ỦY BAN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
----------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 2992/QĐ-UBND
|
Hà Nội, ngày 05
tháng 6 năm 2019
|
QUYẾT ĐỊNH
PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN “PHÁT TRIỂN ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM
THẤT NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2019 - 2021 TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI”
ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa
phương ngày 19/6/2015;
Căn cứ Chương trình hành động số
22-CTr/TU ngày 24/8/2018 của Thành ủy Hà Nội về việc thực hiện Nghị quyết số
28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về cải cách chính sách bảo
hiểm xã hội;
Căn cứ Kế hoạch số 191/KH-UBND
ngày 02/10/2018 của UBND Thành phố thực hiện Chương trình hành động số
22-CTr/TU ngày 24/8/2018 của Thành ủy Hà Nội;
Xét đề nghị của Giám đốc Bảo hiểm
xã hội thành phố Hà Nội tại Tờ trình số 1260/TTr-BHXH ngày 12/4/2019,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Đề án “Phát triển đối tượng tham gia bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp giai đoạn 2019 - 2021 trên địa bàn thành phố
Hà Nội” (Đề án kèm theo).
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký.
Điều 3. Chánh Văn phòng UBND Thành phố; Giám đốc, Thủ
trưởng các Sở, ban, ngành Thành phố; Chủ tịch UBND các quận, huyện, thị xã và
các đơn vị có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận:
- Như Điều 3;
- Đ/c Bí thư Thành ủy;
- Thường trực Thành ủy;
- Chủ tịch UBND Thành phố;
- Thường trực HĐND Thành phố;
- Các Phó Chủ tịch UBND Thành phố;
- VPUBTP: Các PCVP, Phòng KGVX, TKBT;
- Lưu: VT, KGVXt.
|
TM. ỦY BAN NHÂN
DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Ngô Văn Quý
|
ĐỀ ÁN
PHÁT
TRIỂN ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2019 -
2021 TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
(Kèm theo Quyết định số 2992/QĐ-UBND ngày 05/6/2019 của UBND thành phố Hà Nội)
I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1. Cơ sở thực tiễn
Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm thất nghiệp là chính sách
lớn của Đảng và Nhà nước. Trong những năm qua, việc thực hiện chính sách bảo hiểm
xã hội (BHXH), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) trên địa bàn thành phố Hà Nội đã đạt
được những thành tựu quan trọng, góp phần ổn định đời sống của nhân dân, thực
hiện công bằng xã hội và ổn định chính trị - xã hội. Hệ thống chính sách, pháp
luật về BHXH, BHTN từng bước được hoàn thiện phù hợp với phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước; số người tham gia BHXH, BHTN và hưởng các chế độ BHXH tăng
qua các năm.
Tuy nhiên, hiện nay, độ bao phủ BHXH, BHTN còn thấp,
việc mở rộng và phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHTN dưới mức tiềm năng. Cụ
thể: năm 2018, số người tham gia BHXH: 1.642.685 người chiếm 35,2% lực lượng
lao động (trong đó: số người tham gia BHXH bắt buộc là 1.620.001 người chiếm
34,7% lực lượng lao động, đạt 80,9% số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc;
số người tham gia BHXH tự nguyện là 22.684 người chiếm 0,5% lực lượng lao động,
tốc độ gia tăng so với năm 2017 đạt 7,2%); Số người tham gia BHTN là 1.502.120
người chiếm 32,2% lực lượng lao động, đạt 83,3% số người thuộc diện tham gia
BHTN.
Nguyên nhân của hạn chế trên là do nhận thức của một
bộ phận người lao động, người sử dụng lao động về vai trò, mục đích, ý nghĩa của
BHXH, BHTN chưa đầy đủ. Hiệu lực, hiệu quả thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý
vi phạm trong thực hiện chính sách BHXH, BHTN còn bất cập. Tình trạng doanh
nghiệp nợ đóng và trốn đóng BHXH, BHTN còn nhiều. Công tác thông tin tuyên truyền,
phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH, BHTN chưa thực sự hiệu quả để thu hút
người lao động tham gia BHXH, BHTN. Một số cấp ủy, chính quyền cơ sở chưa quan
tâm chỉ đạo thường xuyên việc thực hiện chính sách pháp luật về BHXH, BHYT,
BHTN trên địa bàn. Do đó, việc xây dựng và tổ chức thực hiện đề án “Phát triển
đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp giai đoạn 2019-2021
trên địa bàn thành phố Hà Nội” là rất cần thiết, để hoàn thành các chỉ tiêu
BHXH, BHYT, BHTN.
2. Cơ sở pháp lý
- Luật Lao động số 08/2012/LCTN ngày 02/7/2012 của
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13 ngày
20/11/2014 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, bổ sung số
46/2014/QH13 ngày 13/6/2014 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
- Luật Việc làm số 38/2013/QH13 ngày 16/11/2013 của
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị
lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách bảo
hiểm xã hội.
- Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày 06/03/2018 của Chính
phủ về việc giao chỉ tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH.
- Nghị quyết số 125/NQ-CP ngày 08/10/2018 của Chính
phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày
23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải
cách chính sách bảo hiểm xã hội.
- Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm
xã hội, đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
- Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp.
- Thông tư số 23/2014/TT-BLĐTBXH ngày 29/8/2014 của
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định
số 03/2014/NĐ-CP ngày 16/01/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Bộ luật Lao động về việc làm.
- Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-BKH ngày
23/02/2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính hướng dẫn việc trao đổi
thông tin về doanh nghiệp giữa hệ thống thông tin Quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp và Hệ thống thông tin thuế.
- Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày 14/4/2017 của Tổng
Giám đốc BHXH Việt Nam ban hành quy trình thu BHXH, BHYT, BHTN, bảo hiểm tai nạn
lao động - bệnh nghề nghiệp; quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT.
- Chương trình hành động số 19-Ctr/TU ngày
17/4/2013 của Thành ủy Hà Nội về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020”.
- Chương trình hành động số 22-CTr/TU ngày
24/8/2018 của Thành ủy Hà Nội về thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày
23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải
cách chính sách bảo hiểm xã hội.
- Kế hoạch 191/KH-UBND ngày 02/10/2018 về thực hiện
Chương trình hành động số 22-CTr/TU ngày 24/8/2018 của Thành ủy Hà Nội về thực
hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.
- Kế hoạch số 223/KH-UBND ngày 10/12/2018 của UBND
thành phố Hà Nội về thực hiện Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày 03/8/2018 của Chính
phủ.
II. THỰC TRẠNG ĐỐI TƯỢNG THAM
GIA BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP TẠI HÀ NỘI
1. Thực trạng đối tượng tham
gia BHXH bắt buộc, Bảo hiểm thất nghiệp
a) Số đơn vị và số lao động tham gia BHXH bắt buộc
Thành phố Hà Nội hiện có trên 7,5 triệu dân, lực lượng
lao động có quy mô lớn và cơ cấu lao động trẻ, số lao động trong độ tuổi lao động
trên 4,6 triệu người. Lực lượng lao động của Hà Nội thường xuyên không ổn định,
có sự di chuyển cơ học rất lớn từ nông thôn về thành thị, từ các tỉnh đến căn cứ
theo mùa vụ và nhu cầu việc làm. Trong những năm gần đây, do nhu cầu đô thị hóa
và phát triển kinh tế của Hà Nội, lao động tăng mạnh ở các ngành công nghiệp và
dịch vụ, giảm mạnh ở ngành nông nghiệp.
Doanh nghiệp tại Hà Nội chủ yếu là những doanh nghiệp
có quy mô nhỏ và hoạt động chính trong lĩnh vực thương mại. Việc chấp hành chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về BHXH, BHYT, BHTN, trách
nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động chưa cao; tình trạng lách
luật, trốn đóng BHXH, BHTN cho người lao động diễn ra phổ biến.
Đến ngày 31/12/2018, thành phố Hà Nội có trên
80.000 đơn vị tham gia BHXH bắt buộc với 1.620.001 lao động (tăng 7% so với
năm 2017 và tăng 13% so với năm 2016), chiếm 34,7% lực lượng lao động, đạt
80,9% số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc; trong đó:
- Số lao động thuộc khối hành chính sự nghiệp là
293.023 lao động.
- Số lao động thuộc khối doanh nghiệp nhà nước là: 128.805
lao động.
- Số lao động thuộc khối doanh nghiệp ngoài quốc
doanh là: 883.537 lao động.
- Số lao động thuộc khối khác là 314.636 lao động.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu vực có số
lao động tham gia BHXH bắt buộc cao nhất và đây cũng chính là khu vực có nguồn
khai thác phát triển đơn vị tiềm năng nhất. Căn cứ theo dữ liệu của Cục Thuế Hà
Nội, hiện nay, thành phố Hà Nội còn khoảng 70.000 doanh nghiệp với hơn 410.000
lao động có kê khai thuế nhưng chưa tham gia BHXH. Bảo hiểm xã hội Thành phố và
các Sở, ngành liên quan cần phải thống kê, rà soát, phân loại số lao động thuộc
đối tượng nhưng chưa tham gia BHXH bắt buộc.
b) Số lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp
Đối tượng tham gia được áp dụng đối với các doanh
nghiệp, cơ quan, tổ chức có sử dụng lao động, lao động làm việc theo hợp đồng
lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và hợp đồng lao động không xác định
thời hạn, hợp đồng lao động dưới 3 tháng nhưng khi hết hạn lại tiếp tục làm việc
hoặc giao kết hợp đồng lao động mới với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đó.
Đến ngày 31/12/2018, thành phố Hà Nội có 1.502.120
người tham gia BHTN (tăng 8% so với năm 2017 và tăng 14% so với năm 2016),
chiếm 32,2% lực lượng lao động, đạt 83,3% số người thuộc diện tham gia BHTN;
trong đó số người tham gia BHTN thuộc khối ngoài quốc doanh là 883.347 người
chiếm 58,8% tổng số lao động tham gia BHTN.
Cùng với việc khai thác, phát triển đối tượng tham
gia BHXH bắt buộc thì khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng là nguồn khai thác,
phát triển lao động tham gia BHTN tiềm năng nhất. Lao động ký hợp đồng lao động
từ đủ 3 tháng trở lên, khi tham gia BHXH bắt buộc đồng nghĩa với việc tham gia
BHTN.
c) Công tác thu BHXH, BHTN
Khai thác, phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHTN
là một trong các nội dung cơ bản để tăng trưởng quỹ BHXH, BHTN. Năm 2016 số thu
BHXH, BHTN là 21.981.234 triệu đồng; năm 2017, số thu BHXH, BHTN là 25.087.350
triệu đồng (tăng 3.106.116 triệu đồng, tăng 14,1% so với năm 2016). Năm
2018 số thu BHXH, BHTN là 28.549.830 triệu đồng (tăng 3.462.480 triệu đồng,
tăng 13,8% so với năm 2017).
Công tác đôn đốc thu BHXH, BHTN, giảm tỷ lệ nợ đóng
BHXH, BHTN ngày càng khó khăn. Đến ngày 31/12/2018 có 27.648 đơn vị nợ BHXH làm
ảnh hưởng đến quyền lợi của 402.782 lao động; tổng số tiền nợ BHXH phải tính
lãi là 979,2 tỷ đồng chiếm 2,53% Kế hoạch thu. Cụ thể:
- Khối doanh nghiệp Nhà nước: 353 đơn vị nợ với
32.703 lao động, số tiền nợ: 137 tỷ đồng, chiếm 14% tổng số nợ.
- Khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh: 24.695 đơn vị
với 258.019 lao động, số tiền nợ: 793 tỷ đồng, chiếm 80,9% tổng số nợ.
- Khối hành chính sự nghiệp: 1.017 đơn vị nợ với
57.636 lao động, số tiền nợ: 22,9 tỷ đồng, chiếm 2,3% tổng số nợ.
- Khác: 1.583 đơn vị nợ với 54.424 lao động, số tiền
nợ: 26,3 tỷ đồng, chiếm 2,7% tổng số nợ.
Số tiền nợ BHXH, BHTN tập trung chủ yếu vào khối
doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp Nhà nước do một số nguyên nhân chủ
yếu sau:
- Nhiều doanh nghiệp trên địa bàn thực sự gặp khó
khăn trong sản xuất kinh doanh, hoạt động cầm chừng. Số tiền nợ ở khối doanh
nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn (nợ 793 tỷ đồng chiếm 80,9% tổng
số tiền nợ).
- Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động có chiều
hướng tăng, việc xử lý nợ BHXH, BHYT đối với các doanh nghiệp giải thể, ngừng
hoạt động,...vẫn chưa có quy định, hướng dẫn giải quyết của pháp luật (Đến
ngày 31/12/2018 có 7.272 đơn vị giải thể, phá sản, ngừng hoạt động với số tiền
nợ BHXH, BHYT, BHTN là 622,7 tỷ đồng).
- Nhận thức của chủ sử dụng lao động về trách nhiệm
và quyền lợi tham gia BHXH, BHYT, BHTN cho người lao động chưa cao, chưa có
trách nhiệm lo cho người lao động mà tìm cách trốn đóng, chậm đóng tiền BHXH,
BHYT, BHTN, bên cạnh đó, người lao động không đấu tranh để đòi hỏi quyền lợi
chính đáng của mình với chủ sử dụng lao động, dẫn đến quyền lợi của người lao động
không được đảm bảo; tác động đến việc bảo đảm an sinh xã hội sau này, cũng như
đạt tỷ lệ hưởng chế độ BHXH khi hết tuổi lao động thấp.
- Công tác đôn đốc, thanh tra, kiểm tra các đơn vị,
doanh nghiệp nợ BHXH, BHYT, BHTN của một số nơi chưa sâu sát, quyết liệt, chưa
thường xuyên, liên tục; số cuộc thanh tra, kiểm tra trên địa bàn quận, huyện,
thị xã còn ít.
- Chưa xét xử được đơn vị nợ đóng, trốn đóng BHXH,
BHYT, BHTN theo quy định của Bộ Luật Hình sự (Điều 214, 215, 216 Bộ Luật Hình sự
số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14
ngày 20/6/2017).
- Công tác tuyên truyền chính sách pháp luật về
BHXH, BHYT, BHTN đã được quan tâm hơn, tuy nhiên, có lúc, có nơi chưa thực hiện
thường xuyên, sâu rộng, hình thức và nội dung tuyên truyền vẫn còn hạn chế.
2. Thực trạng đối tượng tham
gia BHXH tự nguyện
Bảo hiểm xã hội tự nguyện là một hình thức bảo hiểm
thể hiện tính ưu việt của Đảng và Nhà nước, với mục đích bảo đảm cuộc sống cho
người lao động khi về già, khi không còn khả năng lao động. Đối tượng tham gia
BHXH tự nguyện đã được mở rộng1.
Tham gia BHXH tự nguyện là người lao động đã chủ động
lo cho mình khi hết tuổi lao động, khi không còn khả năng lao động; tuy nhiên,
số đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn thành phố Hà Nội rất thấp và
chưa tương xứng với tiềm năng. Cụ thể:
- Đến ngày 31/12/2018, số người tham gia BHXH tự
nguyện là 22.684 người đạt 0,5% lực lượng lao động, tốc độ gia tăng so với năm
2017 là 7,2%.
- Mặt khác, căn cứ vào hồ sơ khi tham gia thì đối
tượng tham gia BHXH tự nguyện hiện nay chủ yếu là những người đã có thời gian
tham gia BHXH bắt buộc đã đủ tuổi nhưng chưa đủ thời gian tham gia BHXH, nay
tham gia BHXH tự nguyện nhằm đủ điều kiện tối thiểu có 20 năm đóng BHXH để nghỉ
hưởng chế độ BHXH. Số lao động là nông dân, người lao động tự do tham gia BHXH
tự nguyện rất thấp.
3. Đánh giá chung
a) Những kết quả đạt được
Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, BHTN, BHXH tự nguyện
ngày càng được mở rộng qua các năm. Số đơn vị, số lao động tham gia BHXH, BHTN
năm sau tăng so năm trước, chính sách BHXH, BHTN đã được mở rộng tới tất cả các
nhóm đối tượng, từ cán bộ, viên chức, cán bộ xã, phường, công nhân, lao động hợp
đồng đến người lao động tự do. Đạt được kết quả trên nguyên nhân chính là do:
- Thực hiện tốt công tác quản lý đối tượng tham gia
BHXH, BHTN: Mặc dù đối tượng tham gia BHXH, BHTN lớn, nhưng Bảo hiểm xã hội
thành phố Hà Nội đã phân loại và quản lý được đơn vị theo các loại hình, các
lĩnh vực hoạt động và đến từng người tham gia BHXH, BHTN. Số đơn vị, số lao động,
quỹ lương tham gia BHXH, BHTN tăng hàng năm. Số thu BHXH, BHTN năm sau cao hơn
năm trước.
- Cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ
thông tin hiệu quả:
+ Những năm qua, cùng với việc tăng cường đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội rất chú trọng
đến công tác cải cách thủ tục hành chính trên tất cả các mặt hoạt động, tạo điều
kiện thuận lợi cho người tham gia và người thụ hưởng chính sách BHXH, BHTN.
+ Thực hiện giao dịch điện tử, hệ thống tiếp nhận,
trả kết quả thủ tục hành chính của BHXH Thành phố được kết nối với hệ thống của
Bưu điện Thành phố để thực hiện tiếp nhận và trả kết quả qua dịch vụ bưu chính.
Cung cấp dịch vụ Công trực tuyến 13 thủ tục hành chính mức độ 3,4; 100% các thủ
tục hành chính được tiếp nhận thông qua Hệ thống một cửa điện tử. Năm 2018, số
đơn vị thực hiện giao dịch hồ sơ điện tử là 67.774 đơn vị, đạt tỷ lệ 97,3%.
+ Triển khai thí điểm thực hiện dịch vụ công trực
tuyến mức độ 4 về kê khai, đóng nộp BHXH, BHYT, BHTN thành công với trên 800
tài khoản của đơn vị sử dụng lao động. Thực hiện tốt công tác cải cách hành
chính đã giảm bớt phiền hà, tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng tham gia và
thụ hưởng.
+ Ứng dụng hiệu quả, liên thông dữ liệu, kết nối
các phần mềm quản lý: giải quyết chế độ BHXH, phần mềm về thu, cấp sổ BHXH, thẻ
BHYT, phần mềm kế toán và Hệ thống thông tin Giám định BHYT để tạo điều kiện
thuận lợi và giải quyết các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho người tham gia đảm bảo
minh bạch, chính xác.
- Sự quản lý, điều hành, chỉ đạo tập trung, thống
nhất trên toàn Thành phố: UBND Thành phố chỉ đạo Bảo hiểm xã hội Thành phố quản
lý, điều hành thống nhất có hiệu quả việc thực hiện nghiệp vụ chuyên môn giải
quyết các chế độ BHXH, BHYT, BHTN từ Thành phố đến quận, huyện, thị xã; bám sát
chỉ đạo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Thành ủy, UBND Thành phố trong thực hiện
công tác thu, công tác phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHTN. Do vậy, đã quản
lý đến từng người lao động, quản lý nguồn thu chặt chẽ, hệ thống sổ sách đầy đủ,
rõ ràng, đúng quy định.
b) Những tồn tại, hạn chế
b1. Về đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, BHTN
- Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, BHTN chưa đạt
100% đối tượng lao động phải tham gia theo quy định của pháp luật.
- Nhiều đơn vị sử dụng lao động trốn đóng, không
tham gia BHXH, BHTN cho người lao động, nợ đóng BHXH, BHTN.
+ Doanh nghiệp tuyển dụng lao động ký kết hợp đồng
lao động không rõ ràng, không đúng với quy định về loại hợp đồng lao động của
Luật Lao động (đối với người lao động làm công việc có tính chất thường xuyên,
liên tục nhưng ký hợp đồng lao động thời vụ, theo vụ việc) ảnh hưởng tới quyền
lợi hợp pháp của người lao động.
+ Không khai báo sử dụng lao động với cơ quan quản
lý Nhà nước về lao động, không tham gia BHXH bắt buộc, BHTN cho người lao động
hoặc chỉ khai báo và tham gia với số lượng ít hơn thực tế.
+ Kê khai mức đóng BHXH bắt buộc, BHTN không đầy đủ,
thấp hơn mức lương thực tế trả cho người lao động.
- Sự phối hợp giữa cơ quan Bảo hiểm xã hội với các
ngành chức năng có lúc chưa đồng bộ: Hiện nay, Bảo hiểm xã hội Thành phố cũng
như các Sở, ban, ngành chức năng chưa nắm chắc được số đơn vị hoạt động sản xuất
kinh doanh có sử dụng lao động, số lao động tham gia quan hệ lao động trên từng
lĩnh vực; có những doanh nghiệp có đăng ký thành lập nhưng không có trụ sở giao
dịch, không hoạt động theo nội dung đăng ký, thành lập trong thời gian ngắn rồi
giải thể, cách thức sử dụng lao động,...các cơ quan chức năng khó khăn trong quản
lý.
- Công tác tuyên truyền chưa thường xuyên, sâu rộng,
hiệu quả chưa cao:
+ Doanh nghiệp chưa thực hiện đúng các quy định của
pháp luật, chưa tham gia BHXH bắt buộc, BHTN cho người lao động. Việc thực hiện
chính sách BHXH, BHTN vẫn là vấn đề nổi cộm cần có các biện pháp, giải pháp
tháo gỡ. Hầu hết người lao động làm việc trong các doanh nghiệp chưa nắm được Bộ
luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Việc làm.
+ Công tác tuyên truyền chế độ chính sách BHXH,
BHTN chưa đi sâu vào từng nhóm đối tượng; do vậy, đa số người dân nói chung và
người lao động nói riêng chưa hiểu được ý nghĩa nhân văn của chính sách BHXH,
BHTN, chưa ý thức được trách nhiệm và quyền lợi khi tham gia BHXH, BHTN.
+ Nhận thức của người lao động về chính sách BHXH,
BHTN còn hạn chế, người lao động làm việc ở các doanh nghiệp đặc biệt là doanh
nghiệp trong lĩnh vực xây dựng, giao thông, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
làm việc theo mùa vụ, khoán công việc,...luôn có tư tưởng không gắn bó lâu dài
nên thỏa hiệp với chủ sử dụng lao động không tham gia BHXH, BHTN.
- Nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh gặp khó
khăn, thiếu vốn, hoạt động cầm chừng, giải thể, phá sản là những yếu tố ảnh hưởng
lớn đến việc hoàn thành chỉ tiêu tham gia BHXH, BHTN.
b.2. Về đối tượng tham gia BHXH tự nguyện
- Số lao động là nông dân, người lao động tự do
tham gia BHXH tự nguyện rất thấp.
- Mức đóng2 BHXH tự
nguyện cao so với nguồn thu nhập, thời gian phải đóng để được hưởng chế độ hưu
trí hay tử tuất dài (20 năm).
- Quy định về thời điểm đóng, phương thức đóng chưa
thuận lợi cho đối tượng tham gia, nhất là nông dân3.
c) Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
c.1. Về đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, BHTN
- Công tác quản lý Nhà nước về BHXH, BHTN: Quản lý
Nhà nước về đăng ký hoạt động kinh doanh và việc đăng ký lao động, sử dụng lao
động của các đơn vị sử dụng lao động chưa đồng bộ. Việc kiểm tra, giám sát
doanh nghiệp còn hạn chế, chưa thường xuyên, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý.
- Các đơn vị SXKD kém hiệu quả, nhận thức về BHXH,
BHTN của người lao động và chủ sử dụng lao động còn hạn chế: Nhận thức của người
sử dụng lao động, người lao động chưa đầy đủ về quyền lợi, nghĩa vụ và trách
nhiệm trong việc thực hiện chính sách BHXH, BHTN; ý thức chấp hành pháp luật
chưa nghiêm, thiếu tính tự giác, chây ỳ, tìm mọi hình thức trốn đóng, không
tham gia BHXH, BHTN làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động.
- Công tác thông tin tuyên truyền chưa đổi mới để
phù hợp với yêu cầu: Công tác thông tin tuyên truyền có lúc, có nơi chưa hiệu
quả; hình thức và nội dung tuyên truyền chưa phù hợp với từng nhóm đối tượng,
chưa tạo được động lực thúc đẩy người lao động, người sử dụng lao động tự giác
tham gia BHXH, BHTN.
c.2. Về đối tượng tham gia BHXH tự nguyện
- Khả năng tài chính để tham gia BHXH tự nguyện của
đa phần người lao động tự do và nông dân chưa ổn định.
- Chất lượng hoạt động của đại lý thu, nhân viên đại
lý thu còn hạn chế, nhân viên đại lý thu chủ yếu là hoạt động kiêm nhiệm, tuy
đã được tập huấn hàng năm nhưng vẫn chưa nắm chắc về chính sách BHXH, BHYT, tạo
tâm lý e ngại cho người tham gia.
III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐỐI
TƯỢNG THAM GIA BHXH, BHTN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ GIAI ĐOẠN 2019 - 2021
1. Bối cảnh, quan điểm, mục
tiêu
a) Bối cảnh
Năm 2019 là năm “bứt phá” để hoàn thành Kế hoạch 5
năm (2016 - 2020) theo Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng,
các mục tiêu tại Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012 -
2020; là năm đầu tiên thực hiện Nghị Quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội
nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách BHXH;
Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày 06/03/2018 của Chính phủ về giao chỉ tiêu phát triển
đối tượng tham gia BHXH; Chương trình hành động số 22-CTr/TU ngày 24/8/2018 của
Thành ủy Hà Nội về việc thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW; Kế hoạch số
191/KH-UBND ngày 02/10/2018 của UBND Thành phố về việc thực hiện Chương trình
hành động số 22-CTr/TU ngày 24/8/2018 của Thành ủy Hà Nội; Nghị quyết số
07/NQ-HĐND ngày 04/12/2018 của Hội đồng nhân dân Thành phố về kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 2019 của thành phố Hà Nội; Quyết định 6688/QĐ-UBND ngày
07/12/2018 của UBND Thành phố về việc giao chỉ tiêu Kế hoạch kinh tế - xã hội
và dự toán thu, chi ngân sách năm 2019 của thành phố Hà Nội.
b) Quan điểm
- Bảo hiểm xã hội là một trụ cột chính của hệ thống
an sinh xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần
quan trọng thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo ổn định chính trị - xã
hội, đời sống nhân dân, phát triển bền vững.
- Phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHTN trên cơ
sở bảo đảm sự tuân thủ các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước; hướng tới bao phủ toàn dân theo lộ trình phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp hài hòa các nguyên tắc đóng - hưởng, công
bằng, bình đẳng; chia sẻ và bền vững.
- Thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội là nhiệm
vụ của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp và của mỗi
người dân.
c) Mục tiêu
c.1 Mục tiêu chung
Phát triển đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, BHTN,
BHXH tự nguyện; tiến tới mọi người lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH, BHTN
đều tham gia BHXH, BHTN. Tổ chức quản lý tốt các nhóm đối tượng trong phạm vi
điều chỉnh của chính sách BHXH, BHTN.
c.2. Mục tiêu cụ thể
- Năm 2019:
+ Tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
đạt 90% số người thuộc diện tham gia; Tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm thất
nghiệp đạt 90% số người thuộc diện tham gia.
+ Tốc độ gia tăng bảo hiểm xã hội tự nguyện đạt
30%.
Tương ứng có 36,8% số người trong độ tuổi lao động
tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức
tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm 0,63% lực lượng lao động trong độ tuổi;
có 31,1% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
- Năm 2020: Có 38,4% số người trong độ tuổi lao động
tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi chính thức
tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm 0,81% lực lượng lao động trong độ tuổi;
có 32% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
- Phấn đấu đến năm 2021 có 40% số người trong độ tuổi
lao động tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó nông dân và lao động khu vực phi
chính thức tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chiếm trên 1% lực lượng lao động
trong độ tuổi; có 33% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
2. Các giải pháp thực hiện
a) Cách tiếp cận trong đề xuất giải pháp
Trên cơ sở các quy định của pháp luật về BHXH, BHTN
và khẳng định vai trò quản lý của Nhà nước, Đề án đề xuất giải pháp dựa trên
cách tiếp cận sau:
- Giải pháp gắn với nội dung các Kế hoạch của UBND
Thành phố: số 191/KH-UBND ngày 02/10/2018 thực hiện Chương trình hành động số
22-CTr/TU ngày 24/8/2018 của Thành ủy Hà Nội về thực hiện Nghị quyết số
28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; số 212/KH-UBND ngày 16/11/2018
về việc thực hiện Nghị quyết số 125/NQ-CP ngày 08/10/2018 của Chính phủ ban
hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW; số
223/KH-UBND ngày 10/12/2018 về thực hiện Nghị quyết số 102/NQ-CP ngày 03/8/2018
của Chính phủ. Tập trung vào các chỉ tiêu kết quả định lượng cuối kỳ và việc
đào tạo cán bộ, khai thác, thực hiện tốt công tác thu BHXH, BHTN.
- Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc quản lý,
định hướng, dẫn dắt và hỗ trợ việc phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHTN.
Các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động và người lao động phải thực hiện
nghiêm pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia BHXH,
BHTN.
b) Các giải pháp cụ thể
b.1. Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước về
BHXH, BHTN
Để tăng cường vai trò quản lý Nhà nước về BHXH,
BHTN cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Đẩy mạnh công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật về BHXH, BHTN, hướng dẫn chính xác, kịp thời.
- Đổi mới hoạt động thu BHXH, BHTN trên cơ sở tăng
cường sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý tại địa phương, thực hiện cải
cách hành chính trong hệ thống BHXH để phục vụ tốt hơn nữa cho người tham gia
và thụ hưởng.
- Sở Lao động Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp
chặt chẽ với Thanh tra Thành phố, Công an Thành phố, Bảo hiểm xã hội Thành phố
và các Sở, ban, ngành liên quan tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các đơn
vị nợ đóng, trốn đóng BHXH, BHTN và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật
về BHXH, BHTN.
- Bảo hiểm xã hội Thành phố tăng cường thanh tra
chuyên ngành đóng BHXH.
- Phối hợp, chia sẻ, kết nối thông tin, dữ liệu về
doanh nghiệp và lao động giữa các Sở, ngành: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Lao
động Thương binh và Xã hội, Cục Thuế Thành phố, Cục Thống kê, Bảo hiểm xã hội
Thành phố để nâng cao hiệu quả quản lý đối tượng tham gia BHXH, BHTN và thực hiện
chính sách BHXH, BHTN trên địa bàn.
b.2. Đẩy mạnh hoạt động thông tin, tuyên truyền
thiết thực và có hiệu quả
Đổi mới công tác thông tin tuyên truyền cả về nội
dung và hình thức nhằm thay đổi nhận thức của một bộ phận không nhỏ người lao động,
người sử dụng lao động. Để đẩy mạnh và tăng tính hiệu quả công tác tuyên truyền
cần thực hiện một số nội dung như sau:
- Ngành BHXH phải nâng cao hơn nữa chất lượng phục
vụ, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong tất cả các khâu, tạo điều kiện
thuận lợi cho người lao động trong quá trình đóng và hưởng BHXH, BHTN.
- Sử dụng các phương tiện thông tin tuyên truyền
như báo, tạp chí, truyền hình, phát tờ rơi... để thông tin thường xuyên về chế
độ chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp đến từng nhóm đối tượng. Đặc
biệt, thường xuyên tổ chức thực hiện các buổi phỏng vấn và giải đáp thắc mắc về
BHXH, BHTN trên báo, truyền hình.
- Mở rộng các nội dung trên Cổng thông tin điện tử
của Bảo hiểm xã hội Thành phố, cổng thông tin của UBND Thành phố, cổng thông
tin UBND các quận, huyện, thị xã để cung cấp các văn bản chính sách về BHXH,
BHTN; thông tin về công tác thu, công tác khai thác phát triển đối tượng, hướng
dẫn thủ tục, tiếp nhận các thông tin phản hồi của người tham gia BHXH, BHTN để
xem xét kịp thời điều chỉnh, nhằm nâng cao tính hấp dẫn của BHXH, BHTN.
- Tổ chức các hội nghị, hội thảo về BHXH, BHTN; phổ
biến những kinh nghiệm, những kiến nghị với các cơ quan chức năng về vấn đề khó
khăn, vướng mắc trong cơ chế, chính sách có liên quan. Đồng thời, định kỳ tổ chức
các buổi tọa đàm, đối thoại trực tiếp với chủ sử dụng lao động, các tổ chức
kinh tế - xã hội để phổ biến chính sách chế độ BHXH, BHTN.
- Cơ quan Bảo hiểm xã hội phối hợp với cấp ủy và
chính quyền địa phương tổ chức các cuộc tọa đàm, đối thoại trực tiếp với người
dân tại các cụm dân cư, các Hội, Đoàn thể để tuyên truyền, vận động người dân
tham gia BHXH tự nguyện.
b.3. Khai thác mở rộng đối tượng để tăng nguồn
thu BHXH, BHTN
Nắm bắt số lượng các cơ sở SXKD, dịch vụ, làng nghề...
và người lao động trên địa bàn. Cụ thể:
- Thống kê số lao động đang làm việc trong các cơ sở
thuộc thành phần kinh tế chính thức, phi chính thức, các làng nghề; nắm chắc được
số lao động hiện tại trên địa bàn.
- Thông qua mạng lưới cơ sở: tổ dân phố, các Hội
đoàn thể (Phụ nữ, Chữ thập đỏ, Đoàn thanh niên...) và các cơ quan chức năng, thực
hiện rà soát, thống kê đối tượng, phân nhóm lao động cho phù hợp để tuyên truyền,
vận động tham gia BHXH tự nguyện.
- Các Sở, ngành: Kế hoạch Đầu tư, Lao động Thương
binh và Xã hội, Nội vụ, Liên đoàn Lao động Thành phố, Cục thuế Thành phố thường
xuyên thông tin về các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, các doanh nghiệp...
có đăng ký hoạt động kinh doanh, có sử dụng lao động làm cơ sở cho việc khai
thác, mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, BHTN, BHXH tự nguyện.
- Tăng cường kiểm tra giám sát các đơn vị về sử dụng
lao động, về việc chấp hành Bộ Luật lao động.
- Tiến hành phân loại cơ sở SXKD, DV, làng nghề...
về quy mô tổ chức sản xuất kinh doanh, số lao động và hình thức ký kết hợp đồng
lao động. Trên cơ sở đó kiến nghị với các cấp có thẩm quyền yêu cầu các đơn vị
thực hiện nghiêm túc chính sách BHXH, BHTN cho người lao động theo đúng quy định.
b.4. Tăng cường thu BHXH, BHTN, giảm tỷ lệ nợ
BHXH, BHTN.
Tình trạng nợ đọng, chiếm dụng tiền BHXH, BHTN
trong các doanh nghiệp hiện nay rất phổ biến và trở thành một trong những
nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tranh chấp và khiếu kiện giữa người lao động và chủ
sử dụng lao động. Việc không tham gia BHXH, BHTN đầy đủ cho người lao động ảnh
hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Để thực hiện
tốt công tác thu BHXH, BHTN, cần thực hiện các nội dung sau:
- Thực hiện nghiêm Luật BHXH, Luật Việc làm để hạn
chế tình trạng trốn đóng BHXH, BHTN.
- Xử phạt nghiêm những trường hợp nợ đóng, trốn
đóng BHXH, BHTN cho người lao động. Đối với những doanh nghiệp cố tình trốn
đóng, nợ đóng BHXH chuyển Công an Thành phố xử lý theo quy định của Bộ luật
Hình sự để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trên địa bàn
Thành phố.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý
vi phạm về đóng BHXH, BHTN, nhằm tăng cường pháp chế trong việc thực hiện chính
sách BHXH, BHTN đảm bảo cho mọi người lao động đều được tham gia BHXH, BHTN; đồng
thời, phát hiện những vi phạm trong việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH,
BHTN, qua đó có những biện pháp xử lý kịp thời buộc đơn vị sử dụng lao động phải
chấp hành nghiêm chỉnh chế độ, chính sách BHXH, BHTN.
- Thực hiện khen thưởng, động viên kịp thời đối với
các đơn vị sử dụng lao động làm tốt công tác BHXH, BHTN, nhất là đối với cán bộ
làm trực tiếp tại các đơn vị, nhằm đạt được kết quả cao trong quá trình thực hiện
chính sách BHXH, BHTN.
b.5. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực nghiệp
vụ cho viên chức ngành BHXH
- Sắp xếp bố trí vị trí việc làm cho viên chức phù
hợp với khả năng, năng lực đảm bảo đúng người, hiệu quả, năng suất, gắn kết quả
công việc với đánh giá xếp loại thi đua hằng tháng, quý.
- Xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và trách nhiệm của cán bộ, viên chức Bảo hiểm xã
hội Thành phố. Thực hiện đạo đức công vụ, quy tắc ứng xử của công chức, viên chức
và người lao động theo đúng quy định của UBND Thành phố và của Bảo hiểm xã hội
Việt Nam.
b.6. Tăng cường công tác phối hợp giữa các Sở,
ban, ngành chức năng của Thành phố
Các Sở: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Lao động
Thương binh và Xã hội, Cục thuế Thành phố và Bảo hiểm xã hội Thành phố thường
xuyên phối hợp, chia sẻ, kết nối thông tin, dữ liệu về doanh nghiệp và lao động
để nâng cao hiệu quả quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và thực thi
chính sách bảo hiểm xã hội trên địa bàn Thành phố.
Các cơ quan, Sở, ngành: Liên đoàn Lao động Thành phố,
Lao động Thương binh và Xã hội, Thanh tra Thành phố, Công an Thành phố, Cục Thuế
Thành phố, Bảo hiểm xã hội Thành phố tăng cường thanh tra, kiểm tra đảm bảo quyền
lợi hợp pháp của người lao động theo quy định của pháp luật.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Nguồn kinh phí thực hiện Đề án
Các hoạt động của đề án được đảm bảo triển khai thực
hiện bằng ngân sách nhà nước theo quy định của Luật Ngân sách và từ các nguồn hỗ
trợ hợp pháp khác (nếu có).
2. Trách nhiệm triển khai
a) Bảo hiểm xã hội Thành phố
- Phối hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội,
Thanh tra Thành phố, Công an Thành phố, Cục Thuế Hà Nội tăng cường thanh tra,
kiểm tra xử lý nghiêm các đơn vị, doanh nghiệp trốn đóng, nợ đóng BHXH, BHTN.
- Phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Cục Thuế Hà Nội
rà soát, cập nhật danh sách các tổ chức, doanh nghiệp đang hoạt động nhưng chưa
tham gia BHXH để tập trung phát triển, yêu cầu các tổ chức, doanh nghiệp tham
gia BHXH cho người lao động theo quy định của pháp luật.
- Hàng tháng, tổ chức hướng dẫn cho các đơn vị mới
tham gia BHXH thủ tục hồ sơ và các nghiệp vụ liên quan đến BHXH, BHTN.
- Phối hợp với cơ quan chức năng, UBND các cấp định
kỳ hàng tháng rà soát tình trạng hoạt động của đơn vị, đối với các đơn vị còn
hoạt động thống kê, rà soát tình hình sử dụng, lao động của đơn vị, xác định đối
tượng thuộc diện tham gia BHXH, BHTN.
- Chủ trì, phối hợp với Sở Lao động Thương binh và
Xã hội thực hiện rà soát, thống kê số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp
làm cơ sở mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHTN.
- Tập huấn kỹ năng rà soát, thống kê, tổng hợp kết
quả, phân loại nhóm đối tượng chưa tham gia BHXH, BHTN; phân loại các nhóm đối
tượng thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện nhưng chưa tham gia như sau:
+ Người bảo lưu thời gian đóng BHXH, người đang hưởng
trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp.
+ Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn
dưới 01 tháng, hợp đồng khoán việc tại các doanh nghiệp.
+ Chủ hộ kinh doanh cá thể, gia đình làm nghề truyền
thống, tiểu thương...
+ Người lao động tự do, người làm nông, lâm, ngư,
diêm nghiệp và người lao động tự tạo việc làm khác.
+ Người có quyết toán thuế thu nhập cá nhân nhưng
không thuộc đối tượng tham gia BHXH tự nguyện sau khi rà soát chênh lệch thuế
như: hợp đồng thử việc, học việc, hợp đồng giao khoán...
+ Các gia đình làm nghề truyền thống, tiểu
thương...
- Đào tạo, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng
tuyên truyền, vận động cho cán bộ, viên chức Bảo hiểm xã hội Thành phố, nhân
viên đại lý thu, nhân viên Trung tâm dịch vụ việc làm.
- Kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền để cải cách
TTHC và điều chỉnh thời điểm đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện theo phương thức
thu nộp cho phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người tham gia.
- Phối hợp với cấp ủy và chính quyền địa phương tổ
chức các cuộc tọa đàm, đối thoại trực tiếp với người dân tại các cụm dân cư,
các Hội, Đoàn thể để tuyên truyền, vận động người dân tham gia BHXH tự nguyện.
Phối hợp với Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Liên đoàn Lao động Thành phố tổ
chức các Hội nghị, Hội thảo, đối thoại trực tiếp với người lao động và chủ sử dụng
lao động tại các đơn vị, doanh nghiệp về chính sách BHXH, BHTN.
- Phối hợp với Báo Hà Nội Mới, Báo Lao động Thủ đô,
Báo Tuổi trẻ Thủ đô, Báo Kinh tế và Đô thị, Báo Phụ nữ Thủ đô, Đài Phát thanh
và Truyền hình Hà Nội, hệ thống thông tin cơ sở mở chuyên trang, chuyên mục,
chuyên đề, tăng cường tin bài, phóng sự phản ánh kết quả thực hiện chính sách
BHXH, BHTN và biểu dương, động viên kịp thời các tập thể, cá nhân thực hiện tốt;
đồng thời, phê phán những tập thể, cá nhân vi phạm các quy định của pháp luật về
BHXH như trốn đóng, nợ đóng BHXH, trục lợi, gian lận BHXH, BHTN trên các phương
tiện thông tin đại chúng nhằm tuyên truyền, phổ biến chính sách BHXH, BHTN sâu
rộng tới mọi tầng lớp nhân dân Thủ đô.
- Biên soạn tài liệu tập huấn, các mẫu phiếu hỏi,
phiếu điều tra, mẫu thống kê, tổng hợp số liệu, tài liệu hướng dẫn, tờ rơi
tuyên truyền về BHXH bắt buộc, BHTN, BHXH tự nguyện.
- Tham mưu UBND Thành phố tổ chức sơ kết, tổng kết
các hoạt động của Đề án.
b) Sở Lao động Thương binh và Xã hội
- Phối hợp với Bảo hiểm xã hội Thành phố thực hiện
rà soát, thống kê số lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp làm cơ sở mở rộng
đối tượng tham gia BHXH, BHTN.
- Tăng cường thanh tra, kiểm tra về lao động, việc làm,
an toàn vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội tại các doanh nghiệp nhất là các
doanh nghiệp nợ đóng, trốn đóng BHXH, BHTN. Kịp thời chấn chỉnh, xử lý nghiêm
các trường hợp trốn đóng, nợ đóng, vi phạm chính sách pháp luật về BHXH nhằm
nâng cao ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc thực hiện các quy định
của pháp luật.
- Phối hợp với Bảo hiểm xã hội Thành phố và các cơ
quan liên quan tổ chức tuyên truyền, đối thoại chính sách pháp luật về lao động
- việc làm, an toàn vệ sinh lao động, tiền lương, BHXH, BHTN... cho người lao động,
người sử dụng lao động nhằm nâng cao sự hiểu biết pháp luật và tăng nhanh diện
bao phủ BHXH, BHTN.
- Chỉ đạo Trung tâm dịch vụ việc Hà Nội tuyên truyền
vận động người dân tham gia BHXH tự nguyện đối với các trường hợp đề nghị thanh
toán chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
c) Sở Kế hoạch và Đầu tư
- Tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHXH, BHTN
ngay từ khi các cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân đề nghị cấp phép đầu tư hoặc
giấy phép đăng ký kinh doanh. Cung cấp hồ sơ đăng ký tham gia BHXH, BHYT cùng
Giấy phép đầu tư hoặc Giấy đăng ký kinh doanh.
- Định kỳ hàng quý cung cấp cho Bảo hiểm xã hội
thành phố Hà Nội danh sách doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh mới, đơn vị phá sản,
giải thể, ngừng hoạt động... để Bảo hiểm xã hội Thành phố có cơ sở đối chiếu,
triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế theo quy định.
d) Sở Tài chính
- Trên cơ sở Đề án được phê duyệt và đề xuất của Bảo
hiểm xã hội Thành phố, Sở Tài chính rà soát, tổng hợp, tham mưu UBND Thành phố
trình HĐND Thành phố cân đối, bố trí kinh phí từ nguồn vốn sự nghiệp (nếu
có) để thực hiện Đề án theo quy định.
- Hàng năm, tham mưu UBND Thành phố cân đối, bố trí
kinh phí từ nguồn vốn sự nghiệp để thực hiện chính sách hỗ trợ cho người tham
gia BHXH tự nguyện theo quy định.
đ) Cục Thuế Hà Nội
- Khi thực hiện thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở
người nộp thuế lồng ghép nội dung thanh tra, kiểm tra việc tham gia BHXH, nợ
BHXH của doanh nghiệp; đồng thời, khi kết luận thanh tra, kiểm tra yêu cầu các
doanh nghiệp nợ BHXH nộp đủ tiền, doanh nghiệp chưa tham gia BHXH phải tham gia
cho người lao động đúng quy định pháp luật.
- Định kỳ hàng quý cung cấp dữ liệu về số đơn vị
doanh nghiệp có mã số thuế, đang nộp thuế, địa chỉ kinh doanh, tình trạng hoạt
động và số lao động quyết toán thuế thu nhập cá nhân tại các doanh nghiệp để cơ
quan Bảo hiểm xã hội có căn cứ xác định, phân loại số đơn vị, lao động thuộc diện
tham gia BHXH, BHTN nhưng chưa tham gia.
- Kiểm tra các doanh nghiệp khai báo đã đóng BHXH,
BHYT, BHTN cho người lao động để đưa vào chi phí hợp lý giảm trừ thuế nhưng thực
tế chưa đóng BHXH, BHYT, BHTN.
e) Liên đoàn Lao động Thành phố
- Chỉ đạo công đoàn cơ sở tuyên truyền phổ biến
chính sách BHXH, BHYT đến người sử dụng lao động, người lao động thông qua hệ
thống công đoàn cơ sở.
- Phối hợp với Bảo hiểm xã hội Thành phố tham gia
các hoạt động kiểm tra liên ngành trong thực hiện chính sách BHXH, BHYT tại các
đơn vị sử dụng lao động và khởi kiện các đơn vị sử dụng lao động không thực hiện
pháp luật về BHXH, BHYT cho người lao động để đảm bảo quyền lợi cho người lao động.
g) Sở Văn hóa và Thể thao
- Phối hợp với Bảo hiểm xã hội Thành phố tăng cường
các hình thức tuyên truyền trực quan, đặt các tấm panô trên tuyến đường lớn,
các khu công nghiệp, kẻ vẽ, chăng, treo khẩu hiệu, áp phích cổ động, tờ rơi, tờ
gấp,... từng bước đổi mới hình thức hoạt động, tạo sự quan tâm, chú ý của các tầng
lớp nhân dân.
- Chỉ đạo phòng Văn hóa Thông tin các quận, huyện,
thị xã tuyên truyền chính sách pháp luật về BHXH, BHYT đến mọi người dân bằng
nhiều hình thức.
h) Sở Thông tin và Truyền thông: Hướng dẫn các cơ
quan báo chí Thành phố, cơ quan báo chí Trung ương phối hợp với Bảo hiểm xã hội
Thành phố và chỉ đạo hệ thống thông tin cơ sở tổ chức tuyên truyền chính sách,
pháp luật về BHXH, BHYT, BHTN đến đông đảo người dân Thủ đô.
i) Các cơ quan báo chí Thành phố: Phối hợp với Bảo
hiểm xã hội Thành phố xây dựng các chuyên trang, chuyên mục; tăng cường tin
bài, phóng sự phản ánh kết quả thực hiện chính sách BHXH, BHYT, BHTN và biểu
dương, động viên kịp thời các tập thể, cá nhân làm tốt, đồng thời phê phán những
tập thể, cá nhân vi phạm các quy định của pháp luật về BHXH trên địa bàn Thành
phố.
k) UBND các quận, huyện, thị xã
- Chỉ đạo cơ quan chuyên môn thuộc thẩm quyền thực
hiện, phối hợp thực hiện các hoạt động đề ra trong Đề án này khi triển khai
trên địa bàn.
- Hàng năm, trình HĐND quận, huyện, thị xã giao chỉ
tiêu phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT, BHTN cho từng xã, phường, thị trấn
trên địa bàn.
- Hỗ trợ kinh phí và các nguồn lực phù hợp theo quy
định để thực hiện có hiệu quả các hoạt động phối hợp đề ra trong Đề án này khi
triển khai trên địa bàn.
- Chỉ đạo các phòng, ban chức năng, UBND các xã,
phường, thị trấn phối hợp cơ quan Bảo hiểm xã hội tiến hành thanh tra, kiểm tra
các đơn vị trên địa bàn, xử lý nghiêm các trường hợp chây ỳ, trốn đóng, nợ
BHXH; rà soát các doanh nghiệp đang hoạt động chưa tham gia BHXH trên địa bàn để
yêu cầu tham gia theo quy định của pháp luật; thông tin kịp thời trên cổng
thông tin của UBND quận, huyện, thị xã các đơn vị nợ đóng, trốn đóng BHXH.
- Chỉ đạo UBND các xã, phường, thị trấn phối hợp Bảo
hiểm xã hội quận, huyện, thị xã rà soát, xác định tình trạng hoạt động của các
doanh nghiệp trên địa bàn làm cơ sở thực hiện chế độ, chính sách đối với người
lao động.
- Chỉ đạo UBND các xã, phường, thị trấn phối hợp với
cơ quan BHXH, Bưu điện để tổ chức tuyên truyền vận động người dân tham gia BHXH
tự nguyện.
- Chủ động thành lập các đoàn thanh tra, kiểm tra
và xử lý vi phạm đối với các đơn vị, doanh nghiệp chây ỳ, trốn đóng, nợ BHXH
trên địa bàn.
V. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG VÀ HIỆU QUẢ
KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA ĐỀ ÁN
Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp, hoạt động
được đề ra trong Đề án này dự kiến sẽ mang lại những tác động tích cực như sau:
1. Thực hiện thành công mục tiêu “Bảo hiểm xã hội
cho mọi người lao động” theo đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước về
BHXH, BHTN đảm bảo vai trò là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội.
2. Nâng cao vai trò của cấp ủy, chính quyền địa
phương các cấp, tăng số lượng người tham gia BHXH, BHTN trên địa bàn Thành phố.
3. Quỹ BHXH, BHTN sẽ giảm gánh nặng chi tiêu từ mỗi
cá nhân, từ đó có tác động xã hội to lớn, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
4. Đối với mỗi cá nhân: tham gia BHXH, BHTN là thể
hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi công dân trong thực hiện chính sách pháp
luật về BHXH, BHTN, là một cách dự phòng rủi ro về tài chính khi ốm đau bệnh tật,
tuổi già có tính ổn định; thông qua đó, hình thành một nếp suy nghĩ mới, một
thói quen mới và một cách ứng xử văn minh, có văn hóa, có trách nhiệm với bản
thân, gia đình và xã hội.
5. Đối với các doanh nghiệp: khi buộc phải nghiêm
túc thực hiện trách nhiệm BHXH, BHTN cho người lao động theo quy định sẽ góp phần
đảm bảo quyền lợi của người lao động, khắc phục được một trong những nguyên
nhân phát sinh đình công, lãn công, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, thiệt hại
về vật chất và tác động bất lợi đến môi trường đầu tư.
6. Tăng nguồn thu của quỹ BHXH, BHTN đảm bảo cân đối
thu - chi: Việc phát triển đối tượng tham gia sẽ đảm bảo nguồn thu của Quỹ
BHXH, BHTN, là cơ sở quan trọng để đảm bảo quyền lợi BHXH, BHTN. Thực tiễn cho
thấy, khi số người tham gia nhiều và thuộc nhiều nhóm đối tượng khác nhau về độ
tuổi, giới tính, trình độ, điều kiện làm việc... thì sự chia sẻ giữa những người
tham gia sẽ cao hơn.
7. Tác động đến hoạt động của doanh nghiệp và người
lao động: Các quy định của Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Việc
làm được thực hiện nghiêm túc, cùng với cơ chế thanh tra, kiểm tra được thực hiện
thường xuyên, liên tục đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động,
người lao động yên tâm làm việc, góp phần tăng năng suất và hiệu quả lao động,
từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, thúc đẩy kinh tế phát
triển./.
1 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội quy định: đối tượng
tham gia BHXH tự nguyện là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc
đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo quy định của pháp luật về BHXH.
2 Khoản 1 Điều 87 Luật Bảo hiểm xã hội quy định:
người tham gia BHXH tự nguyện hằng tháng đóng bằng 22% mức thu nhập tháng do
người lao động lựa chọn để đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất; mức thu nhập tháng
làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội thấp nhất bằng mức chuẩn hộ nghèo của khu vực
nông thôn và cao nhất bằng 20 lần mức lương cơ sở.
3 Khoản 2 Điều 87 Luật Bảo hiểm xã hội: đóng trong
tháng đối với phương thức đóng hàng tháng, đóng trong 3 tháng đối với phương thức
đóng 3 tháng một lần, đóng trong 4 tháng đầu đối với phương thức đóng 6 tháng một
lần, đóng trong 7 tháng đầu đối với phương thức đóng 12 tháng một lần; trường hợp
người lao động đóng không đúng thời điểm lại phải kê khai, đăng ký lại từ đầu.