khi yêu cầu công việc
đòi hỏi ngày càng cao.
9. Cải cách
hành chính, cải cách tư pháp
Trong năm 2008, Bộ tiếp tục đẩy mạnh
tiến độ triển khai Chương trình hành động của Bộ nhằm thực hiện Nghị quyết Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Năm (khóa X) về đẩy mạnh cải cách
hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, đặc biệt
tập trung vào lĩnh vực cải cách thể chế.
Các Đề án xây dựng và áp dụng hệ
thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của cơ quan Bộ Tư
pháp, Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước
thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp theo tinh thần của Quyết định số 30/QĐ-TTg
được triển khai thực hiện; cơ sở dữ liệu về thủ tục hành chính như: tích hợp
lên Cổng thông tin điện tử của Bộ trình tự, thủ tục giải quyết các thủ tục hành
chính và các mẫu đơn, tờ khai trên các lĩnh vực để các cá nhân, tổ chức có nhu
cầu tìm hiểu, tra cứu đang được xây dựng.
Trong năm qua, Bộ cũng đã tiến hành
sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 49 trong ngành Tư pháp để ghi nhận những kết
quả tích cực, chỉ rõ các bất cập, hạn chế, yếu kém, phân tích sâu nguyên nhân,
nhất là các nguyên nhân chủ quan; từ đó xác định phương hướng, nhiệm vụ và các
giải pháp thực hiện nhiệm vụ của Ngành trong cải cách tư pháp từ nay đến năm
2011.
Công tác xây dựng, hoàn thiện thể
chế trong lĩnh vực cải cách tư pháp tiếp tục được chú trọng. Các dự án, dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo, trình trong năm
2008 (như Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Thi hành án dân sự,
Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi), Luật Bồi thường nhà nước, Luật Lý lịch tư
pháp, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự 1999...) đã thể chế
hóa các quan điểm, chủ trương của Nghị quyết số 48, 49, Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ X và các hội nghị Trung ương khóa IX, khóa X về cải cách pháp luật, cải
cách hành chính và cải cách tư pháp. Những văn bản này, với những tư tưởng và
nội dung mới đang góp phần tạo nên diện mạo, vị thế mới của hoạt động tư pháp.
Bên cạnh những thành tích đã đạt
được, hoạt động cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong năm 2008 còn một số
hạn chế, yếu kém sau đây:
- Việc triển khai thực hiện hoạt
động rà soát thủ tục hành chính, triển khai hoạt động của Đề án xây dựng và áp dụng
hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu TCVN ISO 9001:2000 vào hoạt động của cơ
quan Bộ Tư pháp chậm so với kế hoạch đề ra.
- Việc triển khai các nhiệm vụ CCHC
của Bộ và các địa phương còn thiếu sự phối hợp, liên kết chặt chẽ.
- Chưa xây dựng được hệ thống cơ
sở dữ liệu hoàn chỉnh về thủ tục hành chính.
- Nhiệm vụ hoàn thiện thể chế theo
tinh thần cải cách tư pháp chưa đạt được kết quả như mong muốn. Việc chuẩn bị
dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2008 (các dự án
thuộc trách nhiệm trình Chính phủ) chưa thực sự bám sát và đảm bảo gắn kết chặt
chẽ giữa Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật (NQ48), Chiến
lược cải cách tư pháp (NQ49) và Chương trình tổng thể cải cách hành chính 2001-2010,
do đó, việc lựa chọn các ưu tiên để đưa vào Chương trình, trong một số trường hợp
chưa thật hợp lý. Việc ban hành một số văn bản hướng dẫn thực hiện các luật,
pháp lệnh, nghị định, thông tư về thể chế của Ngành còn chậm, bởi vậy nhiều
vướng mắc về thể chế, chính sách chưa được tháo gỡ kịp thời.
- Chất lượng hoạt động trong một
số lĩnh vực công tác khác của Ngành chưa cao, chưa đáp ứng được các yêu cầu mà quá
trình cải cách tư pháp đang đặt ra.
Những hạn chế, yếu kém nêu trên
là do các nguyên nhân sau đây:
- Khối lượng nhiệm vụ cải cách tư
pháp được giao cho Bộ, ngành Tư pháp quá lớn; một số nhiệm vụ triển khai trong
tình trạng “vừa thiết kế, vừa thi công”, thiếu cơ sở pháp lý cho việc thực hiện
(ví dụ: Đề án thí điểm thừa phát lại, Đề án chuẩn bị các điều kiện cần thiết để
giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án...).
- Chưa có mô hình và cơ chế phù hợp
để chỉ đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính, cải cách tư pháp
trong nội bộ Ngành (không có Ban chỉ đạo chung nên việc theo dõi, đôn đốc, kiểm
tra, giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình triển khai nhiệm vụ
chưa sâu sát, kịp thời).
- Nguồn nhân lực thực hiện cải cách
tư pháp còn thiếu, chất lượng chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ; chế độ đãi
ngộ trong việc sử dụng cán bộ pháp luật trong các ngành tư pháp kém hấp dẫn so
với các ngành khác; nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của
các cơ quan tư pháp còn nhiều khó khăn.
10. Hoạt
động chỉ đạo, điều hành công tác tư pháp
Hoạt động chỉ đạo, điều hành công
tác tư pháp năm 2008 có nhiều điểm mới và chuyển biến tích cực, cụ thể như sau:
Hoạt động chỉ đạo, điều hành chủ
yếu dựa vào chương trình, kế hoạch được xây dựng một cách nghiêm túc, đi vào thực
chất, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung giải quyết các nhiệm vụ cấp thiết,
đáp ứng đòi hỏi bức xúc mà thực tiễn đang đặt ra. Trên cơ sở các Nghị quyết,
Chương trình công tác của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, ngay từ đầu
năm, Bộ đã sớm ban hành Chương trình công tác trọng tâm của ngành Tư pháp năm
2008 (Quyết định số 49/QĐ-BTP ngày 16/01/2008), trong đó xác định rõ 7 nhóm
nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện trong năm 2008 và các năm tiếp theo. Căn cứ
các nhiệm vụ trọng tâm của Bộ, ngành và địa phương, các tổ chức, đơn vị thuộc
Bộ, tổ chức Pháp chế Bộ, ngành, cơ quan Tư pháp và cơ quan Thi hành án dân sự
các địa phương đã chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch công tác cụ thể của
mình, phù hợp với kế hoạch chung và năng lực thực tế của từng đơn vị. Phần lớn
chương trình, kế hoạch công tác đã xác định rõ mục đích, yêu cầu, nội dung thực
hiện và cách thức tổ chức thực hiện, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động
chỉ đạo, điều hành các mặt công tác của toàn Ngành và từng đơn vị.
Hoạt động chỉ đạo, điều hành sát
với thực tiễn, bám sát yêu cầu nhiệm vụ và chú trọng hướng về cơ sở. Từ nhận thức
công tác tư pháp không đứng ngoài quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, các hoạt động tư pháp đã chú trọng phục vụ trực tiếp nhu cầu của các tổ
chức, cá nhân, nhất là doanh nghiệp, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương
của Đảng và Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an
sinh xã hội. Lãnh đạo Bộ đã theo dõi sát sao, kịp thời các sự kiện thông qua
các kênh thông tin khác nhau, nhất là thông tin báo chí để kịp thời chỉ đạo xử
lý những vấn đề bức xúc liên quan đến hoạt động tư pháp. Lãnh đạo Bộ và các đơn
vị chú trọng duy trì mối liên hệ thường xuyên với cơ sở; cử nhiều đoàn về địa
phương, xuống tận cơ sở nắm tình hình, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn cơ quan tư
pháp địa phương thực hiện công tác theo chương trình, kế hoạch; kịp thời giúp
các cơ quan Tư pháp địa phương giải quyết các vướng mắc phát sinh, nhờ đó, vị
thế của công tác tư pháp ở địa phương được quan tâm hơn; quan hệ với các cấp ủy
đảng, chính quyền địa phương được tăng cường; cơ chế phối hợp mang tính liên
ngành trong tổ chức thực hiện công tác tư pháp có nhiều chuyển biến tích cực;
nhiều vướng mắc phát sinh trong thực tiễn công tác tư pháp địa phương được khắc
phục. Hội nghị giao ban 6 tháng đầu năm tại 2 miền cũng như nhiều hoạt động
khảo sát, điều tra dư luận xã hội được tiến hành mạnh ở cơ sở đã giúp lãnh đạo
Bộ, thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ nắm bắt nhu cầu thực tiễn, xây dựng chính
sách phù hợp, sớm phát hiện những khó khăn, vướng mắc ở cơ sở để kịp thời chỉ
đạo tháo gỡ và thực hiện thống nhất trong toàn quốc.
Sự phối hợp công tác giữa ngành Tư
pháp với các ngành hữu quan, nhất là với các đơn vị chức năng của Quốc hội, các
ngành Tòa án, Kiểm sát[5]; giữa Bộ với các Tổ
chức pháp chế và chính quyền địa phương; giữa cơ quan tư pháp cấp tỉnh với cấp
ủy, chính quyền cấp huyện và giữa tư pháp cấp huyện với cấp ủy, chính quyền cấp
xã được tăng cường và phát huy hiệu quả. Nhìn chung, các cơ quan tư pháp địa
phương đã chú trọng phối hợp với các ngành hữu quan, tranh thủ sức mạnh của hệ
thống chính trị ở địa phương trong triển khai thực hiện nhiệm vụ, nhất là trong
công tác thi hành án dân sự, phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý,
nhờ đó cấp ủy, chính quyền nhiều địa phương đã quan tâm hơn tới công tác tư
pháp.
Việc phân công công tác trong tập
thể Lãnh đạo Bộ có nhiều đổi mới: Bộ trưởng trực tiếp chỉ đạo, điều hành các
công việc lớn, quan trọng, các vấn đề có tính chiến lược trên tất cả các lĩnh
vực công tác của Bộ, của Ngành; các Thứ trưởng được phân công giúp Bộ trưởng
chỉ đạo, xử lý các công việc cụ thể trong từng lĩnh vực, chủ động giải quyết
các công việc chuyên môn, kế hoạch, tài chính; đề xuất ý kiến về công tác cán
bộ, thi đua, khen thưởng; chịu trách nhiệm trong thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong các đơn vị được phân
công phụ trách. Chế độ giao ban Lãnh đạo Bộ hàng tuần, giao ban Thủ trưởng các
đơn vị thuộc Bộ hàng tháng, giao ban cán bộ cấp vụ hàng quý cơ bản được duy trì
tốt; cách thức điều hành dân chủ, cởi mở; nội dung thiết thực, sau mỗi cuộc họp
đều có thông báo kết luận cụ thể, rõ ràng.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin
phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành được Bộ quan tâm, đạt được những
kết quả cụ thể; cải cách hành chính trong hoạt động chỉ đạo, điều hành tiếp tục
được đẩy mạnh.
Tuy nhiên, hoạt động chỉ đạo, điều
hành công tác tư pháp trong năm qua còn một số khó khăn, vướng mắc. Một số cơ
quan, đơn vị chưa chú trọng xây dựng chương trình công tác cụ thể, sát với chương
trình trọng tâm của địa phương và của Ngành. Bên cạnh đó, vẫn còn tình trạng
thụ động trong triển khai thực hiện nhiệm vụ; quan hệ phối hợp công tác, tuy đã
được cải thiện, nhưng chưa đồng đều ở các đơn vị, địa phương, vẫn chưa đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ.
Việc hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn,
nghiệp vụ của một số đơn vị chức năng thuộc Bộ nhiều khi chưa kịp thời. Trong
một số trường hợp, Lãnh đạo Bộ chỉ đạo rất sát sao nhưng việc tổ chức thực hiện
của các đơn vị thuộc Bộ còn chưa hiệu quả. Công tác thống kê, chế độ báo cáo,
cơ chế thông tin hai chiều còn nhiều hạn chế; số liệu báo cáo không đầy đủ, một
số trường hợp thiếu chính xác; nội dung báo cáo chưa phân tích, đánh giá sâu
tình hình thực hiện nhiệm vụ, ít đề xuất được các giải pháp xác đáng.
Đánh giá chung:
Công tác tư pháp năm 2008 được toàn
Ngành triển khai có trọng tâm, trọng điểm, bám sát các Nghị quyết của Đảng,
Quốc hội, Chính phủ và nhiệm vụ chính trị của từng địa phương. Nhiều lĩnh vực
công tác đạt kết quả tốt, đóng góp tích cực vào những thành tựu chung của đất
nước về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, trật tự an
toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và sự nghiệp xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN. Nhờ đó, vai trò của công tác tư pháp trong đời sống chính
trị, kinh tế - xã hội ngày càng được khẳng định; vị trí của Ngành từ Trung ương
đến địa phương ngày càng được củng cố, tăng cường. Bên cạnh đó, công tác tư
pháp năm 2008 vẫn còn một số hạn chế, yếu kém cần nghiêm túc kiểm điểm, đánh
giá đúng nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, rút kinh nghiệm và kịp thời
chấn chỉnh, khắc phục để công tác năm 2009 được triển khai đúng phương hướng,
có trọng tâm, trọng điểm với những chuyển biến mạnh mẽ hơn.
Qua một năm công tác có thể rút ra
một số bài học cơ bản sau đây:
Thứ nhất, phải biết tranh thủ sự
lãnh đạo, chỉ đạo, sự quan tâm, ủng hộ của các cấp ủy đảng, chính quyền các
cấp, nhất là sự lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, sự chỉ đạo của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ; cần kịp thời báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo về những khó
khăn, vướng mắc hoặc những vấn đề mới.
Thứ hai, xác định đúng công việc
trọng tâm, trọng điểm và có giải pháp thực hiện phù hợp; chủ động bám sát kế hoạch,
nhiệm vụ chính trị của Chính phủ, Bộ, Ngành và địa phương.
Thứ ba, quan tâm xây dựng, hoàn thiện
thể chế; chú trọng công tác quy hoạch, kế hoạch và điều hành theo kế hoạch; đặc
biệt coi trọng công tác tổ chức, cán bộ, nhất là việc kiện toàn người đứng đầu
đủ năng lực, trình độ, gương mẫu về phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm và
hoàn thành công tác.
Thứ tư, sâu sát, quyết liệt trong
chỉ đạo, điều hành; hướng mạnh các hoạt động về cơ sở, lắng nghe ý kiến phản
ánh từ cơ sở, từ xã hội.
Thứ năm, chủ động thiết lập, thường
xuyên duy trì, sử dụng hiệu quả quan hệ phối hợp công tác trong và ngoài Ngành.
Phần thứ
hai:
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CÔNG TÁC TƯ PHÁP NĂM 2009
Năm 2009, tình hình kinh tế - xã
hội tiếp tục đứng trước nhiều khó khăn, thách thức: cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu và suy thoái kinh tế tiếp tục tác động xấu đến sự phát triển kinh tế nước
ta; hầu hết các ngành sản xuất bị suy giảm, thị trường trong và ngoài nước bị
thu hẹp; những tồn tại, bất cập vốn có của nền kinh tế nước ta vẫn còn. Trước
những diễn biến mới của tình hình, để ngăn chặn suy giảm sâu của nền kinh tế,
duy trì tăng trưởng hợp lý, tạo tiền đề thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010, Quốc hội đã thông qua mục tiêu phát triển
kinh tế xã hội năm 2009, trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện các
giải pháp để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, duy
trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội.
Năm 2009 đặt ra những nhiệm vụ nặng
nề cho Ngành Tư pháp: đây là năm thứ tư triển khai thực hiện Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam và Chiến lược cải cách tư pháp
theo Nghị quyết số 48/NQ-TW, Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị với quy mô
ngày càng rộng và nội dung ngày càng sâu sắc; Ngành phải triển khai thực hiện
những nhiệm vụ mới, phức tạp, trong khi quá trình hội nhập và phát triển của
đất nước, kỳ vọng của người dân vào công lý, công bằng xã hội đặt ra những yêu
cầu ngày càng cao đối với công tác tư pháp.
Bên cạnh đó, việc triển khai nhiệm
vụ công tác tư pháp năm 2009 cũng có những điều kiện thuận lợi. Sự quan tâm của
Đảng, Quốc hội, Chính phủ đối với công tác tư pháp ngày càng lớn, thể hiện rõ
qua những chủ trương, chiến lược về hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư
pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN; thể chế, bộ máy của Ngành đã được kiện
toàn một bước; chức năng, nhiệm vụ được mở rộng; vai trò, vị thế của Ngành
trong hệ thống chính trị ngày càng được nâng cao và được xã hội ghi nhận; sự
phối hợp giữa ngành Tư pháp với các Bộ, ngành, địa phương ngày càng được tăng
cường.
Ngành Tư pháp đề ra phương hướng,
nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu thực hiện công tác tư pháp năm 2009 như sau:
I. PHƯƠNG
HƯỚNG
1. Bám sát kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội năm 2009 của đất nước, Nghị quyết của Chính phủ về chỉ đạo, điều
hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà
nước năm 2009, kịp thời tham mưu cho Chính phủ, các Bộ, ngành, HĐND, UBND các
cấp xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý phục vụ đắc lực cho việc thực hiện nhiệm
vụ. Hoàn thành kế hoạch xây dựng các dự án luật, pháp lệnh của Ngành; tham mưu,
phối hợp cùng các Bộ, ngành, địa phương trong hoạt xây dựng pháp luật. Đẩy mạnh
hoạt động rà soát, kiểm tra VBQPPL do các cơ quan Trung ương và địa phương ban
hành, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam. Triển khai nhiệm vụ theo dõi chung tình hình thi hành pháp luật trên phạm vi cả nước
và ở từng Bộ, ngành, địa phương; tham mưu, đề xuất các giải pháp thực thi hiệu
quả pháp luật, góp phần chuyển tải kịp thời đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước vào cuộc sống.
2. Tập trung nguồn lực triển khai
thực hiện Luật THADS và Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật THADS; tăng
cường cơ sở vật chất, thể chế, chính sách, tổ chức cán bộ nhằm chấn chỉnh và
tạo chuyển biến tích cực trong công tác THADS trên phạm vi toàn quốc.
3. Tham mưu, phối hợp, theo dõi,
hướng dẫn công tác xây dựng và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực hành chính tư
pháp, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ để Nhà nước quản lý thống nhất và bảo vệ các quyền
nhân thân của cá nhân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Tổ chức thi hành
tốt Luật Quốc tịch Việt Nam (sửa đổi).
4. Tham mưu, phối hợp, theo dõi,
hướng dẫn công tác xây dựng và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp.
Đánh giá tình hình thực hiện Luật Công chứng và hoạt động công chứng, chứng
thực trên cả nước. Nghiên cứu cơ chế, chính sách để tiếp tục huy động các thành
phần xã hội cùng tham gia nhằm thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa hoạt động bổ
trợ tư pháp.
5. Đẩy mạnh cải cách hành chính,
cải cách tư pháp trong phạm vi quản lý của Ngành. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, tổ
chức cán bộ của Ngành để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được phân công; kiện
toàn tổ chức hệ thống cơ quan THADS và cơ quan tư pháp xã, phường, thị trấn.
Nâng cao năng lực các cơ sở đào tạo trực thuộc Bộ Tư pháp và tạo chuyển biến
mạnh mẽ về chất lượng đào tạo luật, đào tạo nghề. Triển khai thực hiện Đề án
"Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội thành trường đại học trọng điểm đào
tạo cán bộ về pháp luật” và Đề án "Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung
tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp” sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt.
6. Tăng cường hơn nữa sự phối hợp
với các Bộ, ngành ở Trung ương, các cấp ủy, chính quyền địa phương trong quá
trình triển khai các hoạt động của Ngành, coi đây là một yếu tố quan trọng góp
phần vào thành công của công tác tư pháp. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực tư pháp để tận dụng các nguồn lực bên ngoài triển khai tốt các nhiệm vụ của
Ngành.
II. CÁC
NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Đẩy
nhanh tiến độ, nâng cao chất lượng công tác xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà
soát, hệ thống hóa VBQPPL
- Hoàn thành đúng tiến độ, đảm bảo
chất lượng các dự án, dự thảo văn bản pháp luật mà Ngành được giao chủ trì soạn
thảo theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, Chương trình công
tác của Chính phủ, các Bộ, ngành, HĐND và UBND; thực hiện tốt công tác tham mưu
cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong thực hiện Chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh của Quốc hội.
- Cải thiện một bước chất lượng thẩm
định VBQPPL, chú trọng đánh giá tính khả thi, hiệu quả kinh tế - xã hội, khuyến
khích những điểm mới mang tính đột phá của các đề án, dự án VBQPPL, nhất là
trong lĩnh vực pháp luật kinh tế, hội nhập quốc tế.
- Tiếp tục triển khai có hiệu quả
hoạt động kiểm tra, xử lý, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL theo thẩm quyền, trách
nhiệm và kế hoạch công tác; triển khai thực hiện Đề án tổng rà soát, hệ thống
pháp luật Việt Nam, trước hết là các VBQPPL do Trung ương ban hành; theo dõi,
đôn đốc quá trình xử lý văn bản trái pháp luật đã được phát hiện; thực hiện tốt
việc rà soát các VBQPPL theo cam kết khi gia nhập và trong khuôn khổ nghĩa vụ
thành viên WTO.
Các giải pháp chủ yếu:
- Tiến hành đồng bộ các công việc
để triển khai thực hiện Luật ban hành VBQPPL, như: chủ động ban hành hoặc phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật;
tích cực tuyên truyền phổ biến, tập huấn những nội dung cơ bản của Luật; tham
mưu cho Chính phủ, các Bộ, ngành tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc
trong khi thi hành Luật; tăng cường cơ sở vật chất và nhân sự cho các đơn vị
trực tiếp triển khai thi hành Luật.
- Tổ chức pháp chế Bộ, ngành, các
cơ quan Tư pháp địa phương chủ động tham gia tích cực vào hoạt động xây dựng
pháp luật ở Bộ, ngành, địa phương mình, thực sự trở thành bộ phận tham mưu, chỗ
dựa đáng tin cậy cho các Bộ, ngành, HĐND, UBND trong việc xây dựng chính sách,
pháp luật.
- Triển khai hiệu quả Đề án nâng
cao chất lượng thẩm định của Bộ Tư pháp đối với dự án, dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật và Điều ước quốc tế; Đề án về đổi mới và nâng cao hiệu quả trong công
tác rà soát, hệ thống hóa VBQPPL; Đề án tăng cường năng lực trong công tác kiểm
tra, xử lý VBQPPL.
- Kiện toàn tổ chức, hoạt động của
hệ thống kiểm tra văn bản trên toàn quốc; bổ sung cán bộ làm công tác văn bản ở
các địa phương; chú trọng hướng dẫn nghiệp vụ, tập huấn cho cán bộ trực tiếp
làm công tác văn bản.
- Tích cực, chủ động trong việc phối
hợp với các Bộ, ngành, địa phương xây dựng, thẩm định, kiểm tra, rà soát hệ
thống VBQPPL; tham gia ngay từ khâu đầu tiên của quy trình soạn thảo VBQPPL ở
tất cả các Bộ, ngành.
- Sử dụng tốt hơn nữa cơ chế phản
biện xã hội trong việc thẩm định các dự án, đề án xây dựng luật; khai thác tốt
các kênh thông tin báo chí và ý kiến phản hồi của người dân và doanh nghiệp về
những bất cập của pháp luật để kịp thời kiểm tra, rà soát hệ thống VBQPPL.
2. Tiếp
tục nâng cao hiệu quả, tạo bước chuyển biến mạnh trong công tác thi hành án dân
sự
- Toàn ngành THADS phấn đấu đạt và
vượt chỉ tiêu thi hành xong 75 % về việc và 55% về tiền trên số vụ việc có điều
kiện thi hành, giảm từ 10 đến 15% án tồn đọng.
- Giải quyết khiếu nại đúng thời
hạn, đúng pháp luật ngay từ cơ sở, giảm thiểu đến mức tối đa những khiếu nại phức
tạp mới phát sinh; giảm từ 20 đến 25 % các vụ khiếu nại phức tạp, kéo dài.
- Triển khai thực hiện tốt Luật THADS,
Nghị quyết của Quốc hội về thi hành Luật THADS, tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ
trong công tác THADS; triển khai Đề án thực hiện thí điểm chế định thừa phát
lại tại TP. HCM khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, từ đó nghiên cứu phương
án mở rộng địa bàn thí điểm sang một số địa phương khác.
- Xây dựng và trình Đề án chuẩn bị
các điều kiện cần thiết để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản
lý Nhà nước về thi hành án, Đề án thành lập cơ quan thi hành án khu vực.
Các giải pháp chủ yếu:
- Giao chỉ tiêu cụ thể về thi hành
án theo từng địa bàn, từng địa phương; tổ chức các đợt cao điểm thi hành án
trong cà nước; hoàn thành việc tổng rà soát các vụ việc tồn đọng chưa thi hành.
- Chủ động ban hành hoặc phối hợp
với các Bộ, ban, ngành liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
THADS; tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, tập huấn những nội dung cơ
bản của Luật; tham mưu cho Chính phủ, các Bộ, ngành tháo gỡ kịp thời những khó
khăn, vướng mắc trong khi thi hành Luật...
- Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt
Chỉ thị số 21/2008/CT-TTg ngày 01/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục
tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác THADS.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ
quan THADS các cấp; chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương, nâng cao tính chủ động, sáng
tạo và tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức làm công tác THADS; động
viên, khen thưởng, nêu gương kịp thời các đơn vị, cá nhân có thành tích trong
công tác THADS, đồng thời xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật và đạo đức
nghề nghiệp.
- Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy,
chính quyền địa phương trong công tác kiện toàn cán bộ lãnh đạo, quản lý, Chấp
hành viên các cơ quan THADS tại địa phương, trong việc chỉ đạo tổ chức các đợt
cao điểm THADS tại những nơi có số lượng án lớn, phức tạp; phối hợp chặt chẽ
với Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các Tòa án và Viện
kiểm sát nhân dân địa phương để tháo gỡ kịp thời những vướng mắc trong công tác
THADS.
- Thực hiện đúng, đầy đủ trình tự,
thủ tục THADS; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra về thi hành án, nhất là
đối với những nơi có đơn thư khiếu nại, tố cáo; tổ chức kiểm tra liên ngành về
thực hiện quy định xét miễn, giảm khoản án phí, tiền phạt.
- Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các
đề án về tăng cường cơ sở vật chất, xây dựng trụ sở, kho vật chứng, kinh phí
hoạt động cho các cơ quan THADS.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về thi
hành án để tranh thủ sự hỗ trợ về kỹ thuật cho công tác nghiên cứu, đề xuất việc
hoàn thiện thể chế, thủ tục THADS và bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán
bộ, công chức thi hành án.
3. Tăng
cường chất lượng của hoạt động chứng thực, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp
nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của nhân dân; tăng cường quản lý Nhà nước trong
lĩnh vực hành chính tư pháp
- Triển khai thực hiện Luật Quốc
tịch Việt Nam (sửa đổi).
- Tiếp tục chỉnh lý Luật Lý lịch
tư pháp, triển khai xây dựng Luật Con nuôi; chuẩn bị và đề xuất đưa việc xây dựng
Luật Hộ tịch vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội; tham gia
Công ước LaHay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi quốc tế.
- Chuẩn hóa các mẫu giấy tờ hộ
tịch, giải quyết dứt điểm vấn đề thiếu biểu mẫu hộ tịch.
- Tăng cường quản lý Nhà nước, đảm
bảo lành mạnh hóa quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài và việc cho con nuôi
người nước ngoài.
- Giải quyết dứt điểm vấn đề quốc
tịch cho người Campuchia tị nạn; giải quyết tình trạng di cư tự do, vượt biên
trái phép và kết hôn không giá thú ở khu vực biên giới Việt Nam - Lào.
Các giải pháp chủ yếu:
- Chủ động ban hành hoặc phối hợp
với các Bộ, ngành có liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Quốc
tịch Việt Nam; tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến, tập huấn những nội
dung cơ bản của Luật; tham mưu cho Chính phủ, các Bộ, ngành tháo gỡ kịp thời
những khó khăn, vướng mắc trong khi thi hành Luật.
- Tham mưu cho Chính phủ, các Bộ,
ngành chuẩn bị các điều kiện và hồ sơ pháp lý để gia nhập Công ước LaHay năm
1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi quốc tế.
- Tiếp tục rà soát, đơn giản hóa
các thủ tục hành chính trong hoạt động chứng thực, hộ tịch.
- Kiện toàn đội ngũ cán bộ tư pháp
cơ sở, nhất là đội ngũ cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã, phường, thị trấn; chú
trọng công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, kiến thức pháp luật cho cán bộ tư pháp - hộ
tích cấp xã, phường, thị trấn.
- Khảo sát, đánh giá, tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài phục vụ việc xây dựng Luật nuôi con
nuôi; kiểm tra, phát hiện và khắc phục kịp thời những hạn chế, bất cập trong
công tác hành chính tư pháp; tổ chức kiểm tra công tác đăng ký kết hôn và giải
quyết các trường hợp hôn nhân có yếu tố nước ngoài; kiểm tra, rà soát, chấn
chỉnh hoạt động của các Văn phòng con nuôi nước ngoài trên toàn quốc.
- Kiểm tra, rà soát, báo cáo tình
hình và tham mưu cho Chính phủ và các Bộ, ngành liên quan trong việc giải quyết
vấn đề quốc tịch cho người Campuchia tị nạn. Tổ chức thực hiện Kế hoạch triển
khai Chỉ thị số 31/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc giải quyết tình
trạng di cư tự do, vượt biên trái phép và kết hôn không giá thú ở khu vực biên
giới Việt Nam - Lào.
4. Hoàn
thiện thể chế về bổ trợ tư pháp, tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa, tăng cường quản
lý nhà nước đối với tổ chức, hoạt động bổ trợ tư pháp
- Tổ chức thành công Đại hội đại
biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất để thành lập Liên đoàn luật sư Việt Nam.
- Hoàn thành và trình Chính phủ Đề
án về chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020, Đề án quy hoạch phát triển
nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020; nghiên cứu, đề xuất đưa việc xây dựng
Luật Đấu giá tài sản vào Chương trình xây dựng luật của Quốc hội.
- Tổ chức tổng kết 4 năm thi hành
Pháp lệnh Giám định tư pháp phục vụ việc xây dựng Dự án Luật Giám định tư pháp.
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và trình
Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 05/2005/NĐ-CP về bán đấu giá
tài sản; tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện nghiêm chỉnh quy
định của pháp luật về bán đấu giá tài sản.
- Tập trung tháo gỡ các khó khăn,
vướng mắc trong hoạt động công chứng, tăng cường sự phối hợp giữa các tổ chức
hành nghề công chứng.
Các giải pháp chủ yếu:
- Phối hợp chặt chẽ với Ban Chỉ đạo
Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất chỉ đạo Hội đồng lâm thời luật
sư toàn quốc khẩn trương hoàn thành các công việc chuẩn bị tổ chức Đại hội.
- Tiến hành nghiên cứu, xác định
rõ mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động giám định tư pháp; thực hiện các biện pháp
thu hút cơ quan, tổ chức, chuyên gia giỏi tham gia hoạt động giám định tư pháp;
phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành và địa phương tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng
mắc về chế độ, chính sách trong hoạt động giám định tư pháp.
- Khẩn trương tổ chức lấy ý kiến
của các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức có liên quan về Dự thảo Nghị định thay thế
Nghị định số 05/2005/NĐ-CP; chủ động trao đổi, thống nhất về những vấn đề có ý
kiến khác nhau của Dự thảo Nghị định.
- Sơ kết, đánh giá kết quả hai năm
thực hiện Luật Công chứng năm 2006; kiến nghị những điểm bất cập và tham mưu
cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phương hướng sửa đổi, bổ sung cho phù hợp;
nghiên cứu, đề xuất phương án chuyển giao thẩm quyền chứng thực các hợp đồng,
giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất từ UBND sang cho các tổ chức công
chứng.
5. Tăng
cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, báo chí, xuất
bản, ứng dụng công nghệ thông tin góp phần nâng cao nhận thức và ý thức chấp
hành pháp luật của đội ngũ cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân, hỗ trợ
đắc lực cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Ngành trong giai đoạn hiện nay
a) Về công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật
- Phối hợp với Văn phòng Trung ương
Đảng giúp Ban Bí thư tổ chức sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày
09/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.
- Tiếp tục thực hiện Chương trình
phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ từ năm 2008 - 2012; triển khai Đề án
củng cố và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho công tác PBGDPL giai đoạn
2008 - 2012.
- Tiếp tục thực hiện Giai đoạn II
(2009 - 2010) Chương trình hành động quốc gia PBGDPL và nâng cao ý thức chấp hành
PL cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 - 2010 (Chương trình
212) và Đề án 4 trong Chương trình 212.
- Triển khai xây dựng các dự thảo
Luật PBGDPL và Luật Hòa giải, góp phần thực hiện tốt công tác hoà giải ở cơ sở.
Các giải pháp chủ yếu:
- Rà soát, đánh giá lại kết quả triển
khai các chương trình, đề án về công tác PBGDPL, phát hiện những tồn tại yếu
kém, tìm ra những nguyên nhân để từ đó có các giải pháp khắc phục.
- Chọn lọc và nhân rộng những gương
điển hình, những cách làm mới, hiệu quả trong hoạt động PBGDPL.
- Tiếp tục củng cố, phát huy vai
trò của Hội đồng phối hợp công tác PBGDPL ở các cấp.
- Tăng cường năng lực của đội ngũ
cán bộ làm công tác PBGDPL, nhất là ở cấp huyện và xã.
- Phát huy vai trò, tác dụng của
mô hình Tủ sách pháp luật tại xã, phường, thị trấn.
b) Về công tác trợ giúp pháp lý
- Nghiên cứu xây dựng Chiến lược
phát triển hoạt động TGPL đến năm 2020 để trình Thủ tướng Chính phủ ban hành vào
năm 2010. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
TGPL. Khảo sát, đánh giá thực tiễn về tính khả thi của các văn bản, đề án đã
ban hành, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
- Xây dựng Kế hoạch triển khai thực
hiện Quyết định số 792/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch mạng lưới
Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008-2010, định
hướng đến năm 2015 và tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch đó;
- Tiếp tục chỉ đạo các địa phương
triển khai thực hiện Luật TGPL, Nghị định số 07/2007/NĐ-CP và Chỉ thị số 35/2006/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ, trong đó tập trung vào việc củng cố, kiện toàn tổ chức
bộ máy các Trung tâm TGPL theo Thông tư liên tịch số 08/2008/TTLT-BTP-BNV. Phát
triển mạng lưới Chi nhánh, Tổ cộng tác viên TGPL ở cấp huyện và Câu lạc bộ TGPL
ở cấp xã.
- Tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn các
địa phương thực hiện có hiệu quả chính sách TGPL trong Chương trình mục tiêu
quốc gia giảm nghèo và Chương trình 135 giai đoạn II.
- Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động TGPL
lưu động ở vùng sâu, vùng xa và hoạt động trợ giúp cho các đối tượng là người
dân tộc, đối tượng chính sách. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Thông
tư liên tịch số 10/TTLT phối hợp thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng.
Các giải pháp chủ yếu:
- Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ
chức các Trung tâm TGPL; phát triển mạng lưới Chi nhánh, Tổ cộng tác viên TGPL ở
cấp huyện và Câu lạc bộ TGPL ở cấp xã; tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ và
cộng tác viên TGPL; mở rộng mạng lưới cộng tác viên ở cấp huyện và cấp xã; chỉ
đạo thực hiện tốt Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc TGPL, Quy tắc nghề
nghiệp TGPL.
- Triển khai hiệu quả hoạt động của
Quỹ TGPL; khảo sát, dự báo nhu cầu hỗ trợ và xây dựng kế hoạch hỗ trợ từ Quỹ
TGPL cho các địa phương; hướng dẫn triển khai các hoạt động TGPL cho các đơn vị
nhận hỗ trợ từ Quỹ; phối hợp với Sở Tư pháp và Kho bạc Nhà nước để kiểm tra
việc thực hiện.
- Tăng cường năng lực cho đội ngũ
cán bộ của các Trung tâm, Chi nhánh, phát triển đội ngũ Cộng tác viên ở cấp huyện
và cấp xã.
- Thường xuyên chỉ đạo, hướng dẫn,
kiểm tra việc thực hiện Dự án, kịp thời hướng dẫn các địa phương tháo gỡ khó
khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện Dự án bảo đảm có hiệu quả, đúng cam
kết và theo quy định của pháp luật.
- Tăng cường kiểm tra, đánh giá chất
lượng vụ việc TGPL nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động TGPL.
c) Về công tác báo chí, xuất bản:
- Chuyển tải kịp thời thông tin về
hoạt động của Ngành; nâng cao chất lượng, tính thời sự và hàm lượng khoa học của
các tin, bài, ấn phẩm phát hành.
- Triển khai thực hiện Đề án đổi
mới tổ chức và hoạt động của Báo Pháp luật Việt Nam, Đề án Báo điện tử Báo Pháp
luật Việt Nam; Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà xuất bản Tư pháp (sau
khi được phê duyệt).
- Nhanh chóng ổn định hoạt động của
Nhà xuất bản Tư pháp; giải quyết dứt điểm những vướng mắc, tồn đọng trong phát
hành biểu mẫu, sổ sách và các loại tài liệu của Nhà xuất bản Tư pháp.
Các giải pháp chủ yếu:
- Có cơ chế khuyến khích cán bộ,
công chức, viên chức tham gia viết bài, đưa tin cho các báo, tạp chí, ấn phẩm của
Ngành.
- Nâng cao ý thức chính trị, bản
lĩnh nghề nghiệp, trình độ chuyên môn (nhất là chuyên môn về luật), nghiệp vụ báo
chí cho đội ngũ phóng viên, cộng tác viên và những người làm công tác báo chí,
xuất bản.
- Đa dạng hóa các kênh phát hành
báo, tạp chí và các ấn phẩm pháp lý, chú trọng công tác quảng cáo, quan hệ công
chúng để xây dựng hình ảnh, thương hiệu cho các báo, tạp chí, chuyên san, Nhà xuất
bản của Ngành.
d) Về ứng dụng công nghệ thông
tin
- Tiếp tục triển khai Kế hoạch ứng
dụng công nghệ thông tin trong ngành theo Quyết định số 43/2008/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động
của cơ quan nhà nước năm 2008; triển khai Chỉ thị số 34/2008/CT-TTg ngày 3-12-2008
của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường sử dụng thư điện tử phục vụ công việc của
Ngành.
- Triển khai Kế hoạch ứng dụng công
nghệ thông tin trong hoạt động của Bộ năm 2009-2010 ban hành kèm theo Quyết
định số 1579/QĐ-BTTTT ngày 24/10/2008 của Bộ Thông tin và Truyền thông.
- Triển khai hệ thống thông tin ngành
Tư pháp thông suốt từ Bộ đến các Sở Tư pháp, cơ quan THADS địa phương; ứng dụng
phần mềm quản lý văn bản và hồ sơ công việc; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để
tổ chức giao lưu, giao ban trực tuyến.
Các giải pháp chủ yếu:
- Đôn đốc, giám sát, đẩy nhanh tiến
độ thực hiện các kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực hoạt
động của Ngành, nhất là trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, báo cáo, thống
kê công tác tư pháp.
- Xây dựng quy chế và tổ chức thực
hiện tốt việc tiếp nhận, cung cấp thông tin theo nguyên tắc công khai, minh
bạch, kịp thời, đầy đủ và chính xác, đảm bảo an toàn thông tin trên môi trường
mạng theo quy định của pháp luật;
- Đổi mới và nâng cao chất lượng
các Trang thông tin trên Cổng thông tin điện tử của Bộ.
- Kiện toàn tổ chức, nhân sự của
Cục Công nghệ thông tin.
- Tiếp tục nâng cao trình độ tin
học của cán bộ, công chức, viên chức; hình thành thói quen làm việc trên văn bản
điện tử, môi trường mạng và hệ thống thông tin trợ giúp.
- Đầu tư đầy đủ, đồng bộ các thiết
bị kỹ thuật phục vụ cho việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công việc của
Ngành.
6. Đẩy
mạnh hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp
- Tiếp tục triển khai hiệu quả Luật
tương trợ tư pháp năm 2007, Nghị định số số 78/2008/NĐ-CP ngày 17/7/2008 về hợp
tác với nước ngoài về pháp luật.
- Củng cố quan hệ hợp tác quốc tế
về pháp luật và tư pháp với các nước, tổ chức quốc tế; mở rộng hợp tác với các
nước có tiềm năng; chú trọng tăng cường hợp tác với các đối tác truyền thống,
các nước láng giềng các nước trong khu vực.
- Xây dựng chiến lược hợp tác quốc
tế của Bộ, Ngành, trong đó chú trọng tăng cường quan hệ hợp tác với các nước
trong khu vực, các nước có truyền thống pháp lý tương tự Việt Nam.
Các giải pháp chủ yếu:
- Rà soát, đánh giá tình hình triển
khai hiệu quả Luật tương trợ tư pháp và tham mưu cho Chính phủ, các Bộ, ngành
liên quan có các biện pháp tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong
thực tiễn thi hành Luật.
- Tham mưu với Chính phủ, Nhà nước
ký kết, tham gia các điều ước, diễn đàn quốc tế về pháp luật và tư pháp (kết
thúc đàm phán Hiệp định tương trợ tư pháp với Vương quốc Anh, An-Giê-ri; chuẩn
bị phương án đàm phán với Campuchia, Ấn Độ, Đài Loan...; nghiên cứu tham gia
một số công ước quốc tế La Hay về tư pháp quốc tế).
- Tiếp tục huy động các nguồn hỗ
trợ quốc tế, tham khảo kinh nghiệm các nước phục vụ các mục tiêu cải cách pháp luật,
cải cách tư pháp và Chương trình công tác trọng tâm năm 2009 của Ngành.
- Chủ động hơn nữa trong việc xây
dựng chiến lược hợp tác quốc tế của Bộ, Ngành trên cơ sở bám sát và để thực hiện
tốt nhiệm vụ của Bộ, Ngành.
7. Tiếp
tục kiện toàn công tác tổ chức - cán bộ của Ngành, xây dựng đội ngũ cán bộ tư
pháp trong sạch, vững mạnh; tạo chuyển biến thực sự về chất lượng đào đào cán
bộ pháp luật
a) Về công tác tổ chức cán bộ của
Ngành
- Tiếp tục triển khai Nghị định 93/2008/NĐ-CP
của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ
Tư pháp; kiện toàn các đơn vị thuộc Bộ; triển khai tổ chức và hoạt động của các
đơn vị mới được thành lập theo Nghị định 93/2008/NĐ-CP.
- Triển khai thực hiện tốt Thông
tư thay thế Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-BTP-BNV Hướng dẫn về chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về
công tác tư pháp ở địa phương.
- Hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát
triển ngành Tư pháp đến năm 2020.
- Triển khai thực hiện tốt nhiệm
vụ theo dõi chung về thi hành pháp luật.
Các giải pháp chủ yếu:
- Làm tốt công tác quy hoạch cán
bộ, điều chỉnh quy hoạch cán bộ theo định kỳ, chú trọng điều kiện phát triển của
công chức trẻ, công chức nữ; tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác
đào tạo cán bộ có trình độ phục vụ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tiếp tục kiện
toàn đội ngũ cán bộ, đặc biệt chú trọng đến các đơn vị mới thành lập và đơn vị
chuyển giao hoặc được bổ sung nhiệm vụ; Bộ tiếp tục hỗ trợ các địa phương trong
công tác chuẩn hóa đội ngũ công chức tư pháp, tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp
vụ cho tư pháp cấp huyện, cấp xã.
- Thực hiện việc điều động, luân
chuyển cán bộ, đặc biệt là việc luân chuyển cán bộ từ Trung ương về địa phương và
luân chuyển cán bộ trẻ đi địa phương để nâng cao hiểu biết thực tế về tư pháp
địa phương.
- Tiếp tục đẩy mạnh việc phân cấp,
phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị thuộc Bộ và các địa
phương trong công tác tổ chức cán bộ.
b) Về công tác đào tạo cán bộ pháp
luật
- Triển khai thực hiện Đề án
"Xây dựng trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ
về pháp luật" và Đề án "Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn
đào tạo các chức danh tư pháp" sau khi được Chính phủ phê duyệt.
- Hoàn thiện Đề án thành lập một
số trường trung cấp luật trình các cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt và đưa vào
triển khai thực hiện.
- Tạo chuyển biến mạnh về chất lượng
trong hoạt động đào tạo luật, đào tạo các chức danh tư pháp.
Các giải pháp chủ yếu:
- Chỉ đạo Trường Đại học Luật Hà
Nội và Học viện Tư pháp tích cực xúc tiến công tác triển khai Đề án "Xây dựng
trường Đại học Luật Hà Nội thành trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật"
và Đề án "Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức
danh tư pháp" sau khi được Chính phủ phê duyệt. Bộ Tư pháp chủ trì, phối
hợp với các Bộ, ngành liên quan tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính
sách, kinh phí, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình
triển khai các Đề án trên.
- Phối hợp chặt chẽ với Bộ Giáo dục
và Đào tạo triển khai thực hiện Đề án đưa pháp luật các nước ASEAN vào giảng
dạy trong các cơ sở đào tạo luật.
- Xây dựng và thực hiện hiệu quả
cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan (như Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Liên đoàn Luật sư Việt Nam) trong hoạt động đào
tạo nguồn bổ nhiệm các chức danh tư pháp nhằm tháo gỡ các khó khăn trước mắt,
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo các chức danh tư pháp.
c) Về công tác nghiên cứu khoa học
- Tập trung nghiên cứu cơ bản, làm
rõ cơ sở lý luận và thực tiễn để phục vụ việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, nhất là thể chế Ngành; xây dựng chiến lược
phát triển Ngành Tư pháp; nghiên cứu hỗ trợ phân tích chính sách, tác động kinh
tế - xã hội nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật và các thiết chế
thực hiện pháp luật; nghiên cứu những vấn đề mới, hiện đại trong khoa học pháp
lý quốc tế và đề xuất khả năng áp dụng vào Việt Nam; nghiên cứu chuyên sâu góp
phần hình thành những trường phái, học thuyết pháp luật của Việt Nam.
- Chú trọng nghiên cứu ứng dụng,
góp phần triển khai thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ của Ngành.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính
sách, phương thức tổ chức công tác nghiên cứu khoa học, đánh giá kết quả và triển
khai ứng dụng kết quả đề tài vào trong thực tiễn.
Các giải pháp chủ yếu:
- Tăng cường đầu tư kinh phí cho
công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Ngành, của Bộ, nhất là cho các đầu mối
nghiên cứu khoa học như Viện Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật Hà Nội,
v.v...
- Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới, hoàn
thiện quy trình xây dựng đề tài, tổ chức đấu thầu, triển khai nghiên cứu. Có cơ
chế thỏa đáng để khuyến khích cán bộ, công chức, viên chức của Bộ và của Ngành
tích cực tham gia nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ chuyên môn của bản
thân, tích lũy kiến thức chuyên sâu và đóng góp cho hoạt động của Bộ, Ngành.
- Đa dạng hóa hình thức tổ chức nghiên
cứu khoa học theo phương châm thiết thực, hiệu quả; phát huy trí tuệ của đội
ngũ chuyên gia trong và ngoài Ngành; gắn kết nghiên cứu lý luận với nghiên cứu
thực tiễn hoạt động tư pháp, chú trọng ứng dụng kết quả nghiên cứu vào các lĩnh
vực công tác của Ngành.
- Tăng cường hợp tác quốc tế để tranh
thủ các nguồn lực bên ngoài cho công tác nghiên cứu khoa học pháp lý.
8. Thực
hiện các công tác tư pháp khác trong phạm vi chức năng, thẩm quyền của Bộ, ngành
a) Về công tác đăng ký giao dịch
bảo đảm
- Tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện dự
thảo và nghiên cứu kiến nghị đưa Luật Đăng ký GDBĐ và Luật Đăng ký bất động sản
vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội năm 2010.
- Nghiên cứu xây dựng các văn bản
hướng dẫn về đăng ký giao dịch bảo đảm trực tuyến; sửa đổi văn bản liên tịch
hướng dẫn việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn
liền với đất cho phù hợp với thực tiễn và các quy định pháp luật mới;
- Xây dựng phần mềm quản lý, tra
cứu và khai thác thông tin về văn bản thông báo tài sản kê biên để thực hiện
thi hành án.
Các giải pháp chủ yếu:
- Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong công tác đăng ký, cung cấp thông tin cho khách hàng; xây dựng
quy trình đăng ký thống nhất giữa các Trung tâm đăng ký, tăng cường và hiện đại
hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các Trung tâm đăng ký.
- Tăng cường kiểm tra hoạt động đăng
ký GDBĐ ở địa phương; tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật,
tổ chức một số lớp tập huấn về GDBĐ và đăng ký GDBĐ cũng như phát hành sách
hướng dẫn nghiệp vụ về GDBĐ cho các tổ chức tín dụng và cá nhân tổ chức khác có
nhu cầu tìm hiểu.
b) Về công tác kế hoạch, tài
chính
- Đổi mới cơ bản công tác xây dựng
kế hoạch và phân bổ ngân sách hàng năm của Bộ theo phương châm kế hoạch định
hướng cho phân bổ ngân sách, ngân sách phải phục vụ việc thực hiện kế hoạch của
Bộ, Ngành.
- Tích cực hơn nữa trong việc phối
hợp với các đơn vị cũng như địa phương về xây dựng trụ sở làm việc, kho vật
chứng cho cơ quan thi hành án dân sự địa phương.
- Triển khai thực hiện nhiệm vụ xây
dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn, năm năm và hàng năm và công tác
thống kê của ngành.
- Kiểm tra công tác quản lý tài chính,
tài sản, kế toán nghiệp vụ thi hành án và tình hình đầu tư xây dựng cơ bản ở
các đơn vị cơ sở; phối hợp với địa phương để hoàn thành việc kê khai cơ sở nhà
đất theo Quyết định số 09/2008/QĐ-TTg ngày 11/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quy định nguyên tắc thiết kế và tiêu chuẩn sử dụng nhà ở công vụ.
- Đẩy mạnh việc thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí; kiên quyết chống tham nhũng.
Các giải pháp chủ yếu:
- Chủ động nắm bắt kế hoạch hoạt
trong năm của các đơn vị và chương trình hành động trọng tâm của Ngành để đưa ra
định hướng phân bổ ngân sách cho phù hợp, ưu tiên cao nhất cho việc hoàn thành
các nhiệm vụ của Bộ, Ngành.
- Thông báo vốn đầu tư kịp thời ngay
từ đầu năm, bảo đảm đủ định mức cho các đơn vị dự toán, các dự án. Theo dõi sát
sao việc thực hiện kế hoạch ngân sách của các đơn vị để có những bổ sung, điều
chỉnh kịp thời. Kiên quyết xử lý những đơn vị, cá nhân không thực hiện đúng kế
hoạch ngân sách đã được phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật, kể cả yêu
cầu phải xuất toán.
- Chủ động tổ chức các lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác kế hoạch - tài chính tại cơ quan tư pháp địa
phương, nhất là trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng kế hoạch.
c) Về công tác thanh tra, tiếp dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo
- Xây dựng trụ sở tiếp dân và kiện
toàn lại công tác tiếp dân tại các cơ quan tư pháp từ trung ương đến địa
phương.
- Nâng cao hiệu quả công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo; thanh tra, kiểm tra làm rõ và giải quyết dứt điểm một
số vụ khiếu nại phức tạp, kéo dài, dư luận xã hội quan tâm. Hạn chế tối đa tình
trạng khiếu nại, tố cáo vượt cấp, khiếu nại tố cáo lên các cơ quan Trung ương,
gây mất ổn định chính trị, xã hội.
- Thực hiện nghiêm quy định của pháp
luật về phòng, chống tham nhũng trong các đơn vị thuộc Ngành.
Các giải pháp chủ yếu:
- Đẩy mạnh hoạt động thanh tra việc
thực hiện chính sách pháp luật trong triển khai nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị;
tích cực đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các kết luận thanh tra.
- Tăng cường năng lực và đề cao trách
nhiệm giải quyết dứt điểm khiếu nại, tố cáo ngay từ cấp cơ sở, các địa phương.
- Thực hiện đúng quy trình thanh
tra, giải quyết khiếu nại tố cáo.
- Thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ thanh tra cho đội ngũ cán bộ làm công tác này,
cập nhật những kiến thức mới, nhất là kiến thức về những lĩnh vực chưa chuyên
sâu như: xây dựng, tài chính...
d) Về công tác Văn phòng
- Thực hiện tốt chức năng tham
mưu, tổng hợp, điều phối hoạt động của cơ quan, đơn vị, phục vụ sự chỉ đạo,
điều hành của Lãnh đạo Bộ, lãnh đạo cơ quan, đơn vị.
- Tăng cường vai trò đầu mối của
các tổ chức Văn phòng, chú trọng công tác tham mưu trong triển khai nhiệm vụ của
toàn Ngành. Xây dựng văn hóa làm việc, văn hóa phục vụ của Văn phòng theo phương
châm: Chuyên nghiệp - Hiện đại - Thân thiện.
Các giải pháp chủ yếu:
- Tiếp tục kiện toàn và tăng cường
đội ngũ cán bộ làm công tác văn phòng, nhất là Văn phòng các Sở Tư pháp và
Phòng Tổ chức - Hành chính của THADS cấp tỉnh.
- Sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, chức
năng nhiệm vụ giữa các đơn vị trong Văn phòng, tránh sự trùng lặp, chồng chéo.
- Quan tâm chăm lo đời sống vật chất
và tinh thần cho cán bộ, công chức, viên chức của Văn phòng để có điều kiện
hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao.
- Tăng cường công tác bồi dưỡng nghiệp
vụ văn phòng cho đội ngũ làm công tác này, nhất là nghiệp vụ tham mưu, tổng
hợp, nghiệp vụ văn bản, nghiệp vụ tin học... Tăng cường khảo sát thực tế, nắm
tình hình để nâng cao kiến thức thực tiễn cho cán bộ, công chức, viên chức của
Văn phòng.
- Tăng cường quan hệ giao lưu, hợp
tác giữa Văn phòng với các đơn vị khác trong Bộ, trong Ngành và với các Bộ, ngành
khác để nắm bắt tình hình, phục vụ việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của
Văn phòng.
9. Đẩy
mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp trong các lĩnh vực hoạt động của
ngành
- Kịp thời rà soát, cập nhật nội
dung về hướng dẫn nghiệp vụ, thủ tục hành chính, các mẫu biểu... để công khai hóa
trên Cổng thông tin điện tử của Bộ, các trang thông tin của địa phương, bảo đảm
sự thuận tiện, giảm thiểu phiền hà cho người dân và doanh nghiệp.
- Chủ động ban hành theo thẩm quyền
hoặc phối hợp ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện luật, pháp lệnh, nghị
định về thể chế của Ngành, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc, bất cập về thể
chế, chính sách, tạo điều kiện để Ngành hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- Thực hiện tốt các nhiệm vụ thuộc
Kế hoạch cải cách hành chính, cải cách tư pháp của Bộ, Ngành, địa phương.
- Đẩy nhanh việc triển khai thực
hiện hoạt động rà soát thủ tục hành chính, triển khai hoạt động của Đề án xây dựng
và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 vào
hoạt động của cơ quan Bộ Tư pháp.
Các giải pháp chủ yếu:
- Tăng cường sự phối hợp, liên kết
chặt chẽ trong việc triển khai các nhiệm vụ CCHC của Bộ và các địa phương; xây
dựng mô hình và cơ chế phù hợp để chỉ đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ cải cách
hành chính, cải cách tư pháp trong nội bộ Ngành.
- Nghiên cứu xây dựng hệ thống cơ
sở dữ liệu hoàn chỉnh về thủ tục hành chính của ngành Tư pháp.
- Tăng cường vai trò và hiệu quả
hoạt động của Tổ công tác chuyên trách thực hiện Đề án 30 về đơn giản hóa thủ tục
hành chính ở Bộ.
- Nâng cao nhận thức và trách nhiệm
của các cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách
hành chính.
- Có chính sách khen thưởng, khuyến
khích hợp lý và kịp thời các cá nhân, đơn vị triển khai nhiệm vụ cải cách hành
chính có hiệu quả.
- Tăng cường bổ sung nguồn nhân lực
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đầu tư cơ sở vật chất...
10. Tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trong phạm vi Bộ, Ngành
- Sự lãnh đạo, chỉ đạo điều hành
công tác của Bộ, Ngành phải đúng hướng, kịp thời, kiên quyết; bám sát vào các mục
tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và chương trình - kế
hoạch xây dựng pháp luật của Quốc hội, Chính phủ, gắn kết hoạt động của Bộ, Ngành
vào việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, chương trình đó.
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, đôn
đốc, kiểm tra phải bám sát thực tiễn cuộc sống, phát hiện, giải quyết và tháo
gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc, bất cập, yếu kém trong hoạt động của Bộ,
Ngành, đặc biệt là của các cơ quan Tư pháp và Thi hành án dân sự địa phương.
- Nghiên cứu xây dựng và triển khai
thực hiện hiệu quả Quy chế tiếp nhận, xử lý, giải đáp các kiến nghị của địa
phương.
- Kiện toàn tổ chức đơn vị làm đầu
mối xây dựng chương trình, kế hoạch công tác của Bộ, Ngành, từng bước đưa công
tác này vào nền nếp, chuyên nghiệp.
Các giải pháp chủ yếu:
- Xây dựng chương trình công tác
cụ thể, sát với chương trình trọng tâm của địa phương và của Ngành.
- Lãnh đạo Bộ, Thủ trưởng các cơ
quan, đơn vị trong Ngành tiếp tục chỉ đạo sát sao, kịp thời việc thực hiện nhiệm
vụ của các cơ quan, đơn vị; khắc phục tình trạng thụ động, ỷ lại sự chỉ đạo của
cấp trên trong triển khai thực hiện nhiệm vụ.
- Tranh thủ hiệu quả sự lãnh đạo,
chỉ đạo, quan tâm, giúp đỡ của cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác tư
pháp.
- Tiếp tục chú trọng công tác phối
hợp, tăng cường mối quan hệ trong công tác; hướng mạnh về cơ sở; thực hiện việc
phân cấp mạnh cho các đơn vị, các cá nhân nhằm xác định cụ thể nhiệm vụ, nâng
cao tinh thần trách nhiệm.
- Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo,
thống kê; số liệu báo cáo phải đầy đủ, chính xác; nội dung báo cáo cần đi sâu
phân tích, nhận định đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ, đề xuất được các
giải pháp xác đáng.
- Tăng cường kỷ cương hành chính,
kỷ luật lao động; phát huy tinh thần trách nhiệm của lãnh đạo các đơn vị trong
việc duy trì kỷ cương, kỷ luật, đảm bảo chất lượng và tiến độ công việc;
- Duy trì chế độ giao ban công tác
của Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo các đơn vị trong Ngành, đảm bảo thông tin thông suốt;
- Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động chỉ đạo, điều hành.
Năm mới đang mở ra cho đất nước ta,
Ngành ta những thời cơ và thách thức mới. Hơn lúc nào hết, toàn thể cán bộ, công
chức, viên chức ngành Tư pháp cần nỗ lực cố gắng thực hiện tốt phương châm
"Đoàn kết, kỷ cương, trách nhiệm, đổi mới, phát triển” cùng các ngành, các
cấp và cả nước thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009
mà Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã đề ra.
Nơi nhận:
- Bộ Chính trị;
- Ban Bí thư;
- Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp TW;
- Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
- Thủ tướng Chính phủ;
- Phó Thủ tướng Chính phủ Trương Vĩnh Trọng;
- Văn phòng TW Đảng;
- Văn phòng Quốc hội;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Văn phòng Chính phủ (Vụ Tổng hợp, Vụ Pháp luật);
- Các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp;
- Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc TW;
- Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng;
- Các Tổ chức pháp chế Bộ, ngành;
- Lưu: VT, TH.
|
BỘ
TRƯỞNG
Hà Hùng Cường
|
[1]
Tính đến ngày 31/8/2008, đã xây dựng xong 693 trụ sở cơ quan thi
hành án (tăng 20 trụ sở so với năm 2007), đang triển khai xây dựng tiếp
50 trụ sở. Kho vật chứng đang được tiến hành xây dựng tại 60 đơn vị (14 Thi
hành án dân sự cấp tỉnh và 46 Thi hành án dân sự cấp huyện, tăng 47 đơn vị
so với năm 2007).
[2] Tính đến 20/12/2008, đã có 60/61 Đoàn luật sư
tổ chức thành công đại hội (đạt 98,3% kế hoạch).
[3] Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày
23/6/2008 phê duyệt Đề án “Quy hoạch mạng lưới Trung tâm TGPL nhà nước và Chi
nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008-2010, định hướng đến năm 2015”; Quyết định
số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30/6/2008 về việc thành lập Quỹ TGPL Việt Nam; Thông tư
liên tịch số 81/2008/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn về lập, quản lý, sử dụng và quyết
toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan TGPL nhà nước; Thông tư liên tịch
số 02/2008/TTLT-BTP-TWHCCBVN ngày 09/6/2008 hướng dẫn xây dựng văn bản QPPL,
tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, TGPL đối với Cựu chiến binh; Thông tư
liên tịch số 08/2008/TTLT-BTP-BNV ngày 07/11/2008 về tổ chức biên chế của Trung
tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm; Thông tư số 05/2008/TT-BTP ngày
23/9/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về hoạt động nghiệp vụ TGPL và công tác quản
lý nhà nước về TGPL; Thông tư số 07/2008/TT-BTP ngày 21/10/2008 hướng dẫn về
thực hiện chính sách TGPL trong Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và
Chương trình 135 giai đoạn II; Quyết định số 02/2008/QĐ-BTP ngày 28/02/2008 ban
hành Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước; Quyết
định số 03/2008/QĐ-BTP ngày 28/02/2008 ban hành Điều lệ mẫu về tổ chức và hoạt
động của Câu lạc bộ TGPL; Quyết định số 05/2008/QĐ-BTP ngày 13/5/2008 ban hành
Quy chế Cộng tác viên TGPL; Quyết định số 259/QĐ-BTP ngày 07/3/2008 về việc
thành lập Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố tụng ở TW và
Tổ giúp việc cho Hội đồng.
[4]
Tham gia chuẩn bị nội dung và tổ chức chuyến thăm Singapore
của Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng; tham gia Hội nghị lần thứ 4 Bộ trưởng Tư
pháp các nước Pháp ngữ; tổ chức Diễn đàn pháp luật ASEAN lần thứ 4; tham gia
Hội nghị Bộ trưởng Tư pháp ASEAN lần thứ 7; tổ chức Phiên họp lần thứ 3 ”Tiểu
ban hợp tác Việt Nam - EC về xây dựng thể chế, cải cách hành chính, quản trị và
nhân quyền”; tham gia đàm phán Kế hoạch chung (One Plan) giữa Chính phủ và các
tổ chức của Liên hiệp quốc...
[5]
Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã có các buổi làm việc với Ban Cán sự
Đảng, Lãnh đạo TANDTC, Ban Cán sự Đảng, Lãnh đạo VKSNDTC. Tại các buổi làm
việc, Ban Cán sự Đảng và Lãnh đạo các ngành đã đánh giá cao sáng kiến của Bộ Tư
pháp về họp liên tịch giữa các Ngành; thống nhất về sự cần thiết và quyết tâm
tăng cường phối hợp công tác trong thời gian tới.