|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
773-TTg
|
|
Loại văn bản:
|
Quyết định
|
Nơi ban hành:
|
Thủ tướng Chính phủ
|
|
Người ký:
|
Võ Văn Kiệt
|
Ngày ban hành:
|
21/12/1994
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đã biết
|
|
Số công báo:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
773-TTg
|
Hà
Nội, ngày 21 tháng 12 năm 1994
|
QUYẾT
ĐỊNH
VỀ CHƯƠNG TRÌNH KHAI THÁC, SỬ DỤNG ĐẤT HOANG HOÁ, BÃI BỒI
VEN SÔNG, VEN BIỂN VÀ MẶT NƯỚC Ở CÁC VÙNG ĐỒNG BẰNG
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ
ngày 30 tháng 9 năm 1992;
Theo đề nghị của Bộ trưởng các Bộ Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, Lâm
nghiệp, Thuỷ sản, Thuỷ lợi, Lao động - Thương binh và Xã hội, của Chủ nhiệm Uỷ
ban Kế hoạch Nhà nước và Giám đốc Trung tâm Khoa học tự nhiên và Công nghệ quốc
gia,
QUYẾT ĐỊNH:
VỀ CƠ CẤU KINH TẾ VÀ BỐ TRÍ DÂN CƯ
Điều 1. Từ
nay đến năm 2000 và một số ít năm tiếp theo, các ngành, các cấp cần huy động tối
đa mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế ở trong nước và nguồn vốn ngoài nước
để hoàn thành về cơ bản việc khai thác, sử dụng có hiệu quả quỹ đất hoang hoá,
bãi bồi ven sông, ven biển và mặt nước ở các vùng đồng bằng chưa được khai
thác, nhằm tăng thêm diện tích sản xuất, tăng sản lượng hàng hoá nông - lâm -
ngư nghiệp, bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, đặc dụng ven biển để bảo vệ môi
trường và giữ cân bằng sinh thái, từng bước ổn định và nâng cao đời sống của đồng
bào trên các vùng đất mới. Hướng khai thác trọng tâm là các vùng Đồng Tháp Mười,
Tứ giác Long Xuyên, bán đảo Cà Mâu và một số tiểu vùng còn đất hoang hoá khác ở
đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, vùng đầm phá ven biển miền trung
và miền Bắc.
Việc bảo vệ rừng phòng hộ, rừng
đặc dụng hiện có và việc khai thác, sử dụng, phủ xanh đất hoang hoá trên các
vùng đồi núi trọc (chủ yếu là ở trung du, miền núi) vẫn tiếp tục thực hiện theo
Quyết định số 327-CT ngày 15-9-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã được cụ
thể hoá tại văn bản số 4785-KTN ngày 29-8-1994 của Chính phủ.
Điều 2. Chương
trình khai thác, sử dụng đất hoang hoá, bãi bồi ven sông, ven biển và mặt nước ở
các vùng đồng bào được thực hiện bằng các dự án. Các dự án phải được xây dựng đồng
bộ, vừa phát triển kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế theo hướng nông, lâm, ngư
nghiệp kết hợp, phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vừa bố trí lại dân cư (di dân, chuyển dân)
giải quyết các nhu cầu về xã hội (văn hoá, giáo dục, bảo vệ sức khoẻ) nhằm xây
dựng nông thôn mới, văn minh, hiện đại, bảo vệ và cải thiện được môi trường
sinh thái chung.
Việc thực hiện các dự án khai
thác, sử dụng đất hoang hoá, bãi bồi, mặt nước phải được tiến hành từng bước,
theo định hướng quy hoạch có trọng điểm trong từng thời gian, phù hợp với khả
năng đầu tư của nhân dân và của Nhà nước. Ưu tiên đầu tư cho các dự án giải quyết
được nhiều việc làm, chuyển, dãn được nhiều dân di cư từ nơi thiếu đất; vùng tạo
ra nhiều sản phẩm hàng hoá tập trung có giá trị cao, vùng biên giới, hải đảo giữ
vị trí trọng yếu về an ninh, quốc phòng.
Điều 3. Các
dự án sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp phải xuất phát từ đặc điểm tự nhiên, khả
năng đầu tư và phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của vùng, có
thị trường tiêu thụ, bảo đảm sự phát triển bền vững, có hiệu quả.
Các dự án phải kết hợp nông nghiệp-
lâm nghiệp - ngư nghiệp với công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm ; cân đối
giữa trồng trọt với chăn nuôi; bảo vệ rừng và trồng rừng; nuôi trồng thuỷ sản, giữa
bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế, có biện pháp giải quyết đồng bộ từ
khâu sản xuất đến chế biến và các dịch vụ có liên quan.
Thuỷ lợi là biện pháp quan trọng
hàng đầu của mỗi dự án và phải đặt trong mối quan hệ trực tiếp với các công
trình khác như cải tạo đất, mở rộng diện tích canh tác, bố trí hệ thống giao
thông thuỷ, bộ theo các quy mô phù hợp với khả năng đầu tư.
Điều 4. Chú
trọng việc phục hồi và tăng thêm diện tích rừng phòng hộ, ven biển, rừng ngập mặn
và trồng đai rừng trong mỗi dự án, nhằm giữ cân bằng sinh thái, đồng thời tạo
ra nguồn vật liệu xây dựng, chất đốt tại chỗ. Diện tích rừng và cây công nghiệp,
cây ăn quả lâu năm trong mỗi dự án phải bảo đảm có độ che phủ không thấp hơn 20
- 30% diện tích tự nhiên.
Điều 5. Dự
án về nuôi trồng thuỷ sản cần kết hợp với các dự án thuỷ lợi, dự án nông, lâm
nghiệp, thuỷ điện, cảnh quan du lịch v.v... để nuôi trồng thuỷ sản bằng các mô
hình thích hợp, nhằn khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh của từng loại
mặt nước và tạo dựng môi trường sinh thái bền vững.
Điều 6. Phát
triển hợp lý các cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, trước hết là các đơn
vị sản xuất quy mô vừa và nhỏ nhưng có trang thiết bị, công nghệ hiện đại để
nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong
nước và ngoài nước; chú trọng thực hiện tập trung hoá và chuyên môn hoá ngay từ
đầu.
Tổ chức mạng lưới thương nghiệp
bảo đảm cung ứng hàng hoá và dịch vụ cho dân cư và tiêu thụ sản phẩm của các cơ
sở trên địa bàn sản xuất ra.
Điều 7. Về
áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đưa công nghệ mới vào sản xuất:
Việc mở rộng diện tích canh tác,
phát triển nông, lâm, ngư nghiệp phải gắn liền với các biện pháp sản xuất tiên
tiến để chống xói mòn, bảo vệ và không ngừng nâng cao độ phì của đất, chống ô
nhiễm môi trường và nguồn nước, tăng năng suất, làm tốt công tác khuyến nông,
lâm, ngư để chuyển giao các loại giống và các tiến bộ kỹ thuật bảo đảm cho cây
trồng, vật nuôi đạt năng suất cao, phẩm chất tốt.
Trong công nghiệp, áp dụng ngay
các công nghệ mới tiên tiến để sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá có giá trị phục
vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Điều 8. Về
bố trí dân cư và cơ sở hạ tầng văn hoá, xã hội:
Việc bố trí khu dân cư phải có
quy hoạch và theo các dự án cụ thể, gắn với định canh định cư, địa bàn sản xuất
và quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng, phúc lợi công cộng, bảo đảm sớm ổn định
đời sống của dân cư, nhất là ở các vùng mà điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
khó khăn như vùng bị nhiễm phèn, nhiễm mặn nặng, vùng đầm phá, xóm chài nay định
cư ở đất liền, vùng thường xuyên bị thiên tai và vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa nơi kinh tế chậm phát triển.
Các điểm dân cư cần được quy hoạch
toàn diện, có bước đi cụ thể, theo hướng xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện
đại bố trí theo cụm kết hợp với theo tuyến để hình thành các đơn vị hành chính
làng, xã mới; tận dụng các trục giao thông, trục kênh mương để bố trí dân cư
cho phù hợp. Chú trọng các phương án giải quqyết khung nhà, nền nhà để chủ động
phòng, chống lũ lụt. Đưa các cụm chế biến tiểu thủ công nghiệp gắn với các điểm
dân cư tập trung; chú trọng phát huy lợi thế so sánh của từng địa bàn, thực hiện
đa dạng hoá sản phẩm và ngành nghề ngay từ đầu, góp phần tăng thu nhập cho dân
cư.
Trong mỗi dự án, các ngành liên
quan cần huy động vốn của mình để bố trí ngay các cơ sở hạ tầng thiết yếu về
văn hoá, xã hội (trường học, trạm xá, đường dân sinh nội vùng...).
Các địa phương phối hợp với các
ngành liên quan thực hiện các biện pháp để sớm chuyển hết các hộ dân còn sinh sống
trên các đầm, phá và các xóm chài trên mặt nước lên định cư trên đất liền, kể cả
việc quy hoạch khu dân cư, xác định phương hướng sản xuất và giải quyết các nhu
cầu về văn hoá, xã hội cho dân. Tổ chức trường nội trú, thu hút hết các trẻ em
đến tuổi được đi học.
Điều 9. Theo
các hướng nói trên, các Bộ chuyên ngành chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan
hướng dẫn, giúp đỡ các địa phương sớm hoàn thành việc xây dựng đề án tổng quan
khai thác sử dụng đất hoang hoá, mặt nước, bãi bồi ven sông, ven biển nhằm phát
triển kinh tế và bố trí ổn định dân cư đến năm 2000 và 2010 của các tỉnh.
Các đề án tổng quan của mỗi tỉnh
phải gửi về Bộ phận thường trực Chương trình này trước tháng 8 năm 1995 để tổng
hợp trình Chính phủ xét duyệt và dưa vào kế hoạch chung về phát triển kinh tế -
xã hội.
Đựa vào đề án tổng quan chung,
các ngành hữu quan hướng dẫn các địa phương xây dựng các dự án cụ thể để đưa
vào cân đối trong kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 và kế hoạch hàng năm trình Thủ tướng
Chính phủ xem xét, quyết định. Dự án phải tính đến khả năng vốn mà xây dựng có
trọng điểm, tập trung, không nên mở rộng phân tán.
HÌNH THỨC TỔ CHỨC SẢN XUẤT
Điều 10. Việc
thực hiện Chương trình này chủ yếu là dựa vào sức dân ở mỗi địa phương. Khuyến
khích các thành phần kinh tế tự bỏ vốn mở mang các cơ sở sản xuất để khai thác,
sử dụng đất hoang hoá, mặt nước, bãi bồi ven sông, ven biển, xây dựng các công
trình văn hoá, giáo dục, phúc lợi công cộng, bằng nhiều hình thức như quốc
doanh, tập thể, tư nhân, liên doanh (kể cả liên doanh hoặc đầu tư 100% bằng vốn
nước ngoài), v.v...
Các cơ quan quản lý Nhà nước hướng
dẫn các thành phần kinh tế lập dự án theo quy hoạch của từng vùng với quy mô
thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai thực hiện.
Điều 11. Các
tổ chức, cá nhân là đơn vị sản xuất được lập ra theo các hình thức phù hợp với
nội dung hoạt động sản xuất, xây dựng, kinh doanh của từng dự án, như các Đội
Thanh niên tình nguyện, Thanh niên xung kích, các đơn vị thành niên xung phong,
các Công ty khai hoang làm đất; các doanh nghiệp, các hợp tác xã sản xuất, chế
biến, các tổ chức kinh tế, v. v. ... đảm nhận từng phần công việc của dự án hoặc
cả dự án. Phát triển các quan hệ liên doanh, liên kết giữa các đơn vị thuộc các
thành phần kinh tế trên địa bàn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp, phát triển sản
xuất, xây dựng nông thôn mới, đảm bảo lợi ích bình đằng giữa các thành phần
kinh tế và làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Trong nông nghiệp, lâm nghiệp,
nuôi trồng thuỷ sản, hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, chủ yếu là hình thức
trang trại nhỏ và vừa theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung, chuyên môn hoá
ngay từ đầu.
Điều 12. Quy
mô dự án:
- Đối với dự án nông - lâm - ngư
nghiệp khoảng từ 100-3000 hécta (tuỳ thuộc địa hình, đất đai của từng vùng và
khả năng quản lý), dân cư tương đương với một ấp, một xã mới để hình thành một
đơn vị hành chính, kết hợp kinh tế - xã hội với an ninh quốc phòng, phù hợp với
khả năng đầu tư của nhân dân và Nhà nước.
- Đối với dự án lâm - nông - ngư
nghiệp khoảng từ 500-5000 hécta.
- Đối với dự án nuôi trồng thuỷ
sản khoảng từ 100-3000 hécta.
Điều 13.Định
mức giao đất, khoán rừng cho từng hộ.
Các hộ đến vùng đất mới được
giao đất, giao mặt nước hoặc khoán rừng theo quy hoạch chung và kế hoạch của chủ
dự án, có sự tham gia của ngành chủ quản và của chính quyền địa phương, ưu tiên
phân bổ đất cho các hộ dân tại chỗ, các hộ mới chuyển đến chưa có hoặc thiếu đất
để sản xuất, nhất là các hộ sống ở mặt nước lên định cư ở đất liền.
Diện tích đất giao cho mỗi hộ sản
xuất đến vùng dự án được phân bổ theo điều kiện cụ thể của từng vùng. Hạn mức
chung như sau:
- Từ 1 đến 3 hécta đối với dự án
nông - lâm - ngư nghiệp.
- Từ 2 đến 10 hécta đối với dự
án lâm - nông - ngư nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Trong đó:
+ Phần đất thổ cư và làm kinh tế
vườn 500 - 2.000m2.
+ Phần đất trồng rừng và đai rừng
trong dự án nông - lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản là 10-20%; trong dự án lâm
- nông nghiệp là từ 70-80%.
Phần còn lại là đất phát triển
nông nghiệp hoặc nuôi trồng thuỷ sản.
ở những vùng đất còn nhiều khó
khăn vì hệ thống giao thông, thuỷ lợi yếu kém, đất còn bị chua, phèn, mặn, ngập
lụt thường xuyên..., khuyến khích tư nhân và các thành phần kinh tế khác nhận đất
đầu tư xây dựng các trang trại sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp.
Nghiêm cấm các hộ, các cá nhân tự
ý tạo ranh giới bao chiếm ruộng đất,
hoặc dựa vào luân canh đất rừng
để bao chiếm đất.
CÁC NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ
Điều 14. Nhà
nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế ở trong và ngoài nước tự bỏ vốn đầu tư
tham gia vào Chương trình này, khai thác mọi nguồn vốn liên doanh, liên kết, của
địa phương, cá nhân, tập thể và các tổ chức xã hội. Vốn của ngân sách Nhà nước
chỉ là vốn đầu tư hỗ trợ, bổ sung.
Nhà nước đầu tư hỗ trợ cho
Chương trình này như sau:
a) Nguồn vốn để xây dựng các hệ
thống công trình và kênh tạo nguồn nước, công trình và kênh tiêu trục, các tuyến
giao thông chính liên huyện, liên xã và xây dựng các công trình phúc lợi lớn do
các ngành hữu quan và địa phương trực tiếp đầu tư theo kế hoạch hàng năm, không
tính vào tổng vốn đầu tư của mỗi dự án.
b) Nguồn vốn ngân sách đầu tư trực
tiếp cho các dự án:
- Đầu tư xây dựng đê bao, bờ
bao, kênh mương cấp III nối ra các kênh trục để tưới, tiêu thoát lũ, ngăn mặn,
rửa phèn.
- Các công trình giao thông
trong nội vùng đất hoang hoá của dự án.
- Cùng các ngành liên quan, hỗ
trợ xây dựng các trạm xá, trường học cấp I, giếng nước, bể nước ở nơi thất sự
khó khăn.
- Đầu tư xây dựng vườn cây giống,
trại giống gia súc, giống thuỷ đặc sản để tạo giống có chất lượng tốt, cung cấp
cho vùng dự án.
- Đầu tư trồng từng phòng hộ tập
trung và đai rừng bảo vệ đê sông, đê biển, rừng ngập mặn, chắn cat, chắn sóng,
chống gió bão, ưu tiên các vùng trọng yếu thường bị gió bão và sóng biển đe doạ
ven biển các tỉnh Minh Hải, Kiên Giang, thành phố Hồ Chí Minh, Hà Tính, Quảng
Bình, v.v...
- Vốn sự nghiệp quản lý và khuyến
nông bao gồm vốn lập dự án, quản lý và điều hành dự án, công tác khuyến nông,
lâm, ngư và chuyển giao các công nghẹ mới, nguồn này được tính chung từ 6-8% tổng
vốn đầu tư trực tiếp của dự án.
- Vốn hỗ trợ việc di chuyển, dãn
dân đến vùng đất mới, chuyển dân từ các đầm, phá, xóm chài... lên định cư trên
đất liền và vốn hỗ trợ cho vùng đồng bào dân tộc đang gặp nhiều khó khăn trong
sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
c) Vốn ngân sách cho vay trung hạn
hoặc dài hạn được sử dụng cho các mục đích sau:
- Vay để trồng cây công nghiệp,
cây ăn quả, trồng rừng kinh doanh gỗ lớn có chu kỳ trên 20 năm, nuôi gia súc lớn;
- Vay để khai hoang xây dựng đồng
ruộng;
- Vay để xây dựng các ao, đầm
nuôi trồng thuỷ sản, mua sắm một số thiết bị, máy móc thật thiết yếu theo đề
nghị của từng ngành chuyên môn.
Thời gian hoàn trả vốn vay không
lãi: tính từ kho có sản phẩm hàng hoá theo chu kỳ sản xuất của mỗi loại cây trồng,
vật nuôi.
d) Nguồn vốn và cơ chế quản lý vốn:
Cần huy động được mọi nguồn vốn
của mọi ngành, mọi chương trình kinh tế xã hội trên địa bàn để sử dụng một cách
đồng bộ, có hiệu quả, như vốn của các ngành giao thông, thuỷ lợi, y tế, giáo dục,
định canh định cư... các chương trình quốc gia giải quyết việc làm, xoá đói giảm
nghèo, nước sách, vốn của các thành phần kinh tế khác và của nước ngoài.
Các nguồn vốn cấp phát của ngân
sách (kể cả vốn đầu tư, sự nghiệp) và cho vay không lãi như nói ở trên đều thống
nhất vào Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và do Bộ Tài chính thông báo cho Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố; các ngành chỉ kiến nghị phân bố, không trực tiếp nắm vốn
và phân chia vốn.
Việc cấp phát và cho vay vốn đến
chủ dự án (hoặc hộ dân) và thanh quyết toán vốn chỉ do một đầu mối do Bộ Tài
chính quy định.
e) Nguồn vốn vay tín dụng với
lãi xuất ưu đãi được sử dụng vào các mục đích sau:
- Trồng rừng kinh doanh gỗ nhỏ
có chu kỳ dưới 20 năm.
- Phát triển chăn nuôi gia súc
nhỏ và nuôi trồng thuỷ sản (mua giống, phòng trừ dịch bệnh).
- xây dựng hệ thống dịch vụ (xay
sát, chế biến bột cá, nước mắm, chế biến đường, cơ khí sửa chữa với quy mô nhỏ).
- Mua sắm phương tiện đi lại và
vận chuyển thuỷ ở các vùng khó khăn.
g) Khi có nhu cầu xây dựng các
khu chế biến lớn như đường mía, rau quả, xay xát gạo xuất khẩu, chế biến thuỷ sản,
kho lạnh... phải lập dự án riêng. Nhà nước sẽ giúp đỡ kêu gọi hợp tác đầu tư
liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước hoăc vay vốn của
các tổ chức tài chính quốc tế để thực hiện.
Điều 15. Các
Bộ, các ngành ở Trung ương và các địa phương cần chú trọng thích đáng đến việc
đầu tư xây dựng các tiềm lực khoa học công nghệ, chuyển giao các công nghệ mới
cho các vùng dự án.
Ngoài vốn chung của Chương
trình, hàng năm, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, các ngành, các địa phương và các cơ
quan khoa học phải dành kinh phí cần thiết kể cả vốn đầu tư và vốn sự nghiệp,
cho các đề án điều tra cơ bản, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, nhất là nghiên cứu,
triển khai và chuyên giao công nghệ mới trên các vùng dự án thuộc phạm vi Quyết
định này.
Điều 16
Các thành
phần kinh tế khác (không thuộc Nhà nước quản lý) bỏ vốn tham gia thực hiện
Chương trình thì được hưởng các chính sách ưu đãi đầu tư như quy định tại
Chương III Luật khuyến khích đầu tư trong nước; ngoài ra, còn được các chính
sách khuyến khích như sau:
a) Tham gia làm dịch vụ kỹ thuật
nông - lâm -ngư nghiệp trong sản xuất chế biến, tiêu thụ sản phẩm, được bình đằng
về quyền lợi và nghĩa vụ như các đơn vị kinh tế của Nhà nước.
b) Nếu tham gia trực tiếp để xây
dựng các vùng nguyên liệu nông, lâm, ngư nghiệp tập trung có quy mô vừa và lớn
có liên quan đến xuất khẩu, thì ngoài phần vốn tự bỏ ra, họ sẽ được Nhà nước
xét cho vay từ 20-30% tổng số vốn đầu tư của dự án bằng vốn vay tín dụng với
lãi suất ưu đãi của Chương trình.
Nếu các thành phần kinh tế này
có tham gia xây dựng các công trình phúc lợi như trạm xá, trường học của vùng dự
án, sẽ được Nhà nước hỗ trợ 50% bằng vốn ngân sách cấp để xây dựng công trình.
c) Các thành phần kinh tế khác ở
trong và ngoài nước đầu tư kinh doanh về chế biến, bảo quản nông - lâm - thuỷ sản
sẽ được hướng các chính sách ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước và
Luật đầu tư nước ngoài.
Nếu đầu tư để chuyển giao các hệ
thống giống cây trồng và vật nuôi có chất lượng cao hoặc xây dựng hệ thống bảo
quản và chế biến nông, lâm, thuỷ sản đạt công nghệ tiên tiến của thế giới sẽ được
hưởng chế độ ưu đãi đặc biệt của Nhà nước như về thủ tục giao quyền sử dụng đất,
hỗ trợ một phần vốn xây dựng các cơ sở hạ tầng tới vùng dự án, về tuyển chọn
lao động, v.v... nhằm tạo môi trường thuận lợi nhất cho các công việc này.
Thẩm định và xét duyệt dự án
Điều 17.
Việc thẩm định và xét duyệt dự án được tiến hành như
sau:
a) Thẩm định dự án:
Đối với các dự án thuộc địa
phương quản lý, thì trước khu Uỷ ban Nhân dân tỉnh phê duyệt, phải có ý kiến thẩm
định bằng văn bản của các Bộ chuyên ngành (dự án lâm - nông - ngư do Bộ Lâm
nghiệp thẩm định; dự án nông - lâm do Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm
thẩm định, v.v...). Bộ chuyên ngành làm nhiệm vụ thẩm định có trách nhiệm làm
việc với các Bộ, ngành khác có liên quan. Việc thẩm định cần tiến hành khẩn
trương, chủ yếu xem xét phương hướng sản xuất và cơ cấu vốn đầu tư, mức độ tập
trung (không dàn trải), các giải pháp kinh tế kỹ thuật chủ yếu để đảm bảo tính
hiệu quả và khả thi của dự án.
Đối với dự án thuộc các Bộ,
ngành của Trung ương quản lý thì trước khi Thủ trưởng Bộ, ngành đó phê duyệt, cần
có ý kiến thoả thuận của Uỷ ban nhân dân tỉnh nơi thực thi dự án (nếu như trong
văn bản cấp đất của tỉnh chưa nêu rõ mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ vùng được
cấp đất).
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước có nhiệm
vụ thẩm định các dự án do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
b) Phê duyệt dự án:
- Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
các dự án có quy mô lớn với tổng mức đầu tư từ 100 tỷ đồng trở lên.
- Bộ trưởng các Bộ hoặc ngành
tương đương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung
ương phê duyệt các dự án có mức vốn đầu tư nhỏ hơn 100 tỷ đồng. Đối với các dự
án có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng thì trước khi ra quyết định
phê duyệt, phải có ý kiến thống nhất của các Bộ liên quan và của Chủ nhiệm Uỷ
ban Kế hoạch Nhà nước.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh
và thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với tất
cả các dự án thực thi trên địa bàn mình.
- Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ
Tài chính, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường có trách nhiệm thẩm tra các dự
án về mặt cơ cấu kinh tế cân đối chung toàn vùng, về công nghệ, môi trường.
- Các dự án do các Bộ và các tỉnh
phê duyệt trước đây, nếu không phù hợp với mục tiêu và nội dung của chương
trình này, phải được xem xét bổ sung, điều chỉnh lại và duyệt lại cho phù hợp.
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 18. Các
Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Lâm nghiệp, Lao động - Thương binh và
Xã hội, Thuỷ sản, Thuỷ lợi, Xây dựng, Giao thông - Vận tải, Năng lượng, Y tế,
Giáo dục, Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Quốc phòng... và các ngành khác có
liên quan tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ của mình cùng với các địa phương phối hợp
thực hiện nhằm bảo đảm tính đồng bộ cân đối của chương trình.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội và Uỷ ban dân tộc và miền núi nghiên cứu xây dựng sớm các chính sách hỗ trợ
cho đồng bào di chuyển đến các điểm định cư mới, vùng đặc biệt khó khăn và vùng
đồng bào dân tộc nhằm sớm ổn định sản xuất và đời sống của nhân dân trên các
vùng đất mới.
Điều 19. Các
đoàn thể, các hội, các tổ chức quần chính có thể tham gia trực tiếp vào Ban điều
hành hoặc trực tiếp làm các dịch vụ cung cấp giống, vật tư kỹ thuật, khuyến
nông... tiêu thụ sản phẩm tại các địa phương có dự án.
Đoàn Thành niên Cộng sản Hồ Chí
Minh phối hợp với các ngành liên quan và Uỷ ban nhân dân địa phương tổ chức lực
lượng thanh niên tình nguyện, thanh niên xung phòng phát huy vai trò xung kích
của thanh niên trong việc thực hiện các dự án như khai hoang, làm đường xây dựng
công trình thuỷ lợi, công trình văn hoá, xã hội, v.v... hoặc tổ chức các hoạt động
văn hoá, xã hội trong các vùng đất mới có nhiều khó khăn. Trung ương Đoàn có thể
nhận thí điểm một số dự án tại các vùng trọng điểm để rút kinh nghiệm chỉ đạo
chung.
Điều 20. Về
chỉ đạo thực hiện chương trình:
Việc chỉ đạo thực hiện chương
trình này cần được kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện chương trình phủ xanh đồi
núi trọc (Theo Quyết định số 327-CT ngày 15-9-1992 của Chủ tịch Hội Đồng Bộ trưởng)
để tránh mọi trùng lặp, đảm bảo sự thống nhất, cân đối và đồng bộ của chương
trình, nhất là trong việc phê duyệt các dự án, giải quyết các chính sách đầu
tư, chính sách tài chính và chiến lược kinh tế - xã hội trên các vùng lãnh thổ.
- Ở Trung ương, Thủ tướng Chính
phủ phân công một thanh viên của Chính phủ trực tiếp theo dõi và tổ chức chỉ đạo
thực hiện, phối hợp các ngành, các địa phương tiến hành kiểm tra, đôn đốc và đề
xuất các biện pháp để thực hiện Chương trình này, đồng thời kiêm việc chỉ đạo
Chương trình 327.
Bộ phận thường trực của Ban chỉ
đạo Chương trình đặt tại Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước.
- Ở mỗi Bộ chuyên ngành, cần
thành lập Tổ chỉ đạo chuyên ngành.
- Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, đồng chí Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch phụ trách khối nông - lâm - ngư
nghiệp thực hiện trực tiếp chỉ đạo thực hiện chương trình 327 nay kiêm chỉ đạo
chương trình này.
- Để đảm bảo thực hiện tốt
chương trình khai thác, sử dụng đất hoang hoá, bãi bồi ven sông, ven biển và mặt
nước ở các vùng đồng bằng theo Quyết định này, từ nay đến hết quý 3 năm 1995, tất
cả các tỉnh và các ngành Trung ương cần tiến hành tổng kết công tác khai hoang ở
các vùng đồng bằng trong thời kỳ những năng gần đầy (khoảng 1989-1990) đến 1995
(trong đó cần tổng kết việc khai thác đồng bằng sông Cửu Long), nhằm rút ra những
kinh nghiệm cần thiết cho việc triển khai thực hiện tốt chương trình này trong
những năm tới.
Điều 21. Các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương có liên quan theo trách nhiệm và quyền hạn được giao,
tuyển chọn cán bộ có trách nhiệm và đầy đủ năng lực để quản lý các dự án thuộc
ngành hoặc địa phương mình. Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Công
nghiệp thực phẩm, Bộ Lâm nghiệp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Thuỷ sản
và Bộ Tài chính có văn bản hướng dẫn để chỉ đạo các cấp và cơ sở thực hiện.
Điều 22. Quyết
định này có hiệu lực kể từ ngày ban hành, các văn bản trước đây trái với Quyết
định này đều bãi bỏ.
Bộ trưởng các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, Thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Quyết định 773-TTg năm 1994 về chương trình khai thác, sử dụng đất hoang hoá, bãi bồi ven sông, ven biển và mặt nước ở các vùng đồng bằng do Thủ tướng Chính phủ ban hành
THE PRIME MINISTER OF GOVERNMENT
-------
|
SOCIALIST
REPUBLIC OF VIET NAM
Independence - Freedom – Happiness
---------
|
No: 773-TTg
|
Hanoi, December 21, 1994
|
DECISION ON THE PROGRAM OF TAPPING AND
USING WASTE LAND, ALLUVIAL SOIL ON RIVER AND SEA SHORES, AND WATER SURFACE IN
THE PLAINS THE PRIME MINISTER Pursuant to the Law
on Organization of the Government on the 30th of September 1992;
At the proposal of the Minister of Agriculture and Food Industry, the Minister of
Forestry, the Minister of Aquatic Resources, the Minister of Water Resources,
the Minister of Labor, War Invalids and Social Affairs, the Chairman of the
State Planning Committee, and the Director of the National Center of Natural
Sciences and Technology, DECIDES: ON THE ECONOMIC STRUCTURE AND POPULATION DISTRIBUTION Article
1.- From now to the year 2000 and the few
following years, the branches and levels should make full use of all resources
of the different economic sectors in the country and foreign sources of capital
for a basic and efficient utilization of the fund of waste land, alluvial soil
on river and sea shores, and water surface in the hitherto untapped plains,
with the aim of expanding the cultivated area, increasing the output of
agro-forestry and fishery commodities, protecting and developing the protection
forests and forests of special use on the sea shore for environmental
conservation and a balanced ecology, and gradually stabilizing and improving
the living standard of the people in the new settlements. The main targets of
this campaign are the Plain of Reeds, the Long Xuyen quadrangle, the Ca Mau
peninsula, and some areas of waste land in the deltas of the Mekong River and
the Red River, and swamps and lagoons along the central and northern coasts. The protection of the
existing protection forests and forests of special use, and the tapping,
utilization and regretting of waste land on bare hills (mainly in the mid-and
highlands) shall be carried on in accordance with Decision No. 327-CT on the
15th of September 1992 of the Chairman of the Council of Ministers, which was
concretized in the document No. 4785/KTN on the 29th of August 1994 of the
Government. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. The implementation of
projects to tap and utilize waste land, alluvial soil and water surfaces must
be undertaken step by step in the direction of key planning in given periods,
and in conformity with the investment ability of the people and the State.
Priority shall b given to those projects which generate employment for many
people, help re-settle many people from over-populated areas, the areas which
produce a large quantity of commodities of high economic value, and the border
areas and islands which play a key role in national security and defense. Article
3.- The projects for agricultural
production, forestry and fisheries must proceed from the natural conditions and
investment potential, conform to the regional planning for socio-economic
development, have outlets and ensure a lasting and efficient development. These projects must
combine agriculture, forestry and fisheries with the processing industry and
the marketing of products; ensure a balance between cultivation and animal
breeding; forest protection and regreening; aquaculture, environmental
protection and economic development; and measures must be taken to settle all the
jobs synchronously from production to processing and the related services. Irrigation is the
measure of prime importance for each project and must be placed in direct
relationship which other projects such as improving the soil, expanding the
cultivated area, and creating a system of river and land transport on scales
suitable to the investment ability. Article
4.- Importance must be attached to the
restoration and expansion of the areas of coastal protection forests, submerged
forests, and the planting of a forest belt for each project, with the aim of
maintaining the ecological balance and at the same time creating sources of
construction materials and fuel on the spot. The area of forests, industrial
plants and perennial fruit-trees for each project must occupy no less than
20-30% of the natural area. Article
5.- Aquaculture projects must be combined
with projects for irrigation, agriculture, forestry, hydro-electric power,
tourism, etc,. in order to practice aquaculture on suitable scales, with the aim
of efficiently tapping all potentials and favorable conditions of each type of
water surface, and creating a lasting ecological environment. Article
6.- Rationally developing industrial,
small industrial and handicraft establishments, first of all medium-and
small-sized units with modern equipment and technology to raise the product
quality and meet the constantly growing demands of the domestic and foreign
markets; attention should be paid to centralization and professionalization
right from the outset. A trading network must
be organized to ensure the supply of commodities and services to the population
and the marketing of products of the local production establishments. Article
7.- On the application of technical
advances and the introduction of new technologies into production: ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. In industry, the new
and advanced technologies must be applied immediately to produce goods of value
for domestic consumption and export. Article
8.- On the distribution of the population,
and cultural and social infrastructure facilities: The distribution of
population must be planned, and carried out increate projects in combination
with the building of new settlements and production areas and the plan for
development of infrastructure and public utility works, in order to early
stabilize the people's life, especially in those areas with difficult natural,
economic and social conditions, such as those affected by acidity and salinity,
swamps and lagoons, fishing communities which have settled on land, areas prone
to natural disasters, areas inhabited by ethnic minorities, and remote areas
with an underdeveloped economy. The populated areas
must be built according to a comprehensive plan and step by step, with a view
to a new, civilized and modern countryside arranged in groups and at different
levels, to form new villages and communes which are also administrative units;
transport arteries and canals must be fully used to distribute populated areas
in a rational manner. Attention must be paid to measures to build house frames
and foundations in such a way as to effectively minimize the harmful
consequences of flood. Group of establishments of the small processing industry
and handicraft must be combined with populated areas; attention must be paid to
developing the comparative advantages of each area, the diversification of
products and occupations from the outset in order to help increase the income
of the population. In each project, the
branches concerned should mobilize their capital for the immediate construction
of essential cultural and social infrastructure facilities (schools, medical
stations, local dreads...) The localities should
cooperate with the branches concerned to early move all the households which
are still living on swamps, lagoons and the floating fishing hamlets to new
settlements on land, zone off populated areas, set forth the production
direction, and meet the cultural and social requirements of the people.
Boarding schools should be organized to draw all children of school age to
school. Article
9.- Along the above-mentioned directions,
the specialized ministries shall cooperate with the ministries concerned to
guide and help the localities to early complete the building of an overall
project to tap and use waste land, water surface and alluvial soil on river and
sea shores for economic development, and stabilize the settlement of people in
the provinces to the years 2000 and 2010. The overall projects
of the provinces must be sent to the Permanent Bureau of this Program before
August 1995 for submission to the Government for approval and for incorporation
into the general plan for socio-economic development. Basing themselves on
the overall projects, the branches concerned shall guide the localities to draw
up concrete plans for incorporation into the 1996-2000 five-year Plan and the
annual plan for submission to the Prime Minister for consideration and
decision. These projects must take into account the capital source in order to
concentrate on key constructions and not to spread it thin and scatteredly. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. Article
10.- This Program is carried out mainly
reliant on the people's potential of each locality. The various economic
sectors should be encouraged to invest in building production establishments to
tap and use waste l and, water surface and alluvial soil on river and sea
shores, and build cultural, educational and public utilities in many forms,
such as State-owned, collective, private, and joint venture (including joint ventures
with foreign partners or 100% foreign-invested projects), etc. The State managing
agencies shall guide the economic sectors to draw up projects on a suitable
scale according to regional planning in order to create favorable conditions for
their implementation. Article
11.- Production units of organizations and
individuals shall be set up in forms suitable to the production, building and
trading activities of each project, such as Voluntary Youth groups, Shock
Youth, Young Volunteers units, land reclamation companies; businesses,
production and processing cooperatives, economic organizations, etc., to
undertake parts of the project or the whole project. The units of various
economic sectors in the locality should develop joint venture and cooperative
relations in order to create an integrated strength to develop production,
build a new countryside, ensure equal interests for the different economic
sectors, and fulfil their obligations towards the State. In agricultural
production, forestry and a quaculture, production households are autonomous
economic units organizes mainly as small and medium sized farms, which are to
concentrate on commodity production and to specialize right from the outset. Article
12.- Scale of projects: + 100-3,000 ha for
agro-forestry-fishery projects (depending on the terrain and soil of each area
and the managing capacity) with a population equivalent to a new hamlet or
commune, shall form an administrative unit which is to combine economic and
social development with security and defense in accordance with the investment
capacity of the people and the State. + 500-5,00 ha for
forestry-agriculture-fishery projects, + 100-3,000 ha for
aquaculture projects. Article
13.- The allotment of land and forest land
to households: ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. The area of land
allotted to each household having settled in the project area shall be
determined in the light of concrete conditions in each zone. But the general
quotas are as follows: - From 1 to 3 ha for
agro-forestry projects. - From 2 to 10 ha for
forestry-agriculture-aquaculture projects, of which: + 500-2,000 m2 for
housing space and gardening economy, + 10-20% of the land
for afforestation and building a forest belt in agro-forestry-aquaculture
projects; 70-80% for forestry-agriculture projects. The remaining land is
for development of agricultural production or aquaculture. In the areas facing
difficulties due to underdeveloped transport and irrigation, to aluminous or
saline soil, or to frequent flooding..., private entrepreneurs and other
economic sectors are encouraged to receive land and invest in building
agro-forestry-fishery farms. All households and
individuals are strictly forbidden to set up boundaries to occupy paddy-fields
or land, or take advantage of the rotation of forest land to occupy land. SOURCES OF INVESTMENT CAPITAL ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. The State shall
provide support investment for this Program as follows: a/ The capital for
building systems of projects and canals to create sources of water, projects
and main canals for drainage, the main roads linking districts and communes,
and the building of major utility works directly invested by the branches
concerned and the localities according to annual plans, shall not be accounted
for in the total investment capital of each project. b/ Direct budget
investment for the projects is made in: - Building protection
dikes and embankments, and canals and ditches of third grade linked to canals
for irrigation, drainage, prevention of sea water and washing acidity. - Building transport
projects in the area of waste land of the project. - Together with the
branches concerned, helping to build medical stations, primary schools, wells
and water tanks in the areas really facing difficulties in these respects. - Planting
concentrated protection forests and forest belts, to protect river and sea
dikes and submerged forests against sand, waves, winds and storms, giving
priority to key areas frequently threatened by storms and tidal waves, such as
the seas shores in Minh Hai and Kien Giang provinces, Ho Chi Minh City, Ha
Tinh, Quang Binh, etc. - Capital for
professional management and agricultural promotion includes capital for drawing
up the project, managing and operating the project, providing support for
agricultural production, forestry and fisheries, and transfer of new
technologies. This source of capital generally makes up 6-8% of the direct
total investment capital of the project. - Capital in support
of the moving of people to new land, the moving of people from swamps, lagoons
and floating villages to the mainland, and capital in support of areas
inhabited by ethnic minorities who are facing difficulties in agricultural
production, forestry and fisheries. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. - Planting industrial
trees, fruit-trees, planting forests for large trees having a cycle of more
than 20 years, and breeding cattle. - Reclaiming waster
land for cultivation; - Building ponds and
swamps to raise aquaproducts, and purchasing a number of essential equipment
and machinery as proposed by each specialized service. The time limit for
repayment of interest-free loans begins from the availability of commodities
according to the production cycle of each type of trees and animals. d/ Capital source and
the mechanism of capital management: All sources of capital
of all branches and all socio-economic programs in the locality should be
mobilized and used in a uniform and effective manner, such as capital from the
branches of transport, water resources, public health, education,
sedentarization, from the national programs for generating employment,
eradicating hunger and reducing poverty, supplying clean water, and capital
from other economic sectors and foreign countries. The sources of budget
allocations (including investment and professional capital) and interest-free
loans as mentioned above are all managed by the State Planning committee and
communicated by the Ministry of Finance to the People's Committees of provinces
and cities; the branches can only give their advice on allocations, and do not
directly control the capital and distribute it. The allocation and
lending of capital to the project owners (or private households) and the
repayment of capital shall be done by only one agency to b appointed by the
Ministry of Finance. e/ The source of
credit capital granted as low-interest loans is used for the following
purposes: ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. - Developing the
breeding of small animals and the culture of aquaproducts (buying strains,
preventing and treating diseases). - Building services
system (husking rice, processing fish meal and fish-sauce, refining sugar,
building mechanical repair workshops on a small scale). - Buying vehicles and
water transport means in areas facing difficulties. f/ When the need
arises for the building of major processing zones for the production of cane sugar,
fruits and vegetables, husking and polishing rice for export, processing
aquaproducts, and cold storages..., a separate project must be drawn up. The
State shall help in calling for investment in joint and cooperation ventures
with local and foreign economic organizations, or applying for loans from
international financial organizations to carry out such projects. Article
15.- The ministries and branches at the
center and the localities should pay proper attention to the investment in
building science and technology facilities and the transfer of new technologies
to the project areas. Apart from the common
capital of this Program, every year the State Planning Committee, the branches,
localities and scientific research institutions concerned must appropriate the
necessary funds, including investment fund and professional fund, for basic
research projects, apply technical advances, especially for the study,
application and transfer of new technologies to the project areas under this
Decision. Article
16.- If the other economic sectors (not
managed by the State) take part in carrying out this Program with their own
capital, they shall enjoy investment priority policies as stipulated at Chapter
III of the Law on Encouragement to Domestic Investment; in addition, they shall
enjoy the following incentive policies: a/ If they provide
technical agro-forestry-fishery services in the production, processing and
marketing of products, they shall enjoy equal rights and obligations as the
State-owned economic units. b/ If they directly
take part i n building medium-and large-scale areas for supplying
agro-forestry-fishery materials relating to the manufacture of export goods,
apart from their own capital, they shall be considered by the State for the
granting of 20-30% of the total investment capital of the project in the form
of low-interest credit loans of this Program. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. c/ If the other
economic sectors at home and abroad invest in the processing and preservation
of agro-forestry-fishery products, they shall enjoy priority policies according
to the Law on Encouragement to Domestic Investment, and the Law on Foreign
Investment. If they invest in the
transfer of high-quality species of plants and animals, or in building
preservation and processing systems of advanced international standard for
agro-forestry-fishery products, they shall enjoy the special priority regime of
the State concerning the procedure for granting the right to use land, the
reception of support fund for building infrastructure facilities in the project
area, for the recruitment of labor, etc., with the aim of crating the most
favorable conditions for such work. EXPERTISE AND RATIFICATION OF PROJECTS Article
17.- The expertise and ratification of a
project is conducted as follows: a/ Expertising
projects: With regard to the
projects under local management, before the People's Committees of provinces
ratify them, the specialized ministries (the Ministry of Forestry for
forestry-agriculture-fishery projects; the Ministry of Agriculture and Food
Industry for agro-forestry projects, etc.) must give their opinions in writing
on the expertise eof the project. The specialized ministry which is assigned
the task of expertise shall discuss with the ministries and branches concerned.
The expertise should be conducted expeditiously, mainly concerning the
direction of production, the structure of investment capital, the level of
concentration (not widely scattered), and the main economic and technical
solutions to ensure high efficiency and feasibility of the project. With regard to the
projects under the management of the ministries and branches at the center,
before the Ministers or Heads of the branches notify them, the People's
Committee of the province where the project is undertaken, should give its
approval (if the document on the allotment of land issued by the province dos
not yet mention the aim, direction and task of the allotted area). The State Planning
Committee shall have to expertise the projects to be ratified by the Prime
Minister. b/ Ratifying projects: ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. - The Ministers and
the Heads of the ministerial-level agencies, the Presidents of the People's
Committees of the provinces and cities under the Central Government shall
ratify the projects with a total investment capital of less than 100 billion
Vietnamese Dong. With regard to projects with a total investment capital of
from 15 billion to 100 billion Vietnamese Dong, before ratifying them, the
ratifying person must get the approval of the ministry concerned and of the
Chairman of the State Planning Committee. - The Presidents of
the People's Committees of the provinces and cities directly under the Central
Government shall exercise State management of all the projects undertaken i n
their localities. - The State Planning
Committee, the Ministry of Finance, and Ministry of Science, Technology and
Environment shall examine the projects to ensure a balance economic structure
of the whole area, and to detect any problem of technology and environment. - If the projects
already ratified by the Ministries and provinces fail to conform to the aim and
contents of this Program, they must be revised, readjusted and re-ratified. ORGANIZATION OF IMPLEMENTATION Article
18.- The Ministry of Agriculture and Food
Industry, the Ministry of Forestry, the Ministry of Labor, War Invalids and
Social Affairs, the Ministry of Aquatic Resources, the Ministry of Water
Resources, the Ministry of Construction, the Ministry of Energy, the Ministry
of Public Health, the Ministry of Education, the Ministry of Defense,... and
the branches concerned, shall, in furtherance of their function and task and
together with the localities, join in implementing this Program in a
comprehensive and balanced manner. The Ministry of Labor,
War Invalids and Social Affairs and the Committee for Nationalities and
Mountain Areas shall study to early work out support policies for the people
moving to new settlements, to areas of great difficulties and the areas of
ethnic minorities with the aim of early stabilizing production and the living
conditions of the people in the new settlements. Article
19.- The social and mass organizations can
directly take part in the Managing Committee of the project or directly provide
services in the supply of strains, technical materials, and marketing the
products at the locality where the project is carried out. The Ho Chi Minh
Communist Youth Union, in cooperation with the branches concerned and the local
People's Committee, shall organize Voluntary Youth groups and Young Volunteers
units to promote the role of the youth as a shock force in implementing such
projects, as reclaiming waster land, building roads, irrigation works, cultural
and social projects, etc., or organizing cultural and social activities in the
new land which faces great difficulties in the new land which faces great
difficulties. The Union Central Committee can assume responsibility for guiding
some projects in key areas to draw experiences for other projects. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. Providing direction
for the implementation of this Program should be closely combined with the
implementation of the Program for regreening bare hills (according to Decision
No.327 on the 15th of September 1992 of the Chairman of the Council of
Ministers) in order to avoid overlapping of work and ensure a unified, balances
and uniform implementation of this Program, particularly in the ratification of
projects, deciding on the investment policy, financial policy and
socio-economic strategy for different areas. - At the center, the
Prime Minister shall assign a Cabinet member to directly follow and organize
the implementation of this Program, and cooperate with the branches and
localities in inspecting, stepping up and working out measures to implement
this Program while at the same time directing Program 327. The Permanent Bureau
of this Programs Steering Committee is set up at the State Planning Committee. - At each specialized
and cities directly under the Central Government, the Presidents or
Vice-Presidents in charge of the agro-forestry-fishery sector who currently in
charge of Program 327, shall direct this Program as well. At the provinces and
cities directly under the Central Government, the Presidents or Vice-Presidents
in charge of the agro-forestry-fishery sector who are currently in charge of
program 327, shall direct this program as well. - In order to ensure a
satisfactory implementation of the Program for tapping and using waste land,
alluvial soil on the river and sea shores, and water surface in the plains
under this Decision, from now to the end of the third quarter of 1995, all the
provinces and branches at the center should review the reclamation of waste
land in the plains during recent years (from 1989-90 to 1995), including the
reviewing of the tapping of the Mekong river delta, in order to draw the
necessary experiences for a satisfactory implementation of this Program in the
years ahead. Article
21.- The Ministries, the ministerial-level
Agencies, the Agencies attached to the Government, the People's Committees of
the provinces and cities directly under the Central Government concerned,
shall, within their responsibility and powers, select responsible and competent
cadres to manage the projects of their branch or locality. The State Planning
Committee, the Ministry of Agriculture and Food Industry, the Ministry of
Forestry, the Ministry of Labor, War Invalids and Social Affairs, the Ministry
of Aquatic Resources, and the Ministry of Finance shall issue guidelines to
direct the branches and localities in the implementation of this Program. Article
22.- This Decision takes effect from the
date of its publication; all documents issued earlier which are contrary to
this Decision are annulled. The Ministers, the
Heads of ministerial-level agencies, the Heads of the agencies attached to the
Government, the Presidents of the People's Committees of the provinces and
cities directly under the Central Government shall have to implement this
Decision. ... ... ... Please sign up or sign in to your Pro Membership to see English documents. PRIME MINISTER
Vo Van Kiet
Quyết định 773-TTg ngày 21/12/1994 về chương trình khai thác, sử dụng đất hoang hoá, bãi bồi ven sông, ven biển và mặt nước ở các vùng đồng bằng do Thủ tướng Chính phủ ban hành
9.533
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng

Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|