ỦY
BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------
|
Số:
441/QĐ-UB
|
Tp.
Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 12 năm 1983
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ
VIỆC GIAO ĐẤT, GIAO RỪNG CHO CÁC ĐƠN VỊ QUỐC DOANH, TẬP THỂ, HỘ NHÂN DÂN TRỒNG
CÂY, GÂY RỪNG VÀ CHĂM SÓC BẢO VỆ RỪNG
ỦY BAN
NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Căn cứ luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân đã được Quốc hội thông qua
ngày 30-6-1983 ;
Căn cứ Pháp lệnh quy định về việc bảo vệ rừng theo số 147/LCT ngày
11-9-1972 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ;
Căn cứ theo Quyết
định số 184/HĐBT ngày 6-11-1982 của Hội đồng Bộ trưởng về việc đẩy
mạnh giao đất, giao rừng cho tập thể và nhân dân trồng cây gây rừng ;
Theo đề nghị của đồng chí Giám đốc Sở Lâm nghiệp, đồng chí Trưởng
Ban tổ chức chánh quyền thành phố ;
QUYẾT
ĐỊNH
Điều 1. Rừng
và hệ thống cây xanh là một bộ phận quan trọng của môi trường sống
là nguồn cung cấp gỗ, củi quý giá của Thành phố Hồ Chí Minh - là
một thành phố đông dân, một trung tâm công nghiệp của cả nước.
Tất cả diện tích
rừng tập trung và phân tán hiện có, diện tích đất đai còn hoang
trống, đồi trọc phải sử dụng hợp lý, phải sớm phủ xanh vào cuối
năm 1986 và được bảo vệ tốt. Để thực hiện có kết quả công tác trên,
Ủy ban Nhân dân thành phố quyết định tiến hành việc giao đất, giao
rừng cho lâm trường, nông trường, cơ quan, trường học, các đơn vị vũ
trang, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất (gọi tắt là quốc doanh và tập
thể) và hộ nhân dân để trồng cây gây rừng, chăm sóc, bảo vệ theo
nguyên tắc Nhà nước và nhân dân cùng làm ; Thành phố và các đơn vị,
địa phương cùng thực hiện.
Điều 2. Đất
và rừng được giao cho quốc doanh, tập thể và nhân dân gồm các loại
như sau :
a) Đất đai đã bỏ
hoang như đồi trọc, đất trồng chưa có quy hoạch sử dụng, đất trồng
ven trục lộ giao thông, trên các kinh mương thủy lợi, đất ở nơi công
cộng chưa được trồng cây xanh đều được giao cho quốc doanh, tập thể và
hộ nhân dân để kinh doanh trồng cây gây rừng, làm vườn rừng hoặc xây
dựng mô hình RVAC (ruộng rẫy, vườn cây, ao cá, chăn nuôi) theo hướng
nông lâm ngư kết hợp trong kinh tế gia đình.
b) Đất đai đã phân
cho các nông, lâm trường, các đơn vị Nhà nước, tập thể để sản xuất
kinh doanh nhưng chưa có điều kiện triển khai do tình hình quản lý,
tiền vốn, phương tiện… đều được giao (cấp hẳn hoặc tạm giao cho mượn
để trồng cây một vài chu kỳ trồng) cho tập thể, hộ nhân dân kinh doanh
trồng doanh, gây rừng, xây dựng thành vườn rừng.
c) Các loại rừng
trồng tập trung (như đước Duyên Hải, lâm viên rừng lịch sử) rừng trồng
phân tán ở những nơi công cộng, rừng phòng hộ, rừng đặc sản đều
được giao cho quốc doanh, tập thể và hộ nhân dân chăm sóc bảo vệ.
Hệ thống cây xanh
trên đường phố, công viên, ở cơ quan, xí nghiệp, ở các quận nội thành
sẽ nghiên cứu và có quyết định sau.
Điều 3. Diện
tích đất và rừng giao cho đơn vị quốc doanh tập thể và nhân dân được
quy định như sau:
a) Đối với đơn vị
quốc doanh, tập thể, diện tích đất và rừng giao cho kinh doanh không
hạn chế, tùy theo khả năng gây trồng và chăm sóc, bảo vệ, tùy theo
loại cây, dạng rừng mà định mức giao như sau :
- Đất giao để trồng
thành rừng kinh doanh được tính từ 1-4ha cho mỗi lao động làm rừng.
- Rừng thành phố
trồng tập trung, giao để chăm sóc, bảo vệ tính trung bình từ 50ha đếm
100ha cho mỗi lao động.
- Cây rừng trồng phân
tán giao cho mỗi lao động chăm sóc bảo vệ chiều dài tính trung bình
1000m đến 2000m ở dãy rừng, trục đường, dọc theo kinh mương thủy lợi,
hoặc từ 500-1000 cây gỗ lớn, lâu năm hay từ 3000-5000 cây gỗ nhỏ, mọc
nhanh.
b) Đối với hộ nhân
dân, các loại đất đai, rừng được giao cấp hẳn hoặc cho mượn như sau :
- Các loại đất
hoang, trống chưa có quy hoạch sản xuất thì cấp hẳn từ 1000-2500m2
cho mỗi lao động, tùy theo tình hình đất đai của quận huyện, đơn vị
quốc doanh, tập thể, nhưng không quá 1ha cho mỗi gia đình để làm vườn
rừng. Các loại đất trống ven trục lộ giao thông, trên các kinh mương
thủy lợi, đất ở nơi công cộng… đều được giao cho tập thể, hộ gia
đình mượn để trồng cây gây rừng.
- Đối với đất đã
giao cho các đơn vị quốc doanh và tập thể sản xuất kinh doanh nhưng
chưa có kế hoạch sản xuất trong những năm tới (như điều 2b) các hộ
nhân dân (kể cả cán bộ, công nhân viên) được phép mượn đất trong một
vài chu kỳ để trồng rừng kinh doanh hoặc nhận khoán để trồng rừng,
chăm sóc bảo vệ cho đơn vị theo quy định chung.
- Đối với rừng quốc
doanh do Thành phố tập trung và cây rừng trồng phân tán giao khoán cho
nhân dân chăm sóc, bảo vệ thì diện tích, số cây, chiều dài dãy rừng
theo định mức ở điều 3a.
Nếu trong 1-2 năm các
đơn vị quốc doanh, tập thể và hộ nhân dân có đất nhưng vẫn không
trồng rừng thì Ủy ban Nhân dân huyện có quyền thu đất lại và cấp cho
đơn vị và các nhân khác trồng rừng hoặc làm vườn rừng.
Điều 4. Các
đơn vị quốc doanh, tập thể và nhân dân được giao đất, giao rừng có các
nghĩa vụ sau đây :
a) Phải sử dụng hợp
lý và tổ chức chăm sóc, bảo vệ tốt số đất và rừng được giao theo
nguyên tắc : “Giao đất phải trồng cây, giao rừng phải bảo vệ, chăm
sóc, khai thác hợp lý, đảm bảo tái sinh rừng”, phải theo đúng quy
hoạch kế hoạch và quy trình quy phạm kỹ thuật do cơ quan Lâm nghiệp
hướng dẫn, không được sử dụng đất rừng vào mục đích khác.
b) Phải thực hiện
việc giao nộp sản phẩm và nộp tiền nuôi rừng theo đúng quy định hiện
hành của Nhà nước.
c) Những người trong
lứa tuổi nghĩa vụ làm lao động xã hội chủ nghĩa, nếu nhận rừng
chăm sóc, bảo vệ thì được tính theo diện tích hoặc số cây rừng được
giao tương ứng với số ngày công nghĩa vụ và định mức giao ở điều 3a.
Điều 5. Các
quyền lợi khi giao đất, giao rừng :
a) Rừng do đơn vị
quốc doanh, tập thể hoặc hộ gia đình trồng hoặc cải tạo bằng vốn
tự có và sức lao động của mình thì có quyền lợi :
- Được hưởng toàn
bộ sản phẩm trung gian trong quá trình chăm sóc, tỉa thưa.
- Được sử dụng 50%
sản phẩm chính khi khai thác, còn lại bán cho Nhà nước theo giá thỏa
thuận. Riêng đối với hộ gia đình tự trồng rừng (kể cả vườn rừng và
đất mượn để trồng rừng) khi thu hoạch phải nộp cho huyện, xã hoặc
đơn vị quốc doanh, tập thể trực tiếp quản lý, 20% sản phẩm chính.
Số còn lại được sử dụng hoặc bán cho Nhà nước theo giá thỏa thuận.
- Được hưởng toàn
bộ sản phẩm nông nghiệp trồng xen, vật nuôi theo hướng nông lâm kết
hợp được hưởng các sản phẩm phụ thu được theo quy định hướng dẫn
của ngành Lâm nghiệp.
b) Rừng do thành
phố, quận huyện cấp kinh phí trồng tập trung hoặc phân tán giao cho
đơn vị quốc doanh vá tập thể hoặc hộ gia đình chăm sóc, bảo vệ thì
có các quyền lợi :
- Được hưởng toàn
bộ khi thu nhặt củi khô, sản phẩm trồng xen, nuôi tôm cá dưới tán
rừng, nhưng không làm ảnh hưởng xấy đến sinh trưởng của rừng như làm
đê bao, đắp đập làm thay đổi môi sinh trong rừng (trừ vùng quy hoạch
nuôi tôm tại rừng Đước Duyên Hải), không chăn thả trâu bò bừa bãi, làm
chết cây rừng trên cạn.
- Được sử dụng 20%
sản phẩm khi khai thác trung gian hoặc khai thác chính. Trong đó dành
10% để phục vụ công tác bảo vệ chăm sóc rừng và khen thưởng cho
những người trực tiếp chăm sóc bảo vệ rừng, còn 10% dành cho quỹ
phúc lợi đối với đơn vị quốc doanh, tập thể. Đối với hộ gia đình
dành khoảng 10% phục vụ công tác chăm sóc, bảo vệ rừng được giao, số
còn lại gia đình được quyền sử dụng toàn bộ.
Các sản phẩm được
hưởng trên, khi tiến hành chặt tỉa, các đơn vị quốc doanh, tập thể
và nhân dân phải thực hiện theo đúng quy định kỹ thuật của ngành Lâm
nghiệp, bảo đảm năng suất và chất lượng rừng ngày càng cao.
- Ngoài quyền hưởng
phần trăm sản phẩm chính và toàn bộ sản phẩm phụ còn được trợ cấp
300đ/tháng cho mỗi lao động chăm sóc, bảo vệ rừng (theo định mức giao
ở điều 3a) đối với cán bộ phường xã, nhân dân không có chế độ lương
thực, thực phẩm. Được trợ cấp 100đ/tháng cho mỗi lao động được hưởng
lương thực, thực phẩm của đơn vị. Các đơn vị trực tiếp bảo vệ rừng (Hạt
KLNĐ) làm kế hoạch và dự trù kinh phí hàng năm để trợ cấp kịp thời
cho quần chúng tham gia bảo vệ rừng.
- Đối với những nơi
xa xôi, hẻo lánh đi lại khó khăn (như rừng Sác Duyên Hải) các đơn vị
trực tiếp kinh doanh và quản lý bảo vệ rừng của thành phố hoặc
quận, huyện, xã, nông lâm ngư trường, tùy tình hình cụ thể có thể
được xét cấp phương tiện đi lại (xuồng, ghe chèo tay hoặc xuồng, ghe
máy), chòi canh, trạm gác và những dụng cụ cần thiết khác để công
tác bảo vệ rừng tiến hành được thuận lợi.
- Đối với những lao
động trồng và bảo vệ rừng (theo định mức giao ở điều 3a) được bán
thêm mỗi năm 1 bộ quần áo bảo hộ lao động do Sở Lâm nghiệp lập kế
hoạch xin trang cấp.
c) Được Nhà nước
giao rừng và đất rừng lâu dài tập thể và nhân dân để sản xuất kinh
doanh, chăm sóc, bảo vệ. Trường hợp đặc biệt Nhà nước phải thu hồi
lại một phần hoặc toàn bộ số diện tích đã giao để sử dụng vào
mục đích công cộng khác, thì tập thể và gia đình đó được giao lại
diện tích tương đương khác và được đền bù thích đáng những cây hoặc
màu trên diện tích thu lại. Trong trường hợp tập thể hoặc nhân dân
không có điều kiện tiếp tục kinh doanh, chăm sóc, bảo vệ thỉ được
giao lại cho Nhà nước hoặc tập thể, hộ nhân dân khác kinh doanh và
được thanh toán thỏa đáng kinh phí đầu tư và công sức bỏ ra theo hiện
trạng tài nguyên rừng hiện có dưới sự xác nhận của huyện và ngành
Lâm nghiệp. Trong những năm sau nếu người trực tiếp nhận đất, nhận
rừng kinh doanh chết đi thì những người thân trong gia đình được quyền
thừa kế tài nguyên rừng hiện đang có.
d) Trong từng trường
hợp cụ thể, thành phố, huyện và ngành Lâm nghiệp có thể cung cấp
giống, vật tư, hướng dẫn kỹ thuật, cho vay vốn ngân hàng để quốc doanh,
tập thể và hộ nhân dân sản xuất kinh doanh nghề rừng.
e) Các sản phẩm
chính bán cho Nhà nước được giảm 50% tiền thuế nuôi rừng.
Điều 6. Các
đơn vị quốc doanh, tập thể và hộ nhân dân nhận đất, rừng để trồng
hoặc chăm sóc, bảo vệ thì được khen thưởng và bị phạt như sau :
+ Về khen thưởng :
a) Diện tích hoặc
số cây rừng trồng hoặc chăm sóc bảo vệ không bị chặt phá, không để
trâu bò dẩm đạp làm chết cây hoặc sâu bịnh nặng ; tích cực thực
hiện đúng chính sách, quy định của Nhà nước, của ngành Lâm nghiệp
về trồng rừng và bảo vệ rừng; chăm sóc cây rừng sinh trưởng, phát
triển tốt thì được ngành Lâm nghiệp, Ủy ban Nhân dân huyện, thành phố
hoặc các cấp cao hơn xét khen thưởng, tùy theo thành tích nhiều hay
ít.
b) Diện tích hoặc
số cây rừng nhận trồng hoặc chăm sóc bảo vệ sống tốt 100% thì được
thưởng 5% sản phẩm khi khai thác trung gian hoặc khai thác chính của
chu kỳ chặt, tỉa tiếp đến nếu để rừng bị chặt phá dưới 10% (cũng
có thể xét khen thưởng 2%-3% sản phẩm).
Ngoài các quy định
khen thưởng trên các đơn vị quốc doanh, tập thể và nhân dân được hưởng
đủ các quyền lợi như điều 5 của quyết định.
* Về phạt : Nếu các
đơn vị quốc doanh, tập thể và hộ nhân dân được giao đất, giao rừng mà
không trồng cây theo quy định hoặc để rừng bị phá liên tục, làm thiệt
hại lớn đến tài nguyên rừng của Nhà nước thì sẽ bị phạt như sau :
a) Nếu nhận đất mà
tiến hành trồng cây theo thời gian quy định chậm 1 năm bị phạt 10% giá
trị rừng trồng trên diện tích đó, nếu để kéo dài những năm sau thì
cộng thêm mỗi năm 15%.
b) Diện tích rừng hoặc
số cây rừng bị phá dưới 10% thì sẽ bị kiểm điểm có thể bị kỷ
luật ở hình thức khiển trách hoặc cảnh cáo.
c) Diện tích rừng
hoặc số cây rừng bị phần tử xấu chặt phá từ 10-20% thì sẽ bị cảnh
cáo và phạt trừ 50% sản phẩm qua khai thác trung gian hoặc khai thác
chính của chu kỳ chặt, tỉa tiếp đến cùng với hình thức kỷ luật
hành chánh khác nếu cần.
d) Diện tích rừng
hoặc số cây rừng bị phá trên 20% thì sẽ bị đình chỉ công tác chăm
sóc, bảo vệ rừng, thu hồi phương tiện chăm sóc, bảo vệ rừng nếu
được cấp và không được hưởng tỷ lệ sản phẩm khi khai thác, tỉa thưa
cùng với hình thức kỷ luật hành chánh khác nếu cần thiết.
Các diện tích rừng
hoặc số cây rừng bị chặt phá ở trên, đều phải trồng dậm lại, ngành
lâm nghiệp có nhiệm vụ hướng dẫn kỹ thuật và cung cấp giống để đơn
vị hoặc hộ gia đình nhận bảo vệ rừng trồng lại.
Nếu vì vô trách
nhiệm, không kiểm tra chăm sóc hoặc tổ chức chăm sóc, bảo vệ nghiêm
ngặt để rừng bị chặt phá, làm hao hụt nghiêm trọng tài nguyên rừng,
hoặc có những âm mưu hành động cấu kết với bọn chặt phá rừng vì
lợi ích cá nhân sẽ bị truy tố trước Tòa án nhân dân sẽ xét xử theo
luật hình sự hiện hành và Pháp lệnh bảo vệ rừng của Nhà nước.
Điều 7. Nguồn
kinh phí trồng rừng, chăm sóc bảo vệ rừng :
a) Rừng do hộ nhân
dân tự kinh doanh trồng thì kinh phí tự bỏ ra, ngành lâm nghiệp có
thể cung cấp hạt giống, cây con, hướng dẫn kỹ thuật. Hộ nhân dân được
phép vay vốn ở ngân hàng theo thể thức quy định.
b) Rừng do quận,
huyện, xã và các đơn vị quốc doanh, tập thể trực tiếp quản lý kinh
doanh thì do vốn cân đối của địa phương, đơn vị bao gồm nguồn vốn thu
được do lao động xã hội chủ nghĩa hoặc làm nghĩa vụ lao động, vốn
trích từ quỹ nuôi rừng, vốn vay ngân hàng Nhà nước Thành phố và
ngành lâm nghiệp có thể cấp giống và xét bổ sung thêm vốn trồng cây
rừng, chăm sóc bảo vệ rừng theo chỉ tiêu, kế hoạch đuợc giao hàng
năm.
c) Rừng quốc doanh do
thành phố (ngành lâm nghiệp) quản lý kinh doanh thì nguồn vốn được
tính từ quỹ nuôi rừng do Bộ Lâm nghiệp cấp và kinh phí trồng cây gây
rừng, chăm sóc bảo vệ rừng do Thành phố xét cấp hàng năm.
d) Kinh phí để tổ
chức triển khai giao đất giao rừng được lấy từ quỹ nuôi rừng, vốn
quận huyện tự có và qua cân đối ngân sách địa phương. Nếu thiếu
Thành phố sẽ xét cấp hỗ trợ. Mức kinh phí được quy định như sau :
- Đối với nơi mới
tổ chức giao đất giao rừng tính 10đ/ha.
- Đối với nơi đã quy
hoạch thiết kế, đo đạc, tính 5đ/ha.
Số kinh phí này sử
dụng cho văn phòng phẩm, mẫu biểu, bản đồ, đo đạc cắm mốc, đi lại
và giải quyết những yêu cầu thiết yếu khác cho công tác tổ chức giao
đất giao rừng.
Điều 8. Thủ
tục giao đất giao rừng :
a) Các sở, ban,
ngành thành phố, trước tiên là Sở Lâm nghiệp, cùng Sở Nông nghiệp,
Ban Quản lý ruộng đất, Ban phân vùng kinh tế và Sở Quản lý nhà đất
và công trình công cộng tiến hành soát xét lại tình hình sử dụng
và phân bố đất đai ở các quận, huyện, xã, các nông lâm trường; kiểm
tra diện tích đất đai để hoang, trống hoặc sử dụng không hợp lý,
không có năng suất. Trên cơ sở đó xác định đất nông nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp hoặc đất nông lâm ngư kết hợp để có quy hoạch và
phương hướng sản xuất đúng, phân bố lại lao động, phân tích ranh giới
cho hợp lý, đồng thời kết hợp với các quận huyện, các nông lâm
trường xác định các loại đất, rừng cần giao cho các đơn vị quốc doanh,
tập thể và nhân dân sản xuất kinh doanh nông lâm nghiệp.
Ngành lâm nghiệp
thành phố (trực tiếp là Chi cục KLND, Hạt KLND, các phòng, ban, tổ
nông lâm nghiệp huyện xã) có trách nhiệm làm tham mưu cho Ủy ban Nhân
dân các cấp chỉ đạo và trực tiếp giúp đỡ các huyện triển khai
quyết định giao đất giao rừng của thành phố theo đúng kế hoạch, nội
dung và các thủ tục giao nhận.
b) Ủy ban Nhân dân
quận huyện tiến hành điều tra, thống kê diện tích đất hoang, trống,
đất đai sử dụng hoặc chiếm giữ không hợp lý trên địa bàn quận huyện
để chấn chỉnh lại và giao cấp cho tập thể và nhân dân sản xuất theo
sự chỉ đạo và hướng dẫn của Ủy ban Nhân dân thành phố và các ngành
có liên quan.
Ủy ban Nhân dân xã
có trách nhiệm giúp Ủy ban Nhân dân quận huyện triển khai nhiệm vụ
giao đất giao rừng, tổ chức lại sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp trong
xã và ra quyết định cấp đất làm vườn rừng cũng như chứng nhận cho
các hộ nhân dân mượn đất kinh doanh rừng.
c) Các đơn vị quốc
doanh (nông, lâm trường, ngư trường…) tiến hành xem xét lại tình hình
phân bố và sử dụng đất đai của đơn vị mình. Tất cả các loại đất
để hoang, trống hoặc những khu rừng rẫy, rừng không được chăm sóc bảo
vệ tốt đều phải được xác định, thống kê lại để giao cho tập thể và
nhân dân sản xuất nông, lâm nghiệp theo sự chỉ đạo của Ủy ban Nhân dân
thành phố của các ngành có liên quan nhằm nhanh chóng phủ xanh đất
hoang, đồi trọc bằng cây ăn trái và cây lấy gỗ, củi.
Việc giao đất, giao
rừng phải tiến hành đúng thủ tục quy định để có cơ sở pháp lý
thực hiện.
Khi bàn giao phải có
quyết định của Ủy ban Nhân dân huyện (nếu giao cho tập thể) hoặc của
Ủy ban Nhân dân xã (nếu cấp đất làm vườn rừng không quá 1ha), có bản
đồ xác định rõ ranh giới và bản thuyết minh tình hình đất, rừng khi
giao. Biên bản bàn giao có đủ chữ ký bên giao, bên nhận và có xác
nhận của Ủy ban Nhân dân xã và các ban, ngành có liên quan theo đúng
quy định và chỉ đạo hướng dẫn của Ủy ban Nhân dân thành phố và của
ngành lâm nghiệp.
Đối với đất và
rừng thuộc các đơn vị quốc doanh của thành phố (nông, lâm trường, ngư
trường…) quản lý, cần giao cho các đơn vị quốc doanh, tập thể khác
hộ nhân dân trồng, chăm sóc bảo vệ trên địa bàn huyện nào thì Ủy ban Nhân dân
thành phố ủy quyền cho Ủy ban Nhân dân huyện đó ra quyết định (kết hợp với
ban, ngành, đơn vị chủ quản) và tiến hành bàn giao theo đúng thủ tục
quy định.
Điều 9. Biện
pháp và tổ chức thực hiện.
a) Ở huyện, quận
cần tổ chức đơn vị quản lý lâm nghiệp để giúp Ủy ban Nhân dân huyện,
quận ven tiến hành giao đất, giao rừng, tổ chức trồng rừng, chăm sóc
bảo vệ rừng, nhất thiết phải thành lập tổ lâm nghiệp (trong phòng
lâm nông lâm nghiệp) có từ 1-3 người ở quận ven và huyện ít đất (Quận
8, Tân Bình, Bình Thạnh, Gò Vấp, và huyện Hóc Môn, Bình Chánh, Nhà
Bè, Thủ Đức) và phòng lâm nghiệp có từ 4 đến 6 người ở huyện có
nhiều đất và rừng (Củ Chi, Duyên Hải). Sở Lâm nghiệp và Ban Tổ chức
chánh quyền hướng dẫn các quận huyện thành lập tổ chức lâm nghiệp
để tiến hành các công tác nói trên vào đầu năm 1984.
b) Ở các xã phường
nông nghiệp xây dựng các tổ, đội quần chúng bảo vệ rừng, đơn vị Nhà
nước và tập thể nhận đất, nhận rừng để kinh doanh, chăm sóc bảo vệ,
Sở Lâm nghiệp có văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
quyền lợi của tổ chức quần chúng bảo vệ rừng này.
c) Tiến hành xét
cấp định suất bán chuyên trách làm công tác lâm nghiệp ở các xã có
rừng. Nếu diện tích rừng dưới 500ha (kể cả trồng cây phân tán quy ra
1000cây/ha) thì cấp 1 định suất trên 500ha cấp 2 định suất để làm công
tác quản lý bảo vệ và hướng dẫn tập thể và nhân dân trong xã kinh
doanh rừng. Kinh phí này lấy trong quỹ nuôi rừng ở huyện nếu có và
cân đối ở ngân sách huyện, Thành phố sẽ xét cấp thêm nếu thiếu.
Điều 10. Quyết
định này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.
Điều 11. Các
đồng chí Chánh Văn phòng Ủy ban Nhân dân thành phố, Thủ trưởng các
sở, ban, ngành có liên quan, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các quận huyện,
thủ trưởng các đơn vị quốc doanh tập thể và các chủ hộ nhân dân
được giao đất giao rừng chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
|
TM.
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH/THƯỜNG TRỰC
Lê Đình Nhơn
|