THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
12-TTg
|
Hà
Nội, ngày 12 tháng 1 năm 1957
|
THÔNG TƯ
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 12-TTG,NGÀY 12-1-1957 VỀ MỘT SỐ
ĐIỂM TRONG CHÍNH SÁCH CỤ THỂ, CẦN NẮM VỮNG KHI TIẾN HÀNH SỬA CHỮA SAI LẦM VỀ CẢI
CÁCH RUỘNG ĐẤT
Kính
gửi:
|
Uỷ ban hành chính các khu,
thành phố và tỉnh
|
Thủ tướng phủ đã có Thông tư số
1196/TTg ngày 28-12-1956 giải thích và bổ sung chính sách phân định thành phần
giai cấp ở nông thôn, và Thông tư số 1197/TTg ngày 29-12-1956 về việc đền bù
tài sản, nay nói rõ thêm mấy điểm để các cấp chính quyền và cán bộ nắm vững
trong khi tiến hành sửa chữa sai lầm về cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức:
1- VỀ VIỆC
PHÂN ĐỊNH THÀNH PHẦN GIAI CẤP
1. Đối với
những người làm nghề khác, trong Thông tư 1196/TTg nói: "Những người làm
nghề khác có ruộng đất phát canh tuy bình quân chiếm hữu một nhân khẩu trong
gia đình có quá gấp 3,4 lần bình quân chiếm hữu một nhân khẩu ở địa phương,
nhưng tổng số ruộng đất không nhiều, xét không cần thiết, thì không vạch là địa
chủ". Như vậy là trường hợp ruộng đất của gia đình đó có ít, tuy mức bình
chiếm hữu của một nhân khẩu trong gia đình đó gấp 3 hoặc 4 lần mức bình quân
chiếm hữu của một nhân khẩu địa phương, nhưng mức bóc lột không quá mức bóc lột
của phú nông thì cũng không quy là địa chủ.
Ở vùng nhiều ruộng công, trong
Thông tư số 1196/TTg cũng nói: " Những gia đình chiếm nhiều ruộng công mà
không lao động nếu những năm gần đây đã trả lại ruộng công và đã tham gia lao động,
xết không cần thiết thì không vạch là địa chủ ".
Cần hiểu "xét không cần thiết"
có nghĩa là những người đó theo tiêu chuẩn nói trên đáng lẽ vạch là địa chủ
nhưng vì họ có ít ruộng đất và có ít tội ác với quần chúng thì không vạch là địa
chủ. Trong trường hợp có người nhiều tội ác, quần chúng oán ghét, trong cải
cách ruộng đất đã vạch là địa chủ thì nay không hạ thành phần nữa.
Đói với những người có nghề
khác, và ở vùng nhiều ruộng công việc sửa thành phần phải do Uỷ ban hành chính
tỉnh xét duyệt.
2. Những người
đủ tiêu chuẩn là dịa chủ, đáng lẽ có thể chiếu cố không vạch là địa chủ, nhưng
trong cải cách ruộng đất đã vạch gia đình đó là địa chủ thì nay cho thay đổi
thành phần theo nghề nghiệp của họ.
Ví dụ: một người là nghề khác có
ruộng đất phát canh, bình quân chiếm hữu một nhân khẩu trong gia đình đó quá gấp
3 lần bình quân chiếm hữu của một nhân khẩu địa phương; đáng lẽ chiếu cố nghề
nghiệp khác của họ thì không vạch gia đình này là địa chủ, nhưng trong cải cách
ruộng đất đã quy họ là địa chủ, thì nay không nên coi là cải cách ruộng đất làm
sai, phải sửa lại thành phần, mà nên đặt vấn đề cho họ được thay đổi thành phần
theo nghề nghiệp của họ. Ruộng đất, tài sản của họ đã trưng mua, nay không phải
đền bù lại, trừ trường hợp đã trưng mua quá đáng làm cho họ gặp khó khăn về
sinh sống thì cần điều chỉnh lại một phần nào.
Nếu rõ ràng họ không đủ tiêu chuẩnlà
địa chủ, như có nghề khác mà ruộng đất của một nhân khẩu trong gia đình đó
không quá gấp 3 lần bình quân chiếm hữu của một nhân khẩu địa phương thì phải sửa
thành phần cho họ.
3. Ở vùng nhiều ruộng công, những
người tuy mua trương ruộng công của xã hoặc mua phần ruộng của những người
khác, nhưng trong gia đình không có ai tham gia lao động chính, số ruộng đất lại
nhiều, chuyên đem ruộng đất đó phát canh hoặc thuê người làm thì vẫn phải vạch
là địa chủ, chứ không vạch là quá điền hoặc là phú nông.
4. Trước đây, trong cải cách ruộng
đất có quy định: tuy là gia đình có lao động chính, nhưng
chiếm hữu nhiều ruộng đất, số bóc lột về ruộng đất nhiều, trên 40 tạ và gấp 3 lần
số tự làm ra thì vẫn vạch là địa chủ. Điều quy định này là đúng và cần thiết.
Trong cải cách ruộng đất, một số xã đã vạch một số địa chủ theo tiêu chuẩn này.
Nay các cấp và cán bộ cần chú ý nắm vững những quy định đó để tránh hạ lầm địa
chủ xuống phú nông.
5. Trong
vùng mới giải phóng, có một số người trước vốn là nông dân hoặc thành phần
khác, đi ngụy quân, hoặc làm ngụy quyền, bản thân và cả gia đình không tham gia
lao động nữa, ruộng đất chỉ có ít , nguồn sống chính dựa vào càn quét, cướp bóc
của nhân dân trong cải cách ruộng đất đã vạch họ là địa chủ cường hào gian ác
và đã trừng trị về tội hình, nay xét tội của họ vẫn đúng thì bản thân họ vẫn bị
giam giữ, nhưng tuyên bố cho gia đình họ được thay đổi thành phần.
Nếu người có ít tội ác không
đáng trừng trị, thì khi tha vẫn cần tuyên bố là họ có tội nhưng Chính phủ khoan
hồng. Đồng thời khi về xã cũng tuyên bố cho họ được thay đổi thành phần.
6. Những tên địa chủ cường hào
gian ác có tội nhưng bị xử án quá nặng (không phải oan) thì sau này có dịp sẽ
ân xá hoặc ân giảm.
7. Địa chủ hết thời hạn được
thay đổi thành phần thì chỉ đổi xuống trung nông mà không hạ xuống bần nông cố
nông, và không cho vào nông hội hoặc tổ đổi công. Nếu họ chuyển sang làm nghề
khác, thì quy thành phần theo nghề nghiệp của họ.
8. Trong khi tiến hành sửa sai,
yêu cầu chính về sửa thành phần là sửa chữa những trường hợp vạch lầm nông dân
lao động, phú nông và những người thuộc thành khác lên địa chủ.
Trong khi sửa sai, nếu có địa chủ
cường hào gian ác lọt lưới rõ ràng, tội ác lớn quần chúng oán ghét thì vẫn phải
vạch thành phần những tên đó. Những địa chủ thường lọt lưới rõ ràng, ruộng đất
hiện nay còn nhiều, quần chúng yêu cầu, thì cũng phải vạch thành phần.
II- VỀ VIỆC ĐỀN
BÙ TÀI SẢN
1. Nơi nào có phú nông có nhiều
ruộng đất mà ít sức lao động, thật thà tự nguyện xin hiến một phần ruộng, thì Uỷ
ban hành chính tỉnh nghiên cứu và có thể chuẩn y cho phú nông đó hiến ruộng,nhưng
không nên tuyên truyền việc cho phú nông hiến ruộng.
2. Trong khi điều chỉnh ruộng đất
để đền bù cho người bị quy sai, không được rút ruộng của những người làm nghề
khác ở nông thôn.
3. Đối với những nông dân lao động
trong cải cách ruộng đất bị rút một phần ruộng tư thì nay phải trả lại phần ruộng
tư đó hoặc phải đền bù cho họ. Trong cải cách ruộng đất có trung nông bị rút ruộng
phân tán nhưng đã giữ phần ruộng phân tán lại, đưa ruộng tư ra thì nay không phải
trả hoặc bù lại phần ruộng đã rút.
Cần chú ý là trong cải cách ruộng
đất nơi nào đã rút một phần ruộng trung nông vỡ hoang của địa chủ, hoặc vỡ
hoang ruộng công thì đó không phải là sai chính sách, nay không phải đền bù lại
(xem nghị quyết của Hội đồng Chính phủ tháng 5-1955 về "mấy vấn đề bổ sung
vào chính sách cải cách ruộng đất đối với vùng mới giải phóng").
4. Về trâu bò, khi đền bù cho những
người bị quy sai là địa chủ phải dùng phương pháp thương lượng trên tinh thần
đoàn kết, nhân nhượng lẫn nhau để đảm bảo sản xuất. Có thể trả lại cho người bị
quy sai một phần trâu, bò; nơi nào nhiều trâu, bò có thể trả lại cho những người
bị quy sai con trâu, bò của họ, đồng thời vận động họ cho những gia đình bần cố
nông bị rút trâu được mượn trâu bò để cày, hoặc vận động nông dân giúp đỡ lẫn
nhau, hay là chia ghép thêm vào những con trâu mới chia cho 2, 3 gia đình,
v.v...
5. Đối với nhà Chung, đền chùa,
sau khi trưng thu trưng mua nếu ta đã để lại ruộng đất quá ít, hay đã trưng thu
lầm cả đồ lễ... thì nay phải sửa lại theo chỉ thị về việc sửa chữa sai lầm đối
tôn giáo. Còn việc trả lại số tô thoái quá mức thì không đặt ra.
6. Nơi nào Nhà chung lấy lại ruộng
đất đã chia cho nông dân thì phải giáo dục, vận động quần chúng đấu tranh kết hợp
với biện pháp chính quyền buộc nhà Chung phải trả những ruộng đất đó cho nông
dân.
Nơi nào giáo dân gặt tranh lúa của
nông dân bên lương mới được chia ruộng nhà Chung, hoặc đem của đấu tranh trả lại
nhà Chung, thì cần giải thích cho giáo dân nhận rõ làm như vậy là sai. Đồng thời
cũng giải thích cho nhà Chung nhận rõ việc lấy lại hoa lợi mà nông dân vừa được
chia là trái với chính sách của Chính phủ. Nơi nào quần chúng giác ngộ tự giác
đấu tranh đòi lại thì phải hết sức nâng đỡ, giải quyết nguyện vọng của quần
chúng, xong cũng không nên đặt ra yêu cầu quá cao, thoát ly quần chúng, nhất là
phải tránh gây ra xung đột giữa giáo và lương.
III- ĐỐI VỚI
NHỮNG NGƯỜI BỊ HY SINH, NGƯỜI TỐ SAI VÀ CÁN BỘ PHẠM SAI LẦM TRONG CẢI CÁCH RUỘNG
ĐẤT
1. Những người bị hy sinh là những
người bị xử tử hình oan, bị tra tấn chết, hay chết trong trại giam, hoặc bị
truy bức đã tự sát. Những người này không gọi là liệt sĩ. Người nào có thành
tích đặc biệt thì phải báo cáo lên Uỷ ban hành chính Khu xét và quyết định đề
nghị truy thưởng.
2. Hài cốt của những người bị hy
sinh lúc này chưa nên bốc đi nơi khác vì dễ gây căm thù cho quần chúng, đồng thời
hại cho vệ sinh chung. Việc đưa hài cốt của những người ấy vào nghĩa trang hay
không cũng để sau này sẽ xét từng trường hợp cụ thể rồi quyết định.
3. Đói với con cái những người
hy sinh, nhân dân và chính quyền địa phương cần cố gắng giúp đỡ về sinh sống,
còn việc học hành thì giúp trong điều kiện có thể, không nên đặt thành nguyên tắc
như có nơi đề nghị "bé được phụ cấp, lớn được đi học và có học bổng"
vì hiện nay ta còn gặp khó khăn, nhiều con em cán bộ và liệt sĩ cũng chưa giải
quyết được như thế.
Những người bị hy sinh sẽ được
tính vào nhân khẩu thuế nông nghiệp của gia đình trong thời hạn là 5 năm.
4. Đối với cán bộ thoát ly bị xử
trí đuổi về xã và cán bộ xã bị xử trí sai (không phải đi tù), không đặt vấn đề
truy lĩnh sinh họat phí và tiền phụ cấp, mà cần giải thích cho anh em thật rõ
khó khăn về tài chính hiện nay của Nhà nước. Nếu gia đình anh em túng thiếu thì
giúp đỡ, tuỳ theo hoàn cảnh từng gia đình mà định mức giúp đỡ một tạ, một tạ rưỡi
hoặc nhiều nhất là hai tạ.
5. Đối với những người tố sai,
làm cho người khác bị tù, bị chết, cần phân biệt mấy loại:
- Đối với những người bị cán bộ
truy bức mà tố sai, thì cần giải thích cho quần chúng thấy lỗi đó là do cán bộ,
không nên thành kiến, đả kích số người này.
- Đối với những người chủ tâm tố
sai để trả thù riêng thì nói chung vẫn lấy giáo dục làm chính, giải thích cho họ
thấy khuyết điểm và xin lỗi người bị tố sai. Trong trường hợp có những phần tử
xấu rõ ràng (chỉ điểm, gián điệp...) dụng tâm bố trí tố sai để hãm hại nhân
dân, cán bộ, gây tác hại lớn mà nhân dân oán ghét thì phải điều tra thật cụ thể
rồi báo cáo và đề nghị Uỷ ban hành chính Khu xét và có hình thức trừng phạt
thích đáng.
6. Đối với những cán bộ cải cách
ruộng đất phạm sai lầm, nói chung phải giúp đỡ giáo dục, trừ trường hợp đối với
một số ít phần tử quá xấu, phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng, như truy bức, nhục
hình nặng, mất cảnh giác, dựa vào phần tử xấu gây nhiều tổn thất lớn cho Đảng
và cho nhân dân bị nhân dân rất oán ghét thì cũng điều tra lấy tài liệu cụ thể
rồi báo cáo và đề nghị Uỷ ban hành chính Khu xét và có hình thức kỷ luật thích
đáng.
Trên đây là một số điểm về chính
sách cụ thể để các cấp chính quyền và cán bộ năm vững trong khi tiến hành sửa
sai.
Những điểm này không được phổ biến
trong quần chúng.