|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
525/BC-UBTVQH13
|
|
Loại văn bản:
|
Báo cáo
|
Nơi ban hành:
|
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
|
|
Người ký:
|
Tòng Thị Phóng
|
Ngày ban hành:
|
14/10/2013
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Số công báo:
|
Đang cập nhật
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
ỦY BAN THƯỜNG VỤ
QUỐC HỘI
--------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
|
Số:
525/BC-UBTVQH13
|
Hà Nội, ngày 14
tháng 10 năm 2013
|
BÁO CÁO
KẾT QUẢ GIÁM SÁT VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BẢO
HIỂM Y TẾ GIAI ĐOẠN 2009-2012
Kính gửi: Các
vị đại biểu Quốc hội
Thực hiện Chương trình hoạt động giám sát của Quốc
hội năm 20131, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thành
lập Đoàn giám sát2 “Việc thực hiện chính sách,
pháp luật về bảo hiểm y tế giai đoạn 2009-2012”3.
Đoàn giám sát (ĐGS) của Ủy ban thường vụ Quốc hội đã nghe báo cáo của Chính phủ
và một số bộ, ngành liên quan; tổ chức Đoàn đi giám sát tại 9 tỉnh/thành phố4 (phụ lục số 1); yêu cầu Đoàn đại biểu Quốc
hội các tỉnh/thành phố tổ chức giám sát tại địa phương5;
nghe Bộ trưởng Bộ Y tế giải trình về chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh (KCB) và
quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm y tế (BHYT); đồng thời, nghiên cứu thông tin, tư
liệu qua các hoạt động có liên quan của Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội
để bổ sung cho báo cáo.
Được triển khai ở Việt Nam từ năm 1992, chính sách
BHYT đã trải qua các mô hình: quản lý BHYT theo cấp tỉnh (1992-1997), Bộ Y tế
quản lý (1998-2003) và quản lý tập trung tại Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam từ
năm 2003 đến nay. Giai đoạn 1992-2008, BHYT Việt Nam được thực hiện theo các
văn bản dưới luật của Chính phủ. Trên cơ sở thực tiễn gần 20 năm triển khai thực
hiện chính sách BHYT, năm 2008 Quốc hội đã ban hành Luật BHYT.
Chính sách, pháp luật (CSPL) về BHYT bao gồm các chủ
trương, chính sách, quan điểm của Đảng, Nhà nước thể hiện trong nhiều nghị quyết,
chỉ thị của Đảng6 (phụ lục số 2) được thể
chế hóa trong Luật bảo hiểm y tế. Quan điểm của Đảng, Nhà nước khẳng định chính
sách BHYT là một trong những trụ cột của an sinh xã hội, là cơ chế tài chính y
tế quan trọng và là cơ chế chi trả trước được đa số các quốc gia trên thế giới
áp dụng giúp người dân khi bị ốm đau không bị rơi vào cảnh nghèo đói và là định
hướng phát triển trong chăm sóc sức khỏe người dân.
Sau đây, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin trình Quốc hội
Báo cáo kết quả giám sát thực hiện CSPL về BHYT giai đoạn 2009-2012.
Phần thứ nhất.
KẾT QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ
1. Việc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật hướng dẫn thi hành Luật BHYT
Theo quy định của Luật BHYT (có hiệu lực từ
1/7/2009), có 16 điều giao cho Chính phủ, Bộ Y tế và các bộ ngành liên quan hướng
dẫn thi hành. Đến nay, Chính phủ, Bộ Y tế và bộ ngành liên quan đã hướng dẫn
thi hành 15 điều tại 2 Nghị định của Chính phủ, 2 quyết định của Thủ tướng
Chính phủ, 14 thông tư (trong đó có 5 thông tư liên bộ) do Bộ Y tế và các bộ
ngành liên quan ban hành (phụ lục số 3). Nhìn chung, các văn bản hướng dẫn
thi hành Luật BHYT bảo đảm quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
(VBQPPL) và có tính khả thi.
Cùng với Luật BHYT, năm 2012, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Đề án “Thực hiện lộ trình tiến tới BHYT toàn dân giai đoạn
2012-2015 và 2020”, theo đó, năm 2015 dự kiến sẽ có 70% và đến năm 2020 dự kiến
sẽ có 80% dân số tham gia BHYT.
Ngoài các văn bản hướng dẫn do Chính phủ và bộ
ngành ban hành, BHXH Việt Nam đã ban hành 6 quyết định và khoảng 150 văn bản hướng
dẫn chuyên môn nghiệp vụ; Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố (sau đây gọi chung là
cấp tỉnh) theo thẩm quyền đã ban hành các văn bản hướng dẫn để tổ chức triển
khai thực hiện tại địa phương, về cơ bản, nội dung các văn bản này phù hợp với
pháp luật.
Qua 4 năm thực hiện, Luật BHYT được đánh giá là một
trong những đạo luật được triển khai tương đối kịp thời, đáp ứng yêu cầu của cuộc
sống.
Tuy nhiên, tất cả các văn bản hướng dẫn thi hành Luật
BHYT do Chính phủ và bộ ngành ban hành đều chậm tiến độ từ 1 tháng đến 40 tháng7, đến ngày 01/01/2010 mới triển khai đầy đủ các nội
dung của Luật BHYT.
* Những tồn tại trong việc ban hành văn bản quy
phạm pháp luật đó là:
- Theo quy định của Luật BHYT, Bộ Y tế chưa ban
hành Hướng dẫn về khám bệnh để sàng lọc, chẩn đoán sớm một số bệnh được quỹ
BHYT chi trả8.
- Theo Nghị định 62/2009/NĐ-CP còn 3 vấn đề giao
cho các bộ, ngành chưa hướng dẫn, trong đó 2 vấn đề thuộc trách nhiệm của Bộ Y
tế là Danh mục một số bệnh cần chữa trị dài ngày và sửa đổi quy định về xác định
dịch vụ kỹ thuật cao chi phí lớn được BHYT chi trả (hiện vẫn áp dụng văn bản
quy định về vấn đề này từ trước khi có Luật BHYT); một vấn đề thuộc trách nhiệm
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) đó là xác định tiêu chí hộ
gia đình làm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình làm cơ sở để
Nhà nước hỗ trợ mua BHYT cho đối tượng này.
- Luật BHYT quy định quỹ BHYT chi thanh toán cho
người bị tai nạn giao thông khi không vi phạm pháp luật (khoản 12, Điều 23).
Tuy nhiên, khi tổ chức thực hiện9, tất cả các trường
hợp tai nạn giao thông (cả vi phạm pháp luật lẫn không vi phạm pháp luật giao
thông) đều được BHYT thanh toán với tổng chi phí khoảng 200 tỷ đồng trên cả nước
(năm 2012).
- Luật BHYT quy định về nội dung hợp đồng KCB BHYT
và giao cho Bộ trưởng Bộ Y tế quy định mẫu hợp đồng. Tuy nhiên, khi có phát
sinh tranh chấp hợp đồng chưa xử lý được, chưa rõ tính pháp lý của hợp đồng và
trách nhiệm của các bên trong trường hợp vi phạm hợp đồng.
- Bộ Y tế chưa hướng dẫn phân hạng bệnh viện tư
nhân10, vì vậy BHXH gặp nhiều khó khăn trong việc
thanh toán chi phí KCB BHYT tại bệnh viện tư nhân11.
- Luật BHYT giao Bộ Y tế chịu trách nhiệm chủ trì,
phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, tổ chức có liên quan thực hiện nhiệm vụ
tuyên truyền, phổ biến CSPL về BHYT (Điều 6), nhưng Quyết định số 538/QĐ-TTg
ngày 29/3/2013 về lộ trình BHYT toàn dân lại giao BHXH Việt Nam là đầu mối chịu
trách nhiệm chính trong tuyên truyền về chính sách BHYT.
2. Việc mở rộng đối tượng tham
gia BHYT
2.1. Kết quả thực hiện
Luật BHYT quy định 25 nhóm đối tượng tham gia BHYT
và lộ trình thực hiện BHYT toàn dân, theo đó, đến năm 2014, 3 nhóm cuối cùng phải
tham gia BHYT đó là nhóm thân nhân người lao động, xã viên hợp tác xã và hộ
kinh doanh cá thể.
Giai đoạn 2009-2012, tỷ lệ dân số tham gia BHYT
tăng từ 58,2% (2009) lên 66,8% (2012). Như vậy, sau 4 năm thực thi Luật, đã có
thêm 8,6% dân số tham gia BHYT, tương đương 9,24 triệu người, bình quân tăng
2,8%/năm. Có 21 tỉnh có tỷ lệ dân số tham gia BHYT tăng trên 15%. Nhiều tỉnh cơ
bản đã đạt được BHYT toàn dân (Bắc Kạn gần 100%, Lai Châu 99%, Hà Giang 96%,
Lào Cai 95%, Hòa Bình 93%, Sơn La 92%, Tuyên Quang 88%, Lạng Sơn 85%, Thái
Nguyên 80%, Kon Tum 85%) (phụ lục số 5). Đa số các tỉnh đạt gần 100% dân
số tham gia BHYT là do mở rộng số đối tượng được ngân sách cấp mua BHYT12.
Phân tích tỷ lệ tham gia BHYT theo nhóm đối tượng
cho thấy, nhóm làm công ăn lương, cán bộ công chức trong khu vực công, đồng bào
dân tộc thiểu số, người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, nhóm hưu trí, mất sức lao động,
đối tượng bảo trợ xã hội do NSNN hoặc quỹ BHXH đóng tiền mua BHYT đều đạt ở mức
rất cao (gần 100%).
Tỷ lệ nhóm tự nguyện, hộ cận nghèo tham gia BHYT đã
tăng dần từ việc điều chỉnh chính sách nhưng còn ở mức thấp. Có khoảng 20 tỉnh
hỗ trợ thêm kinh phí từ ngân sách địa phương cho các đối tượng thuộc diện cận
nghèo tham gia BHYT13, một số tỉnh hỗ trợ 100% số
tiền mua cho hộ cận nghèo như Bình Dương, Ninh Thuận, Kiên Giang...
Cùng với chính sách mở rộng đối tượng được ngân
sách hỗ trợ tham gia BHYT (người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số
ở vùng khó khăn14, nhân dân ở vùng biển đảo...),
việc tăng cường công tác chỉ đạo, tuyên truyền của Bộ Y tế, BHXH Việt Nam, Ủy
ban nhân dân (UBND) các cấp và xây dựng mạng lưới đại lý BHYT cùng với sự tham
gia của một số đoàn thể, tổ chức xã hội trong vận động phong trào mua tặng thẻ
BHYT cho những người có hoàn cảnh khó khăn đã góp phần nâng tỷ lệ dân số tham
gia BHYT nhanh hơn trong giai đoạn 2009 - 2012. Trên cơ sở đó, ý thức người dân
trong việc tham gia BHYT để tự chăm lo sức khỏe cho mình, chia sẻ với cộng đồng
được nâng lên so với trước.
Có thể nói trong điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt
Nam, với mức thu nhập bình quân đầu người là 1.749 USD/người/năm (2012), việc đạt
được tỷ lệ gần 70% dân số tham gia BHYT là sự cố gắng lớn của Đảng, Nhà nước và
nhân dân. Kết quả đó góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền được chăm sóc sức
khỏe và giúp cho nhiều người dân không bị rơi vào bẫy nghèo đói khi bị ốm đau,
bệnh tật. Trên thế giới nhiều nước có điều kiện kinh tế và thu nhập cao hơn Việt
Nam nhưng cũng chưa đạt được tỷ lệ dân số tham gia BHYT như Việt Nam15.
2.2. Một số tồn tại, vướng mắc
- Đến cuối năm 2012, vẫn còn 18 tỉnh có tỷ lệ tham
gia BHYT dưới 60%, trong đó có 4 tỉnh dưới 50% dân số tham gia BHYT (Nam Định
49%, Tây Ninh 49%, Kiên Giang 48% và Bình Phước 46%).
- Giai đoạn 2009-2012, có 14 tỉnh tỷ lệ tham gia
BHYT tăng chậm (dưới 5%) và có 6 tỉnh tỷ lệ tham gia BHYT giảm từ 1-7% (Bà Rịa-Vũng
Tàu, Bình Dương, Đắk Lắk, Gia Lai, Vĩnh Long, trong đó Bến Tre giảm nhiều nhất
khoảng 7%).
- Một số đối tượng bắt buộc phải tham gia BHYT
nhưng tỷ lệ đạt thấp đó là:
a) Người lao động trong các doanh nghiệp đạt 54,7%,
trong đó khu vực tư nhân chỉ đạt 20-30%; học sinh, sinh viên (HSSV) mới đạt tỷ
lệ 80% (Nam Định chỉ đạt 30%), trong đó sinh viên ở các trường trung cấp chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học, đặc biệt các trường tư có tỷ lệ tham gia rất thấp và
vẫn còn khoảng 5% trẻ em dưới 6 tuổi chưa có thẻ BHYT.
b) Người thuộc hộ cận nghèo được Nhà nước hỗ trợ
50% kinh phí mua BHYT và tăng lên 70% từ tháng 6/2012 nhưng đến cuối năm 2012
chỉ đạt khoảng 25%, có nơi tỷ lệ chỉ đạt từ 2-5% (Hà Nội: 4,7%, Bình Thuận: 2%,
Bình Phước: 0,1%...).
c) Nhóm người thuộc hộ gia đình làm nông, lâm, ngư
và diêm nghiệp có mức sống trung bình theo lộ trình sẽ tham gia BHYT từ năm
2012 và Bộ Tài chính đã có dự toán bố trí ngân sách hỗ trợ 30% kinh phí để mua
BHYT, nhưng chưa triển khai do chưa xây dựng được tiêu chí.
- Nhóm tự nguyện tham gia BHYT không tăng nhiều, đạt
24% (năm 2011) và 28% (năm 2012), tại một số tỉnh tỷ lệ này rất thấp dưới 10%
(Ninh Thuận 10%, Hà Nam 7,2%, Cà Mau 7,1%, Quảng Trị 6,6%, Nam Định 5,9%, Kiên
Giang 5,9%, Thanh Hóa 3%, Nghệ An 3%, Hải Dương 1%...).
- Bên cạnh một số kết quả tích cực do thực hiện cơ
chế tự chủ và xã hội hóa dịch vụ y tế tại các bệnh viện công đã phát sinh những
vấn đề cần phải quan tâm, đó là nhiều bệnh viện đã hình thành khu vực KCB theo
yêu cầu, dành 5-10% số giường làm dịch vụ để thu phí cao, kết quả là tại cùng một
khoa hình thành 2 chế độ, bệnh nhân BHYT với 2-3 người/giường và bệnh nhân KCB
theo yêu cầu với 1 người/phòng có đầy đủ tiện nghi16.
Sự tương phản này cùng với yêu cầu về y đức chưa được cải thiện cũng góp phần
làm cho BHYT gặp khó khăn trong việc mở rộng độ bao phủ17. Tuy nhiên, hiện nay một số bệnh viện nhận thức được vấn đề này
đã khắc phục một phần bất cập thông qua việc chủ động tách riêng khu dịch vụ
theo yêu cầu với khu điều trị chung18.
* Nguyên nhân và trách nhiệm đối với các tồn tại
trên đó là:
- Hiệu quả công tác chỉ đạo tuyên truyền, vận động
người dân tham gia BHYT của ngành y tế và BHXH còn thấp; chưa có giải pháp tích
cực để huy động xã hội tham gia mở rộng BHYT; kinh phí tuyên truyền hạn chế;
các tổ chức xã hội, đoàn thể tham gia công tác tuyên truyền, vận động người dân
tham gia BHYT còn ít, các đại lý BHYT chưa gắn nhiều với địa bàn.
- Các cấp chính quyền chưa quan tâm đầy đủ việc triển
khai chính sách, pháp luật BHYT; Sở Y tế ở nhiều nơi chưa quan tâm chỉ đạo, phối
hợp với tổ chức BHXH trong việc thực hiện mục tiêu mở rộng tỷ lệ dân số tham
gia BHYT tại địa phương.
- Chấp hành pháp luật chưa nghiêm, công tác phối hợp
giữa các cơ quan chức năng và tổ chức công đoàn để thanh tra, kiểm tra việc thực
hiện CSPL về BHYT trong doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi người lao động còn hạn
chế.
- Do giá dịch vụ y tế ở mức thấp trong nhiều năm, đầu
tư của Nhà nước cho bệnh viện còn hạn chế, nhiều bệnh viện thực hiện chủ trương
của Nhà nước về tự chủ bệnh viện và xã hội hóa dịch vụ y tế, kể cả kỹ thuật hiện
đại để phục vụ nhu cầu của bệnh nhân, quá trình thực hiện đã phát sinh một số yếu
tố tiêu cực làm ảnh hưởng đến BHYT19.
- Đa số tỉnh có tỷ lệ tham gia BHYT giảm hoặc ở mức
thấp là các tỉnh thuần nông, có điều kiện kinh tế - xã hội ở mức trung bình, ít
đối tượng được ngân sách hỗ trợ tham gia BHYT. Mặt khác, tại một số tỉnh số hộ
nghèo giảm, theo đó số người được cấp thẻ BHYT cũng giảm (tỉnh Khánh Hòa trong
2 năm 2009-2010 đã giảm gần 50.000 người nghèo).
- Một số quy định của Luật BHYT còn thiếu, chưa cụ
thể hoặc chưa đồng bộ như:
+ Chưa quy định cụ thể trách nhiệm của ngành
LĐ-TB&XH, chính quyền địa phương trong quy trình cấp thẻ, trách nhiệm trong
việc cấp thẻ BHYT miễn phí cho một số đối tượng do ngân sách đảm bảo..., Vì vậy,
chưa phân định được trách nhiệm của từng cơ quan trong việc cấp trùng thẻ, chậm
thẻ BHYT, sai thông tin trên thẻ.
+ Chưa quy định cụ thể trách nhiệm của ngành giáo dục
và nhà trường đối với BHYT HSSV, cùng với tình trạng cạnh tranh về chi hoa hồng
của các loại BHYT thương mại với BHYT ở nhà trường nên kết quả tham gia BHYT học
sinh ở một số địa phương còn thấp.
+ Chưa gắn việc triển khai chính sách BHYT với hộ
gia đình nên còn phổ biến tình trạng chỉ khi ốm nặng hay phát hiện mắc bệnh nan
y, mạn tính mới mua BHYT tự nguyện để đi KCB.
+ Luật BHYT quy định trẻ em dưới 6 tuổi khi đi KCB
BHYT phải xuất trình thẻ BHYT. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 09 do Bộ Y tế
và Bộ Tài chính lại quy định trẻ em dưới 6 tuổi chưa có thẻ BHYT có thể dùng giấy
khai sinh, chứng sinh khi đi KCB. Quy định này làm chậm quá trình cấp thẻ BHYT,
gây khó khăn trong việc thanh toán, quản lý đối tượng20.
3. Cơ chế tài chính để mở rộng
diện bao phủ và thực hiện chính sách BHYT
3.1. Sự tham gia của ngân sách nhà nước trong việc
chuyển dần cấp ngân sách cho bệnh viện công sang hỗ trợ trực tiếp cho một số đối
tượng tham gia BHYT
Giai đoạn 2009-2012, ngân sách nhà nước (NSNN) hỗ
trợ cho khoảng 70% số đối tượng tham gia BHYT21,
bình quân chiếm 42% so với tổng số thu BHYT (44.767 tỷ/107.225 tỷ đồng), chủ yếu
hỗ trợ cho người có công, người nghèo, cận nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, trẻ
em dưới 6 tuổi, học sinh, sinh viên, đối tượng bảo trợ xã hội. Số tiền NSNN hỗ
trợ tăng nhanh từ 4.537 tỷ đồng (2009) lên 10.732 tỷ đồng (2010) và 16.937 tỷ đồng
(2012), với tỷ lệ tương ứng so với tổng số thu BHYT các năm là 35%, 42% và 43% (phụ
lục số 6). Đây là kết quả thực hiện chủ trương và chính sách của Đảng và
Nhà nước về y tế thông qua việc thay đổi cơ chế hỗ trợ của Nhà nước cho KCB, từng
bước chuyển chi ngân sách cho các bệnh viện sang hỗ trợ trực tiếp cho người
dân, đồng thời huy động sự tham gia đóng góp của xã hội và người dân tham gia
BHYT.
Đồng thời, việc sửa đổi Pháp lệnh ưu đãi người có
công với cách mạng đã tạo điều kiện mở rộng diện người có công và thân nhân của
họ được cấp BHYT; đối tượng là người dân sống ở các vùng đảo xa, khó khăn, đối
tượng mới thoát nghèo, hộ cận nghèo sống tại các huyện nghèo cũng được Nhà nước
mua BHYT22.
Về cơ bản, các tỉnh đã bố trí kịp thời ngân sách để
mua BHYT cho các đối tượng được Nhà nước hỗ trợ. Phần ngân sách hỗ trợ cho các
đối tượng tham gia BHYT so với tổng số chi thường xuyên cho y tế hàng năm đã
tăng từ 27% (2009) lên 33% (2012)23. Năm 2012,
NSNN chi thường xuyên cho các bệnh viện trong cả nước 17.821 tỷ đồng24 chiếm 27,8% tổng chi cho y tế. Việc thực hiện lộ
trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế được tiến hành đồng thời với việc
chuyển dần cấp ngân sách chi thường xuyên cho bệnh viện sang hỗ trợ trực tiếp
cho người dân mua BHYT25 và lộ trình BHYT toàn
dân.
3.2. Việc tham gia BHYT của nhóm đối tượng không
có sự hỗ trợ của NSNN
Giai đoạn 2009-2012, chủ sử dụng lao động và người
lao động, nhóm cán bộ, công chức làm việc trong khu vực công26 và đối tượng tham gia BHYT tự nguyện đóng trên 52.540 tỷ đồng
chiếm 49% tổng số thu BHYT, số tiền này đã tăng từ 7.170 tỷ (2009) lên 18.072 tỷ
đồng (2012), nhưng tỷ lệ này có xu hướng giảm dần (năm 2009: 55%, năm 2010:
49%, 2011 và 2012 là 46%).
Giai đoạn 2009-2012, tổ chức BHXH mua BHYT cho một
số nhóm đối tượng27 gần 9.650 tỷ đồng, chiếm khoảng
9% tổng số thu BHYT.
3.3. Một số tồn tại, vướng mắc
- Mặc dù NSNN hỗ trợ một số nhóm đối tượng tham gia
BHYT đã được phân bổ cho các tỉnh, song vẫn còn tình trạng một số tỉnh nợ ngân
sách hỗ trợ mua BHYT cho trẻ em, học sinh (T/p Hồ Chí Minh, năm học 2012-2013 nợ
khoảng 142,6 tỷ đồng hỗ trợ BHYT học sinh, tỉnh Điện Biên nợ gần 2,2 tỷ đồng hỗ
trợ BHYT học sinh, T/p Hải Phòng nợ 46 tỷ đồng BHYT đã chi KCB cho trẻ em dưới
6 tuổi trong giai đoạn 2010-2012, Nam Định nợ BHYT từ NSNN chiếm 80% tổng số nợ
BHYT toàn tỉnh).
- Gần 2/3 số tỉnh chưa có nguồn hỗ trợ từ ngân sách
địa phương cho hộ cận nghèo tham gia BHYT.
- Đối tượng hưởng trợ cấp tuất hàng tháng từ quỹ
BHXH28 chưa được hưởng BHYT, chưa quy định nguồn
đóng BHYT cho phụ nữ trong thời gian nghỉ thai sản được hưởng BHYT.
Nguyên nhân và trách nhiệm đối với tồn tại trên
đó là:
- Do quỹ BHYT được quản lý tập trung tại BHXH Việt
Nam, với cơ chế này nếu kết dư quỹ thì chuyển về trung ương, còn khi bội chi
thì xin cấp bổ sung nên chính quyền các địa phương chưa quan tâm nhiều đến
trách nhiệm của mình đối với việc mở rộng đối tượng, tăng nguồn thu cho quỹ
BHYT.
- Bộ Y tế và Bộ Tài chính chưa giải thích và thông
tin đầy đủ để xã hội hiểu và ủng hộ chủ trương điều chỉnh giá dịch vụ y tế, việc
tăng viện phí trên thực tế chỉ ảnh hưởng đến số người chưa tham gia BHYT, không
ảnh hưởng đến các đối tượng đã có BHYT do Nhà nước hỗ trợ.
- Một số quy định trong các văn bản pháp luật chưa
đồng bộ nên một số đối tượng chưa được hưởng BHYT29.
4. Việc quản lý, sử dụng quỹ và
cấp, đổi thẻ BHYT
4.1. Phương thức chi trả và thanh toán, quyết
toán chi phí KCB BHYT
a) Phương thức chi trả chi phí KCB BHYT:
Việc thanh toán chi phí KCB BHYT hiện nay được áp dụng
theo cả 3 phương thức: theo định suất, theo giá dịch vụ và theo trường hợp bệnh.
Về phương thức thanh toán theo định suất, từ tỷ lệ
10% số bệnh viện áp dụng năm 2010, đến năm 2012 đã có 42% số bệnh viện áp dụng
cơ chế thanh toán này. Một số tỉnh đã áp dụng phương thức thanh toán theo định
suất cho tất cả bệnh viện huyện (Hải Phòng, Hải Dương, Hà Nam). Đây là phương
thức thanh toán tạo sự chủ động cho bệnh viện quản lý quỹ KCB, chống lạm dụng
thuốc, xét nghiệm. Tuy nhiên, mặt trái của phương thức này là bệnh viện sẽ kiểm
soát chặt, cắt giảm quyền lợi của bệnh nhân, hạn chế chuyển bệnh nhân lên tuyến
trên để tiết kiệm chi và phát sinh vướng mắc về cách tính suất phí, thanh toán
chi phí ngoài định suất, sử dụng kinh phí chuyển tuyến...
Về phương thức thanh toán theo giá dịch vụ y tế, hiện
có trên 50% số bệnh viện áp dụng cơ chế này (T/p Hồ Chí Minh áp dụng với tất cả
các bệnh viện). Đây là phương thức tạo sự chủ động trong việc chỉ định xét nghiệm,
thuốc, vật tư y tế nhưng dễ dẫn đến nguy cơ lạm dụng dịch vụ y tế, thuốc và gây
bội chi quỹ BHYT.
Về phương thức thanh toán trọn gói theo trường hợp
bệnh, chỉ mới tổ chức thí điểm tại 2 bệnh viện của Hà Nội với 4 nhóm bệnh (viêm
ruột thừa cấp, đẻ thường, viêm phế quản-phổi trẻ em và viêm phế quản-phổi người
lớn), bước đầu đạt kết quả khả quan. Đây là phương thức tiến bộ được nhiều nước
áp dụng, góp phần giảm việc lạm dụng dịch vụ y tế, xét nghiệm, thuốc nhưng cần
phải có văn bản hướng dẫn chi tiết, cụ thể cho hàng ngàn loại bệnh khác nhau.
b) Về thanh toán, quyết toán chi phí KCB BHYT:
Nhìn chung, các quy định về thanh quyết toán được
thực hiện theo đúng quy định của Luật BHYT. Việc tạm ứng, thanh quyết toán giữa
cơ quan BHXH và bệnh viện được thực hiện trong vòng 75 ngày, thanh toán vượt quỹ
đã giải quyết xong ở đa số các tỉnh (trong vòng 1 năm), thanh toán vượt trần chậm
hơn do phải trình Hội đồng quản lý quỹ BHXH xem xét và quyết định30.
Bộ Y tế đã cập nhật danh mục thuốc, kỹ thuật y tế mới
làm cơ sở cho BHXH thanh toán cho các bệnh viện. Nhiều bệnh viện được thanh
toán đúng thời hạn, có nơi rút ngắn thời gian thanh toán hơn so với quy định
(Hà Nội).
Bên cạnh đó, còn một số vướng mắc về cách tính vượt
quỹ KCB ở bệnh viện, định mức thanh toán giữa bệnh viện và cơ quan BHXH nên đã
gây nợ đọng kéo dài giữa BHXH với bệnh viện, giữa bệnh viện với công ty dược tại
một số tỉnh.
Về mức trần ở bệnh viện tuyến 2 (bệnh viện từ tuyến
tỉnh và tương đương trở lên), Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Tài chính ban hành quy
định về trần tuyến 2 để quản lý chi phí ở bệnh viện và chống lạm dụng quỹ BHYT.
Tuy nhiên, do có sự chênh lệch về trình độ kỹ thuật và điểm xuất phát nên hiện
nay trần tuyến 2 có sự khác nhau giữa các bệnh viện cùng hạng (cùng là bệnh viện
lao tuyến tỉnh có nơi là 1,3 triệu đồng/ca bệnh, có nơi là 4 triệu đồng/ca; bệnh
viện tâm thần tuyến tỉnh có nơi 1,8 triệu đồng/ca, có nơi 4 triệu đồng/ca; BHXH
tỉnh Ninh Thuận áp trần cho Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh trên cơ sở mức chi
phí của phòng khám, khoảng 0,35 triệu đồng/ca, trong khi thực tế phải là 2 triệu
đồng/ca bệnh).
4.2. Về công tác giám định BHYT
Tổ chức BHXH Việt Nam ngày càng chú trọng hơn đến
công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ giám định viên31. Toàn ngành có khoảng 2.300 cán bộ làm công tác
giám định, trong đó khoảng 32% có trình độ đại học y, dược, 22% trung cấp y, dược.
Việc giám định BHYT được triển khai trực tiếp tại
các bệnh viện trung ương, hầu hết BHXH các tỉnh phân cấp giám định cho BHXH huyện,
một số ít tỉnh không phân cấp cho BHXH cấp huyện mà BHXH tỉnh thực hiện giám định
đối với tất cả các bệnh viện trên địa bàn (t/p Hồ Chí Minh, Bình Dương). Hiện
nay, BHXH mới thực hiện giám định BHYT cho khoảng 20% tổng số bệnh án KCB BHYT,
80% bệnh án chưa giám định vẫn được thanh toán theo quyết toán của bệnh viện.
Kết quả giám định BHYT cho thấy có tình trạng lạm dụng
BHYT cả về phía cán bộ y tế cũng như người có thẻ BHYT. Những vi phạm phổ biến
đó là lạm dụng xét nghiệm, thuốc, hóa chất, vật tư y tế, kê đơn thuốc ngoài
danh mục cho phép, kê khống tiền thuốc, bệnh nhân nằm ghép nhưng vẫn thanh toán
mỗi người/1 giường bệnh, lập hồ sơ bệnh án khống (như làm giả kết quả xét nghiệm),
sử dụng chung xét nghiệm ở một số bệnh viện để thanh toán với quỹ BHYT; có nơi,
cán bộ y tế ở bệnh viện sử dụng thẻ BHYT của người thân để làm thủ tục lấy thuốc
ở bệnh viện; người có thẻ BHYT lạm dụng thông qua việc cho mượn thẻ, đi khám
nhiều nơi trong ngày (nhất là các bệnh mạn tính), cho thuê thẻ BHYT và thuê người
bị bệnh mạn tính đi KCB để lấy thuốc (theo kiểm tra của BHXH Việt Nam, có trường
hợp thẻ BHYT ở tỉnh Đồng Nai được sử dụng 157 lần KCB trong năm).
Hiện nay, BHXH Việt Nam đang triển khai Đề án “Thí
điểm thực hiện phương pháp giám định hồ sơ thanh toán chi phí KCB BHYT theo tỷ
lệ” tại 10 địa phương32, theo đó chỉ giám định mẫu
20% - 30% số bệnh án làm cơ sở áp dụng cho 100% số bệnh án. Sau 1 năm thí điểm
đã cho thấy có những tiến bộ trong công tác quản lý, sử dụng quỹ BHYT như cải
cách thủ tục hành chính, xây dựng quy chế chuyên môn, kiểm soát việc kê đơn thuốc,
hạn chế một phần việc lạm dụng thuốc, kỹ thuật y tế33
và góp phần giảm tỷ lệ sai sót trong KCB BHYT34.
Tuy nhiên, số bệnh viện tham gia thí điểm cho rằng hình thức thí điểm này phát
sinh khó khăn cho bệnh viện vì cần phải có thời gian và cán bộ để lựa chọn, sắp
xếp một số lượng lớn các hồ sơ bệnh án.
4.3. Về sử dụng quỹ BHYT
a) Kết quả thực hiện:
Số tiền thu BHYT tăng nhanh qua các năm, từ 13.037
tỷ đồng (2009), 25.581 tỷ đồng (2010) đã lên đến 40.237 tỷ đồng (2012). Số chi
BHYT cũng tăng qua các năm, từ 15.481 tỷ đồng (2009), 19.686 tỷ đồng (2010),
25.564 tỷ đồng (2011) đến 35.584 tỷ đồng (2012). Quỹ BHYT từ chỗ lũy kế bội chi
đến năm 2009 là 3.083 tỷ đồng đã cân đối và có kết dư, lũy kế đến năm 2010 kết
dư khoảng 2.810 tỷ đồng và lũy kế đến năm 2012 kết dư 12.892 tỷ đồng (phụ lục số
7).
Việc kết dư quỹ là do sau khi Luật BHYT có hiệu lực,
đối tượng được ngân sách hỗ trợ tham gia BHYT được mở rộng, mức đóng BHYT tăng
từ 3% lên 4,5%, cùng với lương tối thiểu tăng nhiều lần trong những năm qua
trong khi viện phí hầu như không thay đổi, đồng thời công tác quản lý quỹ BHYT
cũng ngày càng tốt hơn. Nhiều tỉnh miền núi và Tây Nguyên có số kết dư quỹ BHYT
khá cao, có tỉnh kết dư hàng trăm tỷ đồng, đây là địa bàn gần đạt 100% dân số
có BHYT. Tuy nhiên, do dân cư phân tán, giao thông khó khăn, xa bệnh viện, ít kỹ
thuật y tế hiện đại nên người dân dù có bệnh cũng ít tiếp cận dịch vụ y tế dẫn
đến quỹ BHYT kết dư lớn.
Bên cạnh đó, vẫn còn một số tỉnh bội chi quỹ BHYT.
Năm 2010 có 14 tỉnh, năm 2011 có 24 tỉnh và năm 2012 còn 10 tỉnh bội chi, đa số
ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (An Giang, Bến Tre, Kiên Giang, Hậu Giang, Đồng
Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Cà Mau, Nam Định, Ninh Bình), có tỉnh bội chi liên tục
quỹ BHYT từ khi thực hiện đến nay và thường xuyên nhận hỗ trợ từ quỹ dự phòng
trung ương35. Điều này cho thấy sự không hợp lý
khi tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển hơn lại nhận trợ cấp cho việc
thâm hụt quỹ BHYT của mình từ việc điều tiết kết dư của các tỉnh miền núi có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Phân tích việc sử dụng quỹ BHYT theo nhóm đối tượng
tham gia cho thấy, nhóm tự nguyện có mức bội chi lớn nhất, số tiền được sử dụng
để KCB gấp 3 lần số tiền đóng BHYT (vì ốm nặng mới mua BHYT); nhóm cán bộ hưu trí
và bảo trợ xã hội số tiền sử dụng để KCB gấp 2,5 lần số tiền đóng BHYT (vì tuổi
cao, sức yếu, bệnh nhiều, nhưng đa số đã tham gia BHYT trong nhiều năm).
b) Về sử dụng phần kết dư quỹ BHYT:
Đối với phần kết dư quỹ BHYT, do Luật và văn bản hướng
dẫn chưa quy định cụ thể về thủ tục lập quỹ dự phòng hay chia số quỹ kết dư trước
nên quá trình thực hiện còn vướng mắc. Đến nay, số kết dư quỹ BHYT gần 13.000 tỷ
đồng chưa được phân bổ cho các tỉnh có quỹ kết dư, gây thắc mắc với các địa
phương có kết dư quỹ KCB BHYT36.
Trước thực trạng trên, có ý kiến cho rằng nếu quỹ kết
dư nhiều thì nên giảm số tiền NSNN mua BHYT. Tuy nhiên, việc Nhà nước mua BHYT
cho người dân đó là chính sách phúc lợi xã hội và là quyền lợi của người dân,
hơn nữa mệnh giá gần 600 ngàn đồng/1 thẻ (năm 2012) vẫn là mức thấp, vì vậy số
kết dư cần được đầu tư trở lại cho tỉnh để tổ chức cung ứng dịch vụ, nâng cấp kỹ
thuật y tế, đầu tư phương tiện vận chuyển bệnh nhân phù hợp với điều kiện sống ở
miền núi, vùng sâu, vùng xa để người dân được hưởng lợi một cách công bằng từ
chính sách của Nhà nước.
4.4. Chi phí quản lý, công tác kiểm toán quỹ
BHYT và áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý BHYT
a) Chi phí quản lý BHYT và kiểm toán quỹ BHYT:
Hiện nay, chi phí quản lý được bố trí chung cho bộ
máy làm công tác BHYT và BHXH, chưa hạch toán được phần chi phí quản lý riêng
cho BHYT mỗi năm (phụ lục số 7).
Theo quy định của Luật BHYT, định kỳ 3 năm Kiểm
toán Nhà nước báo cáo Quốc hội về kết quả kiểm toán quỹ BHYT. Đầu năm 2013, Kiểm
toán Nhà nước đã tổng hợp tài chính quỹ, kiểm toán việc quản lý và sử dụng quỹ
BHYT tại BHXH Việt Nam giai đoạn 2010-2012. Năm 2011, qua kiểm toán tại một số
tỉnh đã kiến nghị thu hồi cho ngân sách 6,4 tỷ đồng. Năm 2013, kiểm toán BHYT
cho người nghèo tại 8 tỉnh đã phát hiện trên 332.000 thẻ cấp trùng, kiến nghị
thu hồi nộp NSNN 114 tỷ đồng. Ngoài ra, qua kiểm toán còn phát hiện việc thanh
toán thuốc ngoài danh mục, một số thuốc giá cao hơn quy định, thanh toán thuốc
điều trị nội trú đã có trong cơ cấu dịch vụ phẫu thuật, chi phí dịch vụ kỹ thuật
cao chưa được Bộ Y tế phê duyệt.
b) Việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản
lý BHYT;
Cơ quan BHXH Việt Nam đã xây dựng và triển khai Kế
hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của ngành BHXH giai đoạn
2012 - 201537; thống nhất việc sử dụng một số phần
mềm nghiệp vụ liên quan đến thực hiện chính sách BHYT trong các đơn vị thuộc
BHXH Việt Nam như phần mềm cấp và quản lý sổ, thẻ cho người lao động và đối tượng
tham gia BHYT; phần mềm quản lý thu BHYT; phần mềm quản lý BHYT tự nguyện; phần
mềm thống kê chi phí KCB BHYT.
Tuy nhiên, số phần mềm trên mới chỉ đáp ứng cho việc
xử lý nghiệp vụ độc lập tại các đơn vị BHXH cấp huyện, một phần ở cấp tỉnh và
giám định viên ở các cơ sở khám chữa bệnh. Hiện tại, dữ liệu nghiệp vụ còn phân
tán, chia cắt, ít có sự liên thông với nhau và chưa được tập trung tại cấp tỉnh.
Tổ chức BHXH Việt Nam chưa hình thành được hệ thống quản lý, lưu trữ cơ sở dữ
liệu quốc gia về BHYT theo quy định tại khoản 10, Điều 41 của Luật BHYT38.
4.5. Việc quản lý, cấp, đổi thẻ BHYT
Cơ quan BHXH Việt Nam đã ban hành mẫu phôi thẻ BHYT
mới39 và khoảng 30 văn bản hướng dẫn, phân cấp
việc cấp mới, đổi thẻ BHYT. Thời gian đầu, do chưa có kinh nghiệm triển khai cấp
thẻ với nhiều nhóm đối tượng nên việc cấp thẻ, phân nhóm thẻ (nhất là nhóm người
có công) phát sinh một số vướng mắc, sai sót về thông tin trên thẻ, mức hưởng,
đến nay đã được khắc phục và dần đi vào ổn định. Các tổ chức chịu trách nhiệm
quản lý các nhóm đối tượng đã có cố gắng trong việc lập danh sách, rà soát đối
tượng tham gia BHYT để chuyển cho cơ quan BHXH cấp thẻ kịp thời cho các đối tượng
tham gia. Tuy nhiên, các tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, vùng
đồng bào dân tộc thiểu số các sai sót trên vẫn còn xảy ra khá phổ biến.
Việc cấp thẻ BHYT có ảnh đã được tổ chức thí điểm đối
với một số nhóm đối tượng tại 5 địa phương (Gia Lai, Sóc Trăng, Thanh Hóa, Hà
Giang và Hải Phòng) với khoảng 261.000 thẻ BHYT góp phần đơn giản thủ tục cho bệnh
viện, hạn chế lạm dụng thẻ.
Để người dân tiếp cận và tham gia BHYT thuận lợi,
ngành BHXH đã xây dựng mạng lưới đại lý BHYT tại các xã và các trường học. Đến
nay, toàn quốc có gần 11.400 đại lý thu BHYT tại 76% tổng số các xã trong cả nước
để bán BHYT cho nhóm tự nguyện, hộ cận nghèo... và gần 22.700 đại lý BHYT tại
các trường học.
4.6. Một số tồn tại, vướng mắc
- Số kết dư lớn quỹ BHYT là vấn đề đáng quan tâm, bởi
đây là loại quỹ ngắn hạn, chỉ giới hạn đóng và sử dụng trong năm. Nhiều nước
không quy định quỹ kết dư, nếu kết dư sẽ tăng mức hưởng hoặc giảm mức đóng
BHYT. Ở Thái Lan quy định nếu kết dư phải nộp ngân sách hoặc ở Trung Quốc quy định
kết dư tối đa là 10%.
- Chưa có phương thức thanh toán hợp lý, khoa học
giữa các bệnh viện với cơ quan BHXH về chi phí KCB. Hiện nay, có tỉnh đã thực
hiện 100% thanh toán theo định suất ở tuyến huyện, song có địa phương chưa thực
hiện; việc tạm ứng kinh phí từ cơ quan BHXH cho bệnh viện còn thực hiện khác
nhau ở các địa phương; số hồ sơ bệnh án giám định chỉ chiếm khoảng 20% nên chưa
đảm bảo việc thanh toán chính xác, chưa thể phát hiện đầy đủ việc lạm dụng BHYT
ở các bệnh viện.
- Sở Y tế một số tỉnh chưa quan tâm hướng dẫn bệnh
viện thực hiện đúng quy trình, thủ tục phê duyệt giá của cấp có thẩm quyền nên
một số bệnh viện gặp khó khăn khi yêu cầu cơ quan BHXH chi trả một số dịch vụ y
tế mới cho bệnh nhân BHYT, gây nợ đọng và ảnh hưởng quyền lợi của bệnh nhân
BHYT.
- Hầu hết các xã đều có đại lý BHYT song hoạt động
mang tính hành chính, các đại lý chưa thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, vận động
nhân dân tham gia BHYT, một số đại lý chỉ bán BHYT tự nguyện cho người có hộ khẩu
tại địa phương.
- Tình trạng trùng thẻ BHYT ở các đối tượng do NSNN
hỗ trợ40 xảy ra tại nhiều tỉnh (cá biệt có người
nhận được 4-5 thẻ BHYT). Giai đoạn 2009-2012, qua rà soát tại tỉnh, thành phố
đã phát hiện gần 800.000 thẻ BHYT cấp trùng, với số tiền ngân sách phân bổ khoảng
342 tỷ đồng.
- Việc phát hành thẻ BHYT có ảnh của người tham gia
BHYT sau thời gian thực hiện thí điểm chưa thể triển khai rộng rãi. BHXH Việt
Nam kiến nghị chỉ cấp thẻ có ảnh cho đối tượng tham gia ổn định, chưa có giấy tờ
tùy thân thay thế, vì chi phí cho thẻ có ảnh khá tốn kém (khoảng 440 tỷ đồng
cho gần 70 triệu người/năm).
* Nguyên nhân và trách nhiệm đối với tồn tại
trên đó là:
- Đội ngũ cán bộ giám định BHYT còn hạn chế cả về số
lượng và chất lượng, thiếu công cụ giám định hiệu quả (cần phải có phác đồ điều
trị chuẩn cho hàng ngàn loại bệnh, phải có quy trình chuyên môn kỹ thuật chuẩn
về xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh, đây là những vấn đề đòi hỏi Bộ Y tế phải
có thời gian và kinh nghiệm mới ban hành được), chưa đáp ứng yêu cầu về kỹ năng
và chuyên môn hóa cao của nghiệp vụ BHYT.
- Các bệnh viện được thực hiện cơ chế tự chủ tài
chính và xã hội hóa đã tìm cách để tăng nguồn thu từ dịch vụ y tế làm phát sinh
nhiều hình thức lạm dụng BHYT tinh vi khó phát hiện và kiểm soát, đồng thời vai
trò QLNN ở các địa phương còn hạn chế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có tỉnh41 bội chi quỹ BHYT hàng trăm tỷ đồng, khi tăng cường
công tác giám định và quản lý, thanh tra, kiểm tra thường xuyên thì việc quản
lý, sử dụng quỹ BHYT có hiệu quả hơn.
- Luật BHYT chưa quy định cụ thể việc phân cấp
trách nhiệm trong hệ thống BHYT, chưa gắn được trách nhiệm và quyền lợi của địa
phương trong quản lý, sử dụng quỹ BHYT nên chưa huy động được sự tham gia của
UBND các cấp.
- Ngành BHXH chưa đổi mới mạnh mẽ tổ chức mạng lưới
đại lý để tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia BHYT (khó tìm mua thẻ
BHYT ở cộng đồng).
- Vấn đề trùng thẻ nhiều ở các đối tượng được NSNN
hỗ trợ mua BHYT là do Luật BHYT giao cho nhiều bộ ngành, nhiều cấp khác nhau lập
danh sách các nhóm đối tượng, thực tế 1 người có thể thuộc nhiều nhóm đối tượng
trong khi chưa có cơ chế phối hợp để rà soát danh sách đối tượng. Bộ Tài chính
chưa kịp thời thanh tra, kiểm tra việc trùng thẻ; hệ thống phần mềm quản lý
BHYT của cả BHXH Việt Nam và các bệnh viện chưa kết nối, liên thông được với
nhau nên chưa kiểm soát được việc cấp trùng thẻ BHYT.
5. Cung ứng dịch vụ y tế cho
người tham gia BHYT
5.1. Tổ chức mạng lưới, tăng cường cơ sở vật chất,
trang thiết bị cho bệnh viện
Để phù hợp với điều kiện của Việt Nam, hệ thống cơ
sở KCB được tổ chức theo 4 tuyến (bệnh viện tuyến trung ương, tỉnh, huyện và
xã). Từ năm 2008 - 2012, tiếp tục chủ trương đầu tư nâng cấp các cơ sở y tế bằng
nguồn trái phiếu Chính phủ, đã có hơn 600 bệnh viện huyện và 150 bệnh viện tuyến
tỉnh được xây dựng, sửa chữa và nâng cấp trang thiết bị y tế với số vốn đầu tư
khoảng 23.200 tỷ đồng.
Tính đến cuối năm 2012, các bệnh viện tuyến huyện
đã có thêm 10.000 giường bệnh (tăng 17% so với năm 2008); việc sử dụng các dịch
vụ kỹ thuật, thủ thuật, nội soi, xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh... đã tăng rõ rệt
(120-320% ở tuyến tỉnh, 120-180% ở tuyến huyện). Một số bệnh viện được cung cấp
các trang thiết bị y tế hiện đại góp phần nâng cao chất lượng, giảm số người Việt
Nam ra nước ngoài KCB. Năm 2012, nguồn thu từ KCB BHYT chiếm hơn 70% tổng thu từ
KCB (Hà Nội là 75%, một số bệnh viện tỷ lệ này là 80%).
Cả nước hiện có trên 2.400 cơ sở KCB ký hợp đồng
KCB BHYT, trong đó trên 2.100 cơ sở KCB nhà nước, gần 300 cơ sở KCB tư nhân,
khoảng 10.000 trạm y tế xã tham gia KCB BHYT. Hầu hết những bệnh nặng, mạn
tính... cần điều trị dài ngày, chi phí lớn đều đưa về các bệnh viện nhà nước. Một
số bệnh viện tư nhân thông qua việc cải tiến dịch vụ y tế, nâng cao y đức, thái
độ phục vụ và cách ứng xử đã bắt đầu cạnh tranh mạnh với bệnh viện nhà nước
trong việc thu hút số lượng đăng ký KCB ban đầu (Bình Dương, Đắk Lắk).
Từ năm 2009 đến 2012, số lượt KCB BHYT tăng mạnh, cụ
thể: năm 2009, tổng số lượt KCB BHYT là trên 92,1 triệu (trong đó trên 6,3 triệu
lượt nội trú và gần 86,8 lượt ngoại trú); năm 2010, tổng số lượt KCB BHYT là gần
102,2 triệu (trong đó 8,4 triệu lượt nội trú và gần 93,8 triệu lượt ngoại trú);
năm 2011, tổng số lượt KCB BHYT là trên 114,4 triệu (trong đó gần 8,9 triệu lượt
nội trú và 105,5 triệu lượt ngoại trú); năm 2012, tổng số lượt KCB BHYT là
121,3 triệu (trong đó gần 10,2 triệu lượt nội trú và trên 111,1 triệu lượt ngoại
trú).
Người tham gia BHYT ngày càng có nhiều cơ hội hơn
trong việc tiếp cận dịch vụ y tế. Năm 2009, bình quân KCB là 1,84 lượt/thẻ/năm
đến năm 2012 đã tăng lên 2,04 lượt/thẻ/năm, trong đó KCB ngoại trú tăng từ 1,7
lên 1,87 lượt/thẻ/năm (phụ lục số 8). Với mệnh giá thẻ BHYT ở mức thấp so với
các nước trong khu vực, nhưng người tham gia BHYT ở Việt Nam được hưởng thụ
tương đối nhiều dịch vụ y tế và một số dịch vụ kỹ thuật cao, hiện đại (chạy thận
nhân tạo, can thiệp tim mạch, thuốc chữa ung thư, chống thải ghép...). Việc
tăng mức chi trả từ quỹ BHYT và danh mục quyền lợi tiếp tục mở rộng cho thấy
vai trò quan trọng của BHYT trong việc chăm sóc sức khỏe của người dân.
5.2. Đăng ký KCB ban đầu và phân tuyến, chuyển
tuyến KCB
a) Đăng ký KCB ban đầu:
Việc đăng ký KCB ban đầu góp phần sử dụng hợp lý,
hiệu quả nguồn lực của cơ sở y tế tuyến dưới, giúp người bệnh tiết kiệm và giảm
chi phí đi lại không cần thiết42. Bộ Y tế và
BHXH Việt Nam đã phối hợp chỉ đạo các địa phương phân bổ hợp lý số lượng người
tham gia BHYT ở các cơ sở y tế.
Bình quân có 20% người tham gia BHYT đăng ký KCB ban
đầu tại y tế tuyến xã, 60% đăng ký tại tuyến huyện và gần 20% đăng ký tại các
cơ sở tuyến tỉnh và trung ương. Tại các địa bàn miền núi, đa số người dân đăng
ký KCB ban đầu tại tuyến xã (Đắk Lắk là 65%, tỉnh Vĩnh Long là 82,7%, Nam Định
69%, Ninh Thuận 53%, có xã ở Điện Biên, 100% đăng ký tại xã).
b) Phân tuyến, chuyển tuyến KCB BHYT:
Bộ Y tế và BHXH Việt Nam đã phối hợp trong việc ban
hành văn bản hướng dẫn và chỉ đạo thực hiện chuyển tuyến KCB BHYT, cải tiến các
thủ tục KCB43, tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh
nhân khi cần thiết phải vượt tuyến, trái tuyến được quỹ BHYT chi trả 70%, 50%,
30% chi phí tùy theo hạng bệnh viện.
Để đảm bảo quyền lợi của người tham gia BHYT, khắc
phục tình trạng quá tải, Chính phủ đã chỉ đạo đẩy nhanh tốc độ đào tạo cán bộ y
tế, triển khai đề án giảm quá tải bệnh viện44,
thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở KCB45, triển khai đề án bác sỹ trẻ về công tác ở vùng
khó khăn, cải tiến quy trình KCB để giảm thời gian chờ đợi cho bệnh nhân.
5.3. Cung ứng thuốc KCB theo BHYT
Công tác đấu thầu, cung ứng thuốc KCB BHYT được thực
hiện theo quy định của Luật dược, Luật đấu thầu và Thông tư liên Bộ Tài chính -
Bộ Y tế (tháng 01/2012) về hướng dẫn đấu thầu mua thuốc trong bệnh viện. Việc đấu
thầu thuốc được thực hiện theo 3 cách đó là đấu thầu tập trung, đấu thầu theo
đơn vị và đấu thầu đại diện.
Năm 2012, đã có 46/63 tỉnh áp dụng đấu thầu tập
trung theo tỉnh, 7 tỉnh áp dụng hình thức đấu thầu đại diện, 10 tỉnh đấu thầu
theo từng đơn vị, các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế, bộ, ngành khác tự tổ chức đấu
thầu. Việc đấu thầu, cung ứng cơ bản đã đảm bảo có đủ thuốc thuộc danh mục thuốc
do Bộ Y tế ban hành, đáp ứng nhu cầu KCB theo BHYT. Việc áp dụng cơ chế đấu thầu
mới theo Thông tư 01 từ đầu năm 2013, bước đầu đã giảm chi phí mua thuốc, có
nơi giảm 10-20%46. Tỷ trọng chi cho thuốc chiếm
khoảng 60% tổng chi phí KCB BHYT.
5.4. Về giá dịch vụ y tế, cùng chi trả, chi phí
chi trả tối đa của quỹ BHYT
a) Giá dịch vụ y tế:
Giá dịch vụ y tế là cơ sở để quỹ BHYT thanh toán
chi phí KCB với các bệnh viện. Trước tháng 4/2012, viện phí được áp dụng theo
quy định từ năm 1995 và được điều chỉnh vào năm 2003. Giá viện phí duy trì ở mức
thấp một thời gian dài trong khi giá điện, nước và các loại thuốc, vật tư y tế
và tiền đóng BHYT tăng liên tục đã gây khó khăn cho bệnh viện trong việc đảm bảo
quyền lợi của bệnh nhân BHYT.
Từ năm 2012, giá dịch vụ y tế được sửa đổi theo
Thông tư liên tịch của Bộ Y tế-Tài chính (Thông tư số 04/2012/TTLT-BYT-BTC, mới
điều chỉnh 3/7 yếu tố, có 447 loại dịch vụ y tế được điều chỉnh giá). Đến nay,
đã có 62/63 tỉnh triển khai thực hiện với mức giá dịch vụ y tế chiếm khoảng
60-85% so với mức giá tối đa47, nhiều tỉnh miền
núi áp giá này ở gần với mức tối đa.
Việc điều chỉnh giá dịch vụ y tế góp phần nâng cao
một phần chất lượng dịch vụ y tế và điều kiện hoạt động cho bệnh viện, nâng cao
hơn quyền lợi cho bệnh nhân BHYT. Sau 1 năm áp dụng, đã dần ổn định, đây là bước
đi quan trọng trong lộ trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế, xác định rõ
phần Nhà nước hỗ trợ, phần người dân đóng góp trong BHYT gắn với lộ trình chuyển
dần việc đầu tư NSNN cho bệnh viện sang hỗ trợ trực tiếp cho người dân tham gia
BHYT. Một số bệnh viện có số thu từ BHYT tăng khoảng 10-15% so với trước và sử
dụng một phần để cải thiện điều kiện cơ sở vật chất phục vụ bệnh nhân.
b) Về cùng chi trả trong KCB BHYT:
Hiện nay, các nhóm đối tượng thực hiện các mức độ
khác nhau trong cùng chi trả khi KCB đó là: 20%, 5% hoặc không cùng chi trả. Từ
năm 2009 - 2012, số tiền cùng chi trả ở mức 5% thu được 791 tỷ đồng, mức 20% là
2.400 tỷ đồng, nguồn thu này góp phần bảo toàn quỹ BHYT đồng thời cũng là giải
pháp hữu hiệu góp phần kiểm soát lạm dụng quỹ BHYT, nhất là từ phía người bệnh.
Bên cạnh cơ chế cùng chi trả, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg quy định cơ chế để các tỉnh hỗ trợ người
nghèo cùng chi trả 5% chi phí KCB BHYT, tuy nhiên, do còn thiếu hướng dẫn cụ thể48 nên nhiều địa phương chưa triển khai thực hiện.
Qua giám sát, một số ý kiến đề nghị nên xem xét lại
việc cùng chi trả đối với người nghèo, thân nhân người có công, những đối tượng
thuộc diện bảo trợ xã hội sống nhờ trợ cấp Nhà nước.
c) Quy định tối đa mức cùng chi trả của bệnh
nhân BHYT và chi phí tối đa của quỹ BHYT cho bệnh nhân tham gia BHYT:
Việc không giới hạn số tiền quỹ BHYT chi trả cho bệnh
nhân đã cho thấy sự bất hợp lý, một số bệnh nhân được quỹ BHYT chi trả hàng tỷ
đồng, hàng ngàn bệnh nhân được chi trả 500-700 triệu đồng/năm, nhiều trường hợp
được chi trả mức 50-100 triệu đồng, so với mệnh giá thẻ BHYT thì mức hưởng như
vậy đã làm giảm ý nghĩa của nguyên tắc đóng-hưởng trong BHYT.
Mặt khác, một số bệnh nhân BHYT phải cùng chi trả số
tiền khá lớn do bị bệnh mạn tính, sử dụng các kỹ thuật cao, thuốc và dịch vụ y
tế đắt tiền cùng với khoản tiền phải trả khi sử dụng danh mục thuốc, kỹ thuật
ngoài danh mục BHYT, mức cùng chi trả quá lớn đã làm giảm ý nghĩa bảo vệ của
BHYT.
5.5. Một số tồn tại, vướng mắc
- Những bất hợp lý đối với việc cung ứng dịch vụ y
tế đó là:
+ Sự khác nhau trong số lượt KCB bình quân/năm ở các
địa phương, trong khi người dân ở An Giang bình quân đi KCB là 3,2 lượt/thẻ/năm,
Tiền Giang 3,7 lượt, Vĩnh Long 4,4 lượt, Bến Tre 3,4 lượt..., thì ở nhiều tỉnh
miền núi phía Bắc và Bắc Trung Bộ chỉ số này là 0,8-1,5 lượt/thẻ/năm, như ở Lạng
Sơn 1,27 lượt, Hà Nội 1,3 lượt, Thanh Hóa 1,31 lượt và Nam Định 0,85 lượt...
+ Chi phí KCB BHYT còn bất hợp lý, bình quân trên cả
nước quỹ BHYT chi trả KCB nội trú tại bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh gần 2 triệu
đồng/ca bệnh, song có tỉnh là 1 triệu đồng, cá biệt có tỉnh là 4 triệu đồng/ca
bệnh, trong khi trình độ chuyên môn kỹ thuật và dịch vụ y tế giữa các bệnh viện
đa khoa tuyến tỉnh không thể có sự chênh lệch đến mức gấp 3-4 lần. Tại tuyến
xã, năm 2012, chi phí KCB BHYT bình quân cả nước là 42.000 đồng/lần, trong khi
có tỉnh là 100.000 đồng/lần49.
+ Tuy mức đóng BHYT như nhau song mức chi trả của
quỹ BHYT lại khác nhau do giá dịch vụ y tế còn khác nhau giữa các địa phương50. Mặt khác, do chênh lệch kỹ thuật và trang thiết
bị y tế giữa các tỉnh nên việc chăm sóc sức khỏe cho người dân ở miền núi, vùng
sâu, vùng xa, biên giới còn hạn chế, khó khăn trong khi người dân ở đồng bằng lại
được hưởng nhiều kỹ thuật y tế hiện đại và thuốc đắt tiền do BHYT chi trả.
- Tính công khai, minh bạch trong cung ứng dịch vụ
y tế và quyền lợi của người tham gia BHYT còn hạn chế. Người tham gia BHYT chưa
hiểu đầy đủ quyền lợi và trách nhiệm của mình khi đến KCB tại bệnh viện. Việc
người bệnh có BHYT phải đóng thêm một số khoản chi ngoài quyền lợi hưởng BHYT
hoặc phải lặp lại các xét nghiệm chẩn đoán khi chuyển tuyến điều trị vừa gây tốn
kém cho bệnh nhân, vừa lãng phí quỹ BHYT.
- Hiện nay, giá dịch vụ y tế chỉ mới thiết kế 3/7 yếu
tố hình thành giá (chưa có yếu tố về lương và các loại phụ cấp cho cán bộ y tế),
nhưng việc thực hiện điều chỉnh tiền lương hàng năm tại các bệnh viện lại phải
lấy một phần từ nguồn thu dịch vụ y tế đã ảnh hưởng đến nguồn tài chính phục vụ
KCB BHYT và chưa thực sự tạo động lực cho các bệnh viện đối với chủ trương tăng
lương cơ sở.
- Những hạn chế về chuyên môn, tình trạng chậm cải
thiện về y đức, thái độ phục vụ, tinh thần trách nhiệm và cách ứng xử của một số
cán bộ, nhân viên y tế tại một số bệnh viện công, đặc biệt một số vụ việc
nghiêm trọng xảy ra gần đây đã làm giảm sút lòng tin của người bệnh, gia tăng bức
xúc trong dư luận xã hội.
- Phần lớn người tham gia BHYT chưa được thực hiện
quyền đăng ký KCB BHYT ban đầu tại tuyến xã, tuyến huyện và khi cần thiết được
thay đổi như quy định của Luật BHYT. Tại nhiều địa phương, người bệnh phải chấp
nhận nơi KCB ban đầu theo phân bổ của cơ quan BHXH và Sở Y tế. Đồng thời, những
người đăng ký KCB ban đầu tại tuyến xã có mức hưởng thụ dịch vụ y tế, chất lượng
thuốc thấp hơn so với những người đăng ký KCB ban đầu ở tuyến huyện và tỉnh51.
- Số ca vượt tuyến, trái tuyến tăng nhanh, từ 3 triệu
lượt (2010) lên 9,5 triệu (2011) và 11,6 triệu lượt (2012) đã làm tăng tình trạng
quá tải ở tuyến trên (khoảng 80% trường hợp quá tải là ở tuyến bệnh viện trung
ương và các bệnh viện tỉnh/thành phố có nhiệm vụ như tuyến trung ương). Một số
bệnh viện tuyến huyện phải sử dụng 50%, thậm chí trên 70% quỹ KCB BHYT để chi
trả cho KCB trái tuyến, vượt tuyến52 trong khi
không thể kiểm soát được phần chi phí này.
- Tại một số địa bàn, ở các vùng giáp ranh (giữa
các tỉnh, huyện) việc KCB BHYT chưa được thuận lợi đối với người dân.
- Đấu thầu thuốc chưa đáp ứng yêu cầu, giá cùng một
loại thuốc có sự chênh lệch giữa các tỉnh, giữa các bệnh viện trong tỉnh và giữa
các bệnh viện với thị trường bên ngoài. Việc áp dụng cơ chế đấu thầu mới cũng
chỉ là đấu giá thuốc, chưa có chế tài đủ mạnh về tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng
thuốc53, một số loại thuốc giá rẻ nhưng chất lượng
chưa cao đã trúng thầu.
* Nguyên nhân và trách nhiệm đối với các tồn tại
trên đó là:
- Tình trạng vượt tuyến, trái tuyến một phần là do
người dân lo ngại, thiếu tin tưởng vào trình độ của cán bộ y tế tuyến huyện, muốn
được KCB tại các bệnh viện tuyến trên với đội ngũ cán bộ y tế giỏi, trang thiết
bị y tế hiện đại, được hưởng dịch vụ y tế chất lượng cao... một phần do lực hút
từ bệnh viện tuyến trên để tăng nguồn thu đã tạo thuận lợi trong việc tiếp nhận
bệnh nhân54. Ngoài ra, giá viện phí chênh lệch
giữa các tuyến không nhiều, giao thông thuận lợi hơn cũng tạo điều kiện để người
dân đến tuyến bệnh viện cao hơn.
- Việc cung ứng dịch vụ y tế có chất lượng là yếu tố
quyết định sự thành công của chính sách BHYT, tuy nhiên quy định về cung ứng dịch
vụ y tế trong Luật BHYT còn ít, chưa cụ thể, chưa quy định về gói dịch vụ BHYT
cơ bản nên quá trình thực hiện đã phát sinh những vướng mắc, áp dụng quyền lợi
cho người bệnh còn khác nhau.
- Bộ Y tế, Bộ Tài chính chưa có biện pháp đặc thù để
tạo điều kiện cho các bệnh viện tỉnh còn hạn chế về kỹ thuật y tế phát triển
theo kịp các bệnh viện khác.
- Do tổ chức đấu thầu thuốc theo từng bệnh viện hoặc
theo tỉnh, chưa tổ chức đấu thầu thuốc quốc gia đối với một số thuốc, vật tư y
tế thường dùng, có chi phí cao nên giá thuốc khác nhau giữa các bệnh viện và giữa
các tỉnh.
- Bộ Y tế và BHXH Việt Nam chưa xác định được tỷ lệ
chi hợp lý và hiệu quả từ quỹ BHYT cho trạm y tế xã.
6. Công tác quản lý nhà nước về
BHYT
6.1. Công tác chỉ đạo tuyên truyền, vận động
nhân dân tham gia BHYT và điều phối liên ngành
- Được phân công quản lý nhà nước (QLNN) về BHYT55, Bộ Y tế chịu trách nhiệm chủ trì, phối hợp với
các bộ, cơ quan ngang bộ, các tổ chức có liên quan thực hiện nhiệm vụ tuyên
truyền về BHYT; đồng thời, UBND các cấp, tổ chức BHXH, cơ sở KCB BHYT, tổ chức
đại diện người lao động và tổ chức đại diện người sử dụng lao động có trách nhiệm
tuyên truyền về BHYT.
Trong những năm qua, Bộ Y tế, BHXH Việt Nam và UBND
cấp tỉnh đã phối hợp với ngành tuyên giáo tuyên truyền Chỉ thị số 38-CT/TW của
Ban bí thư về đẩy mạnh công tác BHYT trong tình hình mới và Nghị quyết số
21-NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo
hiểm xã hội, BHYT giai đoạn 2012 - 2020; phối hợp với các bộ, ngành và các tổ
chức triển khai tuyên truyền vận động về BHYT bằng nhiều hình thức56 góp phần nâng cao nhận thức của xã hội và người
dân về BHYT; tổ chức tập huấn cho cán bộ y tế và cán bộ BHXH.
- Hầu hết HĐND, UBND các tỉnh đều ban hành Chỉ thị,
Nghị quyết, Quyết định và văn bản để chỉ đạo thực hiện chính sách BHYT tại địa
phương, khoảng 30 tỉnh đã ban hành chỉ thị, kế hoạch thực hiện Luật BHYT57. Bộ Y tế, BHXH Việt Nam và một số tỉnh đã tổ chức
giao ban hàng quý để xử lý vướng mắc trong quá trình thực hiện Luật BHYT.
Đồng thời, để phối hợp liên ngành, Bộ Y tế đã ban
hành Quyết định 5205/QĐ-BYT về quy chế phối hợp trong thực hiện BHYT giữa ngành
y tế với ngành BHXH. Đến nay, gần 40 tỉnh đã xây dựng quy chế phối hợp trong việc
thực hiện CSPL về BHYT giữa ngành y tế với ngành BHXH và giữa ngành BHXH với
các ban, ngành khác58.
6.2. Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
Nhìn chung, đã có sự phối hợp giữa Bộ Y tế và BHXH
Việt Nam trong việc thanh tra, kiểm tra KCB BHYT, quản lý, sử dụng quỹ BHYT tại
một số địa phương. Qua gần 4.500 lượt kiểm tra tại các cơ sở KCB BHYT đã phát
hiện nhiều sai phạm, đặc biệt là việc lạm dụng thuốc, lạm dụng xét nghiệm và đã
yêu cầu xuất toán 149 tỷ đồng, một số trường hợp vi phạm pháp luật đã bị xem
xét xử lý hình sự59.
Tại một số địa phương, công tác thanh tra, kiểm tra
BHYT trên địa bàn cũng được quan tâm và đã xử lý những trường hợp vi phạm
nghiêm trọng như tại thành phố Hồ Chí Minh (vụ việc tại Bệnh viện Chợ Rẫy đã được
đưa ra xử tại tòa án), Kiên Giang (vụ vi phạm về BHYT tại 8 bệnh viện đã xử lý
kỷ luật 7 cán bộ y tế, chuyển cơ quan điều tra vụ việc liên quan tới 3 cán bộ,
thu hồi nộp ngân sách trên 192 triệu đồng), Điện Biên (thanh tra trên 200 đơn vị
sử dụng lao động và gần 70 cơ sở KCB, đã xử lý kỷ luật 1 bác sỹ và thu hồi gần
270 triệu đồng cho quỹ BHYT)... Tuy nhiên, những trường hợp vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BHYT lại chưa được Bộ Y tế, các bộ ngành và UBND các cấp quan
tâm xử lý theo quy định của pháp luật.
Thực tế cho thấy, BHXH hiện là lực lượng chính
trong kiểm tra phát hiện sai phạm về BHYT ở các cơ sở KCB, chưa có sự phối hợp
chặt chẽ giữa các ngành trong thanh tra, kiểm tra; bên cạnh việc tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra cần phải xây dựng cơ chế tự quản, tự giám sát của
các bệnh viện cũng như tăng cường công tác thanh tra của chính quyền địa
phương.
6.3. Một số tồn tại, vướng mắc
- Hoạt động tuyên truyền về BHYT còn hạn chế, nặng
tính hình thức, chưa thực hiện thường xuyên, liên tục; chưa có mạng lưới cộng
tác viên sâu rộng đến các cộng đồng dân cư; chưa xác định nhóm đối tượng cần tập
trung trong tuyên truyền, vận động, vì vậy, rất ít người khỏe mạnh chủ động
tham gia BHYT, nhóm tự nguyện tham gia BHYT chủ yếu là người ốm, bị bệnh mạn
tính, nan y. Bên cạnh đó, kinh phí cho công tác tuyên truyền còn thấp, khoảng
300-500 triệu đồng/năm/tỉnh (trong đó đã dành quá nửa để mua tạp chí và báo
BHXH chuyên ngành); hiệu quả tuyên truyền chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra của Đảng
và Nhà nước về chính sách BHYT toàn dân.
- Một số ít địa phương (thường là các tỉnh bị bội
chi quỹ BHYT nhiều năm) thiếu sự chỉ đạo của UBND để phối hợp giữa ngành y tế
và cơ quan BHXH xử lý các vấn đề vướng mắc trong thực hiện BHYT ở địa phương.
- Công tác thanh tra của các ngành y tế,
LĐ-TB&XH, tài chính và UBND các cấp còn hạn chế, kết quả mờ nhạt, chưa chủ
động phát hiện các vấn đề vi phạm trong quá trình tổ chức thực hiện. Công tác
kiểm tra của BHXH Việt Nam chưa thường xuyên với hàng ngàn bệnh viện tham gia
KCB BHYT.
- Văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực y tế từ năm 2011 đã quy định chi tiết về hình thức, thẩm
quyền và mức tiền xử phạt đối với hầu hết các hành vi vi phạm về BHYT, nhưng
trong thực tế các cơ quan chức năng chưa xử lý theo quy định mặc dù có nhiều
sai phạm của cả cán bộ y tế, cán bộ BHXH, người tham gia BHYT, cũng như chủ sử
dụng lao động..., tính đến hết năm 2012 chưa có trường hợp nào bị xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực BHYT theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức y tế địa phương sắp xếp chưa phù hợp, nhất
là tuyến huyện và xã, bộ máy y tế tuyến huyện bị chia tách thành 4 đầu mối60, làm phân tán nguồn lực, khó phối hợp trong công
tác, vướng mắc trong chỉ đạo; đa số các tỉnh chưa có bộ máy chuyên trách giúp
thực hiện chức năng QLNN ở Sở Y tế, việc quản lý theo ngành dọc của y tế địa
phương cũng làm hạn chế sự tham gia của cấp ủy, chính quyền địa phương với công
tác y tế nói chung và BHYT nói riêng trong việc quản lý, mở rộng và thúc đẩy thực
hiện BHYT toàn dân.
Phần thứ hai.
ĐÁNH GIÁ, KẾT LUẬN CHUNG
So với lịch sử BHYT thế giới hàng trăm năm thì chặng
đường 20 năm thực hiện CSPL về BHYT ở Việt Nam, nhất là sau gần 4 năm thực hiện
Luật BHYT, chúng ta đã đạt được kết quả bước đầu quan trọng về BHYT, khẳng định
chủ trương, quan điểm đúng đắn, nhất quán của Đảng, Nhà nước về chính sách
BHYT. Việt Nam đang từng bước tiếp cận với mục tiêu BHYT toàn dân, góp phần thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển kinh tế và bảo đảm chính sách an
sinh xã hội phù hợp xu thế chung của thế giới.
BHYT Việt Nam về bản chất là BHYT xã hội, là cơ chế
tài chính chi trả trước đảm bảo để người dân khi ốm đau có nguồn tài chính chi
trả, tránh bị rơi vào hoàn cảnh khó khăn. BHYT Việt Nam đang từng bước thay thế
cơ chế bao cấp trong KCB bằng việc Nhà nước tăng đầu tư ngân sách để hỗ trợ cho
người dân, đồng thời huy động nguồn lực từ xã hội, người dân và cộng đồng để
tham gia BHYT. Với định hướng đúng và sự nỗ lực của Nhà nước, ngành y tế, BHXH,
tài chính, giáo dục, lao động, các cơ quan liên quan, UBND các cấp trong thực
hiện trách nhiệm được giao, phối hợp giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá
trình thực hiện Luật BHYT, tỷ lệ dân số tham gia BHYT đã tăng nhanh, người tham
gia BHYT được hưởng dịch vụ KCB, kỹ thuật y tế hiện đại, chất lượng hơn, được
cung ứng thuốc KCB, kể cả thuốc mới, hiệu quả giúp hàng triệu lượt người vượt
qua ốm đau và các căn bệnh mạn tính, nan y, hiểm nghèo. Quỹ BHYT đang dần trở
thành nguồn tài chính cơ bản phục vụ cho hoạt động của các bệnh viện, góp phần giảm
mức chi trả từ tiền túi của người bệnh cho công tác chăm sóc sức khỏe.
Chính sách BHYT Việt Nam đã bảo đảm nguyên tắc chia
sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHYT, đồng thời cũng đảm nhận nhiều chính
sách phúc lợi xã hội khác. Đến cuối năm 2012, gần 70% dân số cả nước đã tham
gia BHYT, với phần đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và người
dân chiếm khoảng 58% trong tổng thu BHYT, tạo nền móng quan trọng để tiến tới
BHYT toàn dân. Nhiều tỉnh miền núi và Tây Nguyên gần hoàn thành việc thực hiện
BHYT toàn dân. Quỹ BHYT từ chỗ bị bội chi đến năm 2012 đã cân đối và có kết dư.
Tuy vậy, để tiến tới BHYT toàn dân và đạt mục tiêu
xây dựng nền y tế công bằng, hiệu quả và phát triển, chúng ta phải tiếp tục vượt
qua một số tồn tại, thách thức, đó là:
1. Trong khi tỷ lệ bao phủ BHYT bình quân cả nước
là gần 70%, thì vẫn còn một số địa phương có tỷ lệ tham gia BHYT thấp; bên cạnh
nhiều tỉnh có quỹ BHYT kết dư hàng trăm tỷ đồng chưa được phân bổ lại để sử dụng
thì một số địa phương liên tục bội chi quỹ BHYT và nhận sự hỗ trợ của quỹ trung
ương nhiều năm mà chưa có cơ chế giải quyết hữu hiệu; chưa có giải pháp để thúc
đẩy nhóm đối tượng có tỷ lệ tham gia BHYT thấp; chưa có cơ chế cụ thể để tạo điều
kiện cho các nhóm cuối cùng tham gia lộ trình BHYT toàn dân vào năm 2014 như
quy định tại Điều 51 của Luật BHYT.
2. Chất lượng KCB BHYT ở tuyến dưới chưa đáp ứng
yêu cầu do hạn chế về nhân lực chuyên môn và kỹ thuật y tế đã gây nên tình trạng
quá tải, chờ đợi lâu ở các bệnh viện tuyến trên; tinh thần thái độ và y đức của
cán bộ y tế chậm được cải thiện đã tạo tâm lý lo ngại đối với người tham gia
BHYT và xã hội.
3. Các hình thức lạm dụng quỹ BHYT, nhất là tại các
bệnh viện ngày càng tinh vi, khó kiểm soát và phát hiện, song chưa có công cụ
và biện pháp hiệu quả để kiểm soát; vẫn còn tồn tại tình trạng chênh lệch giá
thuốc cùng loại giữa các bệnh viện trong tỉnh, giữa các tỉnh, giữa bệnh viện với
thị trường; tình trạng không công bằng về chi trả quỹ BHYT cho mỗi ca bệnh ở
các bệnh viện cùng hạng; tình trạng chênh lệch về tần suất KCB giữa các địa
phương.
4. Công tác thanh tra, kiểm tra, công tác quản lý
còn hạn chế; chậm áp dụng công nghệ thông tin để cải tiến thủ tục KCB, thanh
toán BHYT; tình trạng sai thông tin trên thẻ, cấp chậm, trùng thẻ BHYT ở nhiều
tỉnh với số lượng khá lớn gây khó khăn cho người có thẻ cũng như lãng phí ngân
sách.
Những nguyên nhân, trách nhiệm đối với các tồn tại
trong từng vấn đề liên quan đã được phân tích kỹ ở phần kết quả thực hiện CSPL
về BHYT. Ở góc độ QLNN, trách nhiệm liên quan đến những tồn tại trên đó là:
a) Đối với Quốc hội trong việc ban hành chính
sách y tế:
- Việc phân bổ ngân sách đầu tư cho y tế nói chung
và BHYT nói riêng còn hạn chế, chủ yếu mới chi tăng diện bao phủ theo chiều rộng;
chưa đủ điều kiện để cải thiện rõ nét chất lượng KCB.
- Đối với một số nội dung trong Luật BHYT đó là:
+ Chưa xây dựng cơ chế khuyến khích việc tham gia
BHYT theo hộ gia đình trong lộ trình BHYT toàn dân đến năm 2014 nên chỉ người ốm
mới mua BHYT tự nguyện; quy định mức cùng chi trả của một số nhóm đối tượng
chưa hợp lý;
+ Chưa quy định cụ thể trách nhiệm quản lý đối tượng
của ngành giáo dục, ngành lao động, trách nhiệm của các bộ có liên quan trong
việc thực hiện chính sách BHYT cho các đối tượng được NSNN hỗ trợ tham gia;
chưa quy định cụ thể, về phân cấp quản lý quỹ BHYT cho tỉnh/thành phố;
+ Chưa đặt đúng tầm của công tác giám định BHYT
trong việc quản lý, sử dụng hiệu quả quỹ BHYT;
+ Chưa quy định cụ thể trách nhiệm của UBND các cấp
trong QLNN và chỉ đạo thực hiện chính sách BHYT ở địa phương;
+ Chưa quy định nguyên tắc để điều hành Quỹ BHYT
linh hoạt và kịp thời đúng với tính chất của quỹ ngắn hạn.
b) Đối với Chính phủ trong việc tổ chức thực thi
Luật BHYT:
- Tổ chức, quy hoạch hệ thống y tế chưa hợp lý, đầu
tư nâng cấp y tế tuyến dưới chưa đủ mạnh; bộ máy làm công tác y tế ở tuyến huyện
phân tán; bộ máy làm công tác BHYT chưa đáp ứng với nhiệm vụ mang tính chuyên
nghiệp cao, phức tạp, giám định chi phí quỹ BHYT cho hàng ngàn loại bệnh, loại
thuốc khác nhau nhưng lại thiếu công cụ chuẩn mực để phục vụ giám định trong điều
kiện các bệnh viện thực hiện tự chủ và xã hội hóa để tăng nguồn thu.
- Chưa ban hành cơ chế điều hành quỹ BHYT theo hướng
bảo đảm an toàn nhưng linh hoạt để đáp ứng kịp thời quyền lợi của người tham
gia, phù hợp tính chất quỹ ngắn hạn và xử lý phần kết dư hàng năm hợp lý.
- Phân công tuyên truyền, vận động về BHYT giữa Bộ
Y tế và BHXH Việt Nam chưa phù hợp (Luật BHYT quy định Bộ Y tế chủ trì, nhưng
Thủ tướng Chính phủ có quyết định giao BHXH Việt Nam kinh phí để chủ trì tuyên truyền
BHYT); chưa chỉ đạo các ngành, địa phương tìm biện pháp manh mẽ để khắc phục
tình trạng lạm dụng đối với quỹ BHYT cũng như giải quyết những phát sinh tiêu cực
do thực hiện Nghị định 43 và 85/NĐ-CP; chưa chú trọng chỉ đạo các cơ quan chức
năng, UBND các cấp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện mục
tiêu BHYT toàn dân.
c) Đối với Bộ Y tế:
- Là cơ quan được giao trách nhiệm QLNN về BHYT
nhưng thực hiện chức năng QLNN còn hạn chế; chưa thường xuyên chỉ đạo và đôn đốc
các địa phương thực hiện công tác tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi
phạm pháp luật BHYT.
- Chưa có giải pháp hiệu quả nhằm kiểm soát chống lạm
dụng quỹ BHYT như: phương thức chi trả hợp lý của quỹ BHYT cho bệnh viện, phác
đồ điều trị chuẩn, quy chuẩn xét nghiệm để các bệnh viện công nhận kết quả lẫn
nhau tránh lặp lại xét nghiệm mỗi khi chuyển tuyến; chưa có giải pháp phù hợp để
đảm bảo sự công bằng về quyền lợi BHYT giữa các địa phương; chưa quy định phân
tuyến chuyển tuyến kỹ thuật hợp lý (hiện mới chỉ có quy định chuyển tuyến theo
địa dư hành chính)61; chưa có giải pháp hữu hiệu
để nâng cao chất lượng KCB BHYT ở tuyến huyện, xã.
- Chậm đề xuất các giải pháp hữu hiệu để đảm bảo đấu
thầu thuốc có hiệu quả nhằm lựa chọn được các loại thuốc có chất lượng với giá
hợp lý phục vụ KCB BHYT.
- Chưa tập trung chỉ đạo và xử lý quyết liệt nhằm
chấn chỉnh, nâng cao y đức và tinh thần thái độ của cán bộ y tế trong các bệnh
viện, chậm đề xuất và triển khai ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác
KCB.
d) Đối với BHXH Việt Nam:
- Tổ chức phát hành và quản lý thẻ BHYT chưa khoa học,
chưa tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia BHYT; chậm ứng dụng công nghệ
thông tin phục vụ quản lý BHYT.
- Chưa tạo được động lực để khuyến khích người dân
tích cực tham gia BHYT, BHYT vẫn còn mang nặng tính bao cấp.
- Chưa chủ động kiểm tra, phát hiện trùng thẻ, chưa
nghiên cứu để cải tiến mạnh mẽ các thủ tục KCB BHYT, thủ tục thanh toán giữa
BHXH với bệnh viện.
- Chưa có giải pháp đủ mạnh để nâng cao trình độ,
năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ làm công tác giám định BHYT.
đ) Đối với các bộ, ngành khác:
- Ngành Tài chính chưa phát hiện kịp thời và thanh
tra việc sử dụng NSNN hỗ trợ mua BHYT cho một số đối tượng nên để trùng số lượng
lớn thẻ BHYT sau nhiều năm.
- Ngành LĐ-TB&XH chưa hướng dẫn cụ thể quy
trình lập, rà soát danh sách đề nghị cấp thẻ BHYT cho các đối tượng do ngành quản
lý, để xảy ra tình trạng chậm lập danh sách đối tượng, trùng danh sách cấp thẻ;
chưa thường xuyên thanh tra việc thực hiện BHYT trong các doanh nghiệp.
e) Đối với chính quyền các tỉnh/thành phố:
- Chưa thực hiện đầy đủ chức năng QLNN trong phạm
vi địa phương, chỉ đạo phối hợp liên ngành để xử lý vấn đề phát sinh, thanh
tra, kiểm tra về BHYT còn hạn chế; chưa quan tâm bố trí bộ máy làm công tác
QLNN về BHYT.
- Công tác tuyên truyền về BHYT còn mang tính hình
thức; chưa chỉ đạo và huy động được sự tham gia của các ban ngành, đoàn thể
trong việc vận động, tuyên truyền nhân dân tham gia BHYT.
- Một số tỉnh chưa bố trí đủ kinh phí để mua/hỗ trợ
tham gia BHYT cho một số đối tượng; một số tỉnh còn để ngân sách nợ tiền BHXH.
Phần thứ ba.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Với Quốc hội
a) Ban hành Nghị quyết về đẩy mạnh thực hiện chính
sách, pháp luật BHYT, tiến tới BHYT toàn dân trên cơ sở kết quả của Báo cáo
giám sát.
b) Tiếp tục tăng ngân sách để thực hiện các chính
sách an sinh xã hội trong đó có chăm sóc sức khỏe, xây dựng nền y tế công bằng,
hiệu quả và phát triển; phân bổ ngân sách theo hướng chuyển từ chi ngân sách
cho bệnh viện sang cấp ngân sách hỗ trợ nhân dân tham gia BHYT cùng với lộ
trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế nhằm tăng tỷ lệ tham gia BHYT và quyền
lợi BHYT cho người dân.
c) Thường xuyên giám sát việc thực hiện mục tiêu
dân số tham gia BHYT, đưa chỉ tiêu tỷ lệ dân số tham gia BHYT vào Nghị quyết
phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của Quốc hội; tăng cường giám sát việc thực
hiện chính sách an sinh xã hội nói chung và BHYT nói riêng.
d) Xem xét và đưa quy định về đấu thầu thuốc BHYT
trong dự án Luật đấu thầu (sửa đổi).
đ) Xem xét, sửa đổi một số điều của Luật BHYT, đó
là:
- Xây dựng cơ chế để khuyến khích tham gia BHYT
theo hộ gia đình.
- Quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, ngành,
chính quyền địa phương đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật về BHYT.
- Phân cấp việc quản lý quỹ BHYT cho tỉnh mạnh mẽ
hơn để nâng cao sự chủ động của địa phương trong việc tăng tỷ lệ người dân tham
gia BHYT, quản lý, sử dụng quỹ BHYT có hiệu quả, phục vụ quyền lợi người dân tốt
hơn.
- Quy định cơ chế thống nhất giá dịch vụ y tế đối với
bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc; quy định cụ thể về đấu thầu thuốc, vật tư y
tế phục vụ KCB theo BHYT.
- Bổ sung cơ chế kiểm soát lạm dụng dịch vụ y tế, đặt
công tác giám định BHYT đúng tầm, quy định cụ thể gói quyền lợi BHYT cơ bản mà
người tham gia BHYT được hưởng.
- Điều chỉnh chính sách cùng chi trả với một số
nhóm đối tượng (thân nhân liệt sĩ, đối tượng thuộc diện bảo trợ xã hội); quy định
mức cùng chi trả tối đa đối với người tham gia BHYT.
- Nghiên cứu, sửa đổi quy định về thẻ BHYT có ảnh
cho phù hợp (xem phụ lục số 9).
2. Với Chính phủ
- Tiếp tục chỉ đạo việc hướng dẫn đầy đủ các quy định
của Luật BHYT; thúc đẩy thực hiện lộ trình chuyển từ cấp NSNN trực tiếp cho cơ
sở KCB sang hỗ trợ trực tiếp kinh phí cho người dân mua BHYT cùng với lộ trình
tính đúng, đủ giá dịch vụ y tế và BHYT toàn dân.
- Tổ chức đánh giá, tổng kết và xem xét, điều chỉnh
mô hình tổ chức BHYT cũng như mô hình y tế cấp cơ sở (tuyến huyện và xã) phù hợp
với thực tế, gắn với trách nhiệm của UBND các cấp, đảm bảo hiệu quả trong QLNN
về y tế nói chung và về BHYT nói riêng.
- Ban hành tiêu chí đối với hộ nông, lâm, ngư nghiệp
có mức sống trung bình làm cơ sở để hỗ trợ nhóm này tham gia lộ trình BHYT.
- Tập trung chỉ đạo các tỉnh/thành phố triển khai
các giải pháp hữu hiệu để mở rộng đối tượng tham gia BHYT, đặc biệt quan tâm
các địa phương có tỷ lệ tham gia BHYT còn thấp và các nhóm đối tượng có tỷ lệ
tham gia BHYT thấp; chỉ đạo xử lý phần quỹ kết dư theo quy định của pháp luật để
đảm bảo hợp lý quyền lợi của các địa phương có kết dư quỹ BHYT.
- Chỉ đạo các bộ, ngành và UBND các tỉnh/thành phố
tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện CSPL về BHYT; kiểm soát
việc cấp trùng thẻ BHYT, thúc đẩy việc áp dụng công nghệ thông tin thống nhất,
đồng bộ trong quản lý BHYT giữa các cơ sở khám chữa bệnh và cơ quan BHXH.
- Chỉ đạo Bộ Y tế, BHXH Việt Nam, UBND các cấp, cơ
quan thông tin đại chúng phối hợp Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể trong hoạt động
thông tin, giáo dục, truyền thông về BHYT.
- Chỉ đạo BHXH Việt Nam tăng cường tính chuyên nghiệp
của bộ máy làm công tác BHYT, nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ giám định
BHYT và khẩn trương xử lý phần vượt trần BHYT năm 2012 đối với bệnh viện tuyến
tỉnh.
- Chỉ đạo Bộ Tài chính tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra việc quản lý sử dụng Quỹ BHYT; kiểm soát việc trùng thẻ BHYT; kiểm
soát ngân sách phân bổ cho các đối tượng được Nhà nước mua hoặc hỗ trợ mua
BHYT.
- Chỉ đạo Bộ LĐ-TB&XH tiến hành rà soát các đối
tượng được hưởng chính sách BHYT trong phạm vi quản lý; đánh giá, sửa đổi các
tiêu chí của các đối tượng phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội.
3. Với Bộ Y tế
- Tiếp tục hoàn thiện và ban hành gói dịch vụ y tế
cơ bản phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, ngân sách và mức đóng để bảo đảm
quyền lợi của người tham gia và an toàn quỹ BHYT.
- Ban hành đầy đủ các quy định nhằm kiểm soát lạm dụng
quỹ BHYT như: phác đồ điều trị chuẩn, quy định chuẩn xét nghiệm để công nhận kết
quả lẫn nhau giữa các bệnh viện; đẩy nhanh thực hiện thanh toán KCB BHYT theo
phương thức hợp lý.
- Triển khai các giải pháp đấu thầu, cung ứng thuốc,
vật tư y tế để lựa chọn được các loại thuốc hợp lý, nâng cao chất lượng KCB
BHYT.
- Tăng cường thực hiện QLNN về BHYT, chấn chỉnh y đức,
tăng cường thanh tra và đôn đốc các địa phương thực hiện nâng cao y đức, chất
lượng hoạt động chuyên môn trong ngành y tế; tiếp tục tập trung các biện pháp
hiệu quả để giảm quá tải bệnh viện.
- Phối hợp cùng Bộ Tài chính và BHXH Việt Nam xem
xét, rà soát việc quy định trần KCB BHYT tuyến 2 đối với các bệnh viện cho phù
hợp với thực tế.
4. Với Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên
và tổ chức xã hội khác tham gia tuyên truyền, vận động thành viên của mình và
nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật về BHYT.
5. Các tỉnh/thành phố trực
thuộc trung ương
- UBND các tỉnh/thành phố chỉ đạo Sở Y tế, cơ quan
BHXH, các sở, ban ngành, chính quyền và đoàn thể các cấp phối hợp chặt chẽ
trong việc tuyên truyền, vận động người dân tham gia BHYT. Đồng thời, triển
khai các biện pháp hiệu quả để mở rộng tỷ lệ tham gia BHYT, thực hiện lộ trình
BHYT toàn dân tại địa phương.
- Quan tâm chỉ đạo công tác QLNN về BHYT, đặc biệt
là hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về BHYT. Chú trọng điều phối
liên ngành và chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp giải quyết kịp thời các vấn
đề phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện Luật BHYT.
- HĐND các tỉnh/thành phố xem xét để đưa chỉ tiêu tỷ
lệ dân số tham gia BHYT vào Nghị quyết phát triển kinh tế-xã hội hàng năm và
dành ngân sách địa phương hỗ trợ cho nhóm đối tượng có hoàn cảnh khó khăn tham
gia BHYT.
Trên đây là Báo cáo kết quả giám sát thực hiện CSPL
về BHYT giai đoạn 2009 - 2012, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin kính trình Quốc hội./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Chính phủ;
- VPTW Đảng, VPQH, VPCP;
- Ban Kinh tế TW, Ban Tuyên giáo TW;
- Các Bộ: Y tế, Tài chính, LĐ-TB&XH, GD&ĐT, Ủy ban DT, BHXH Việt Nam;
- Đoàn ĐBQH các tỉnh, TP trực thuộc trung ương;
- UBND các tỉnh, TP trực thuộc trung ương;
- Các thành viên Đoàn giám sát;
- Lưu: HC, TH, CVĐXH.
|
TM. ỦY BAN THƯỜNG
VỤ QUỐC HỘI
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Tòng Thị Phóng
|
PHỤ LỤC SỐ 1
DANH MỤC CƠ QUAN, ĐỊA PHƯƠNG ĐƯỢC GIÁM SÁT VIỆC THỰC
HIỆN CSPL VỀ BHYT GIAI ĐOẠN 2009 - 2012
STT
|
Nơi giám sát
|
Thời gian
|
Cơ quan, đơn vị
làm việc với đoàn giám sát
|
Thành phần đoàn
giám sát1
|
1
|
Chính phủ và các bộ ngành
|
Lần thứ 1: 25/2/2013
Lần thứ 2: 18/7/2013
|
- Chính phủ - Bộ Y tế
- Bộ Tài chính
- Bảo hiểm xã hội Việt Nam
- Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
- Kiểm toán nhà nước
|
- Thành viên Đoàn giám sát theo 551/NQ-UBTVQH13
ngày 26/12/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về thành lập Đoàn giám sát “Việc
thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế, giai đoạn 2009-2012”
|
2
|
Địa phương: 9 tỉnh, thành phố
|
|
|
|
|
1. Điện Biên
|
27/2-1/3/2013
|
- Ủy ban nhân dân tỉnh
- Sở Y tế
- Bảo hiểm xã hội
- Sở Tài chính
- Sở Giáo dục và Đào tạo
- Sở Lao động, Thương binh và Xã hội
- Bệnh viện đa khoa tỉnh
- UBND huyện Điện Biên
- UBND huyện Mường Ẳng
- UBND xã Thanh Luông, huyện Điện Biên
- UBND xã Ẳng Nưa, huyện Mường Ẳng
|
- Đ/c Trương Thị Mai - Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn
đề xã hội của Quốc hội làm Trưởng đoàn
- Đ/c Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về CVĐXH,
Đ/c Đỗ Mạnh Hùng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về CVĐXH - Phó Trưởng đoàn, Đ/c Giàng
A Chu - Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Đ/c Bùi Nguyên Súy - Phó Trưởng Ban
dân nguyện, Đ/c Nguyễn Thị Khá, Đ/c Lê Thị Nguyệt, Đ/c Bùi Ngọc Chương - Ủy
viên thường trực Ủy ban về CVĐXH, Đ/c Hoàng Thị Hoa - Ủy viên thường trực Ủy
ban VH, GD, TN, TN & NĐ, Đ/c Hồ Thị Thủy - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh
Phúc, thành viên Ủy ban về CVĐXH
|
|
2. T/p Hà Nội
|
4-6/3/2013
|
- Ủy ban nhân dân thành phố
- Sở Y tế
- Bảo hiểm xã hội
- Sở Tài chính
- Sở Giáo dục và Đào tạo
- Sở Lao động, Thương binh và Xã hội
- Bệnh viện đa khoa Thanh Nhàn
- Bệnh viện Lao và bệnh phổi
- UBND huyện Ứng Hòa
- UBND huyện Đông Anh
- UBND xã Phương Tú, huyện Ứng Hòa
- UBND xã Xuân Nộn, huyện Đông Anh
|
- Đ/c Trương Thị Mai - Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn
đề xã hội của Quốc hội làm Trưởng đoàn
- Đ/c Tòng Thị Phóng, Phó chủ tịch Quốc hội tham
gia buổi làm việc với UBND T/p Hà Nội
- Đ/c Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về
CVĐXH, Đ/c Đỗ Mạnh Hùng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về CVĐXH - Phó Trưởng đoàn, Đ/c
Giàng A Chu - Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Đ/c Bùi Nguyên Súy - Phó Trưởng
Ban dân nguyện, Đ/c Nguyễn Thị Khá, Đ/c Lê Thị Nguyệt, Đ/c Bùi Ngọc Chương - Ủy
viên thường trực Ủy ban về CVĐXH, Đ/c Hoàng Thị Hoa - Ủy viên thường trực Ủy
ban VH, GD, TN, TN & NĐ, Đ/c Hồ Thị Thủy - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh
Phúc, thành viên Ủy ban về CVĐXH
|
|
3. Kiên Giang
|
25-26/3/2013
|
- Ủy ban nhân dân tỉnh
- Sở Y tế
- Bảo hiểm xã hội
- Sở Tài chính
- Sở Giáo dục và Đào tạo
- Sở Lao động, Thương binh và Xã hội
- Bệnh viện đa khoa tỉnh
- UBND huyện Châu Thành
- UBND huyện Giồng Riềng
- UBND xã Vĩnh Hòa Hiệp Châu Thành
- UBND xã Hòa An huyện Giồng Riềng
|
- Đ/c Trương Thị Mai - Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn
đề xã hội của Quốc hội làm Trưởng đoàn
- Đ/c Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về
CVĐXH, Đ/c Nguyễn Thị Khá - Ủy viên thường trực Ủy ban về CVĐXH, Đ/c Trần
Quang Chiểu - Ủy viên thường trực Ủy ban Tài chính - ngân sách, Đ/c Bùi Mạnh
Hùng - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Phước, thành viên Ủy ban về CVĐXH, Đ/c
Trương Minh Hoàng - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Cà Mau
|
|
4. T/p Hồ Chí Minh
|
27-28/3/2013
|
- Ủy ban nhân dân thành phố
- Sở Y tế
- Bảo hiểm xã hội
- Sở Tài chính
- Sở Giáo dục và Đào tạo
- Sở Lao động, Thương binh và Xã hội
- Bệnh viện Chợ Rẫy
- Bệnh viện nhân dân Gia Định
- UBND huyện Hóc Môn
- UBND xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn
|
- Đ/c Trương Thị Mai - Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn
đề xã hội của Quốc hội làm Trưởng đoàn
- Đ/c Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về
CVĐXH, Đ/c Nguyễn Thị Khá - Ủy viên thường trực Ủy ban về CVĐXH, Đ/c Trần
Quang Chiểu - Ủy viên thường trực Ủy ban Tài chính - ngân sách, Đ/c Bùi Mạnh
Hùng - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Phước, thành viên Ủy ban về CVĐXH, Đ/c
Trương Minh Hoàng - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Cà Mau, Đ/c Huỳnh Thành Lập -
Trưởng Đoàn ĐBQH t/p Hồ Chí Minh
|
|
5. Nam Định
|
26-28/3/2013
|
- Ủy ban nhân dân tỉnh
- Sở Y tế
- Bảo hiểm xã hội
- Sở Tài chính
- Sở Giáo dục và Đào tạo
- Sở Lao động, Thương binh và Xã hội
- Bệnh viện đa khoa tỉnh
- UBND huyện Hải Hậu
- UBND huyện Xuân Trường
- UBND xã Hải Trung, huyện Hải Hậu
- UBND xã Xuân Kiên, huyện Xuân Trường
|
- Đ/c Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về CVĐXH
làm Trưởng đoàn
- Đ/c Lê Thị Nguyệt, Đ/c Bùi Ngọc Chương - Ủy
viên thường trực Ủy ban về CVĐXH, Đ/c Hoàng Thị Hoa - Ủy viên thường trực Ủy
ban VH, GD, TN, TN & NĐ, Đ/c Phạm Đức Châu - Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng
Trị, thành viên Ủy ban về CVĐXH, Đ/c Hồ Thị Thủy - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh
Vĩnh Phúc
|
|
6. Nghệ An
|
29-30/3/2013
|
- Ủy ban nhân dân tỉnh
- Sở Y tế
- Bảo hiểm xã hội
- Sở Tài chính
- Sở Giáo dục và Đào tạo
- Sở Lao động, Thương binh và Xã hội
- Bệnh viện đa khoa tỉnh
- UBND huyện Nghi Lộc
- UBND thị xã Cửa Lò
- UBND thị trấn Quán Hành, huyện Nghi Lộc
- UBND phường Nghị Hương, thị xã Cửa Lò
|
- Đ/c Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về CVĐXH
làm Trưởng đoàn
- Đ/c Lê Thị Nguyệt, Đ/c Bùi Ngọc Chương - Ủy
viên thường trực Ủy ban về CVĐXH, Đ/c Hoàng Thị Hoa - Ủy viên thường trực Ủy
ban VH, GD, TN, TN & NĐ, Đ/c Phạm Đức Châu - Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng
Trị, thành viên Ủy ban về CVĐXH, Đ/c Hồ Thị Thủy - Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh
Vĩnh Phúc
|
|
7. Bình Dương
|
27-28/6/2013
|
- Ủy ban nhân dân tỉnh
- Sở Y tế
- Bảo hiểm xã hội
- Sở Tài chính
- Sở Giáo dục và Đào tạo
- Sở Lao động, Thương binh và Xã hội
- Bệnh viện đa khoa tỉnh
- UBND huyện Bến Cát
- UBND thị xã Thuận An
- UBND phường Bình Chuẩn, tx Thuận An
- UBND xã An Tây, huyện Bến Cát
|
- Đ/c Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về
CVĐXH làm Trưởng đoàn
- Đ/c Nguyễn Thúy Anh - Phó Chủ nhiệm Ủy ban về
CVĐXH, Đ/c Giàng A Chu - Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Đ/c Nguyễn Thị Khá,
Đ/c Đặng Thuần Phong - Ủy viên thường trực Ủy ban về CVĐXH, Đ/c Trần Quang
Chiểu - Ủy viên thường trực Ủy ban Tài chính - ngân sách, Đ/c Bùi Mạnh Hùng -
Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Phước, Đ/c Phạm Đức Châu - Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh
Quảng Trị, Đ/c Nguyễn Phạm Ý Nhi - ĐBQH t/p Hà Nội, thành viên Ủy ban về
CVĐXH
|
|
8. Đắk Lắk
|
1 - 2/7/2013
|
- Ủy ban nhân dân tỉnh
- Sở Y tế
- Bảo hiểm xã hội
- Sở Tài chính
- Sở Giáo dục và Đào tạo
- Sở Lao động, Thương binh và Xã hội
- Bệnh viện đa khoa tỉnh
- UBND huyện Buôn Đôn
- UBND t/p Buôn Ma Thuột
- UBND xã Cuôr Knia, huyện Buôn Đôn
- UBND phường Tân An, t/p Buôn Ma Thuột
|
- Đ/c Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về
CVĐXH làm Trưởng đoàn
- Đ/c Nguyễn Thúy Anh - Phó Chủ nhiệm Ủy ban về
CVĐXH, Đ/c Giàng A Chu - Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Đ/c Nguyễn Thị Khá,
Đ/c Đặng Thuần Phong - Ủy viên thường trực Ủy ban về CVĐXH, Đ/c Trần Quang
Chiểu - Ủy viên thường trực Ủy ban Tài chính - ngân sách, Đ/c Bùi Mạnh Hùng -
Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Phước, Đ/c Phạm Đức Châu - Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh
Quảng Trị, Đ/c Nguyễn Phạm Ý Nhi - ĐBQH t/p Hà Nội, thành viên Ủy ban về
CVĐXH
|
|
9. Ninh Thuận
|
3 - 4/7/2013
|
- Ủy ban nhân dân tỉnh
- Sở Y tế
- Bảo hiểm xã hội
- Sở Tài chính
- Sở Giáo dục và Đào tạo
- Sở Lao động, Thương binh và Xã hội
- Bệnh viện đa khoa tỉnh
- UBND huyện Ninh Phước
- UBND huyện Ninh Hải
- UBND xã Phước hậu, huyện Ninh Phước
- UBND xã Nhơn Hải, huyện Ninh Hải
|
- Đ/c Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về
CVĐXH làm Trưởng đoàn
- Đ/c Nguyễn Thúy Anh - Phó Chủ nhiệm Ủy ban về
CVĐXH, Đ/c Giàng A Chu - Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Đ/c Nguyễn Thị Khá,
Đ/c Đặng Thuần Phong - Ủy viên thường trực Ủy ban về CVĐXH, Đ/c Trần Quang
Chiểu - Ủy viên thường trực Ủy ban Tài chính - ngân sách, Đ/c Bùi Mạnh Hùng -
Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Phước, Đ/c Phạm Đức Châu - Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh
Quảng Trị, Đ/c Nguyễn Phạm Ý Nhi - ĐBQH t/p Hà Nội, thành viên Ủy ban về
CVĐXH
|
PHỤ LỤC SỐ 2
TỔNG HỢP QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ BẢO HIỂM Y TẾ
1. Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 22/01/2002 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về củng cố và hoàn thiện y tế cơ sở còn định hướng:...
Phát triển bảo hiểm y tế (BHYT) ở nông thôn, đặc biệt là BHYT cho người nghèo,
những người thuộc diện chính sách trợ cấp xã hội và nông dân.
2. Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/2/2005 của
Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong
tình hình mới, khẳng định:
- Phát triển BHYT toàn dân, nhằm từng bước đạt tới
sự công bằng trong chăm sóc sức khỏe, thực hiện sự chia sẻ giữa người khỏe với
người ốm, người giàu với người nghèo, người trong độ tuổi lao động với trẻ em,
người già.
- Việc thực hiện tự chủ về tài chính của các cơ sở
KCB công lập cần được tiến hành từng bước, cùng với tiến trình mở rộng BHYT, tiến
tới BHYT toàn dân.
3. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
X Đảng ngày 25/4/2006 tiếp tục nhấn mạnh: “Phát triển và nâng cao chất lượng
BHYT; xây dựng và thực hiện tốt lộ trình tiến tới BHYT toàn dân; phát triển mạnh
các loại hình BHYT tự nguyện, BHYT cộng đồng. Mở rộng diện các cơ sở y tế công
lập và ngoài công lập khám bệnh, chữa bệnh theo BHYT. Hạn chế và giảm dần hình
thức thanh toán viện phí trực tiếp từ người bệnh. Đổi mới phương thức thanh
toán viện phí qua quỹ BHYT”.
4. Kết luận số 42-KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ
Chính trị về đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính (trong đó có tiền lương
và giá dịch vụ y tế) đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập đã nhấn mạnh
quan điểm: Đổi mới cơ chế tài chính trong các đơn vị sự nghiệp y tế công lập gắn
với việc thực hiện lộ trình tiến tới BHYT toàn dân, đồng thời theo hướng tính
đúng, tính đủ chi phí dịch vụ y tế.
5. Kết luận số 43-KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ
Chính trị về 3 năm thực hiện Nghị quyết số 46-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Công
tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới” và 5
năm thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW của Ban Bí thư về “Củng cố và hoàn thiện mạng
lưới y tế cơ sở” nêu rõ quan điểm:
- Tổ chức, sắp xếp hệ thống y tế công lập, đặc biệt
là y tế cơ sở để tạo ra một mô hình hợp lý và ổn định dựa trên quản lý theo
ngành đối với y tế địa phương... Tăng cường quản lý nhà nước đối với BHYT.
- Tiếp tục chuyển đầu tư trực tiếp ngân sách nhà nước
cho các cơ sở dịch vụ công sang đầu tư trực tiếp cho người hưởng dịch vụ bằng
cách mua thẻ BHYT cho người có công với cách mạng, người nghèo, người tàn tật
và rủi ro về sức khỏe, hỗ trợ mua thẻ BHYT cho người cận nghèo; đẩy nhanh tiến
độ thực hiện BHYT toàn dân.
6. Chỉ thị số 38-CT/TW ngày 7/9/2009 của Ban
Bí thư về đẩy mạnh công tác BHYT trong tình hình mới, nêu rõ quan điểm:
- Tiếp tục quán triệt sâu sắc và nâng cao nhận thức
về vị trí, vai trò, ý nghĩa của BHYT.
- Tổ chức thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chính
sách về BHYT.
- Đổi mới công tác thông tin, truyền thông và tuyên
truyền về BHYT.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về BHYT và
quản lý quỹ BHYT.
- Tổ chức tốt công tác khám bệnh, chữa bệnh BHYT.
- Phát động cuộc vận động toàn dân tham gia BHYT và
chuẩn bị lộ trình tiến đến BHYT bắt buộc trong những năm tiếp theo.
7. Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của
Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về một số chính sách xã hội giai đoạn 2012 -
2020 khẳng định quan điểm:
Bảo đảm y tế tối thiểu và nâng cao hiệu quả sử dụng
BHYT đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, các hộ nghèo. Sửa đổi, bổ
sung Luật BHYT, đổi mới công tác quản lý nhà nước về BHYT, có chính sách khuyến
khích người dân, nhất là người có thu nhập dưới mức trung bình tham gia BHYT. Đến
năm 2020 trên 80% dân số tham gia BHYT.
8. Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của
Bộ Chính trị ban hành về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo
hiểm xã hội, BHYT giai đoạn 2012 - 2020, có nêu rõ một số quan điểm chỉ đạo:
- Bảo hiểm xã hội và BHYT là hai chính sách xã hội
quan trọng, là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và phát triển KT -
XH.
- Mở rộng và hoàn thiện chế độ, chính sách bảo hiểm
xã hội, BHYT có bước đi, lộ trình phù hợp với phát triển KT - XH của đất nước.
Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, BHYT đồng bộ với phát triển các dịch vụ xã
hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi
cho mọi người tham gia và thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, BHYT.
- Bảo hiểm xã hội, BHYT phải theo nguyên tắc có
đóng, có hưởng, quyền lợi tương ứng với nghĩa vụ, có sự chia sẻ giữa các thành
viên, bảo đảm công bằng và bền vững của hệ thống bảo hiểm xã hội, BHYT.
- Thực hiện tốt các chế độ, chính sách bảo hiểm xã
hội BHYT là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã
hội, doanh nghiệp và của mỗi người dân.
- Đa dạng sản phẩm dịch vụ BHYT phù hợp với các tầng
lớp trong xã hội, điều chỉnh các mức phí, mức hưởng đi đôi với phát triển các dịch
vụ y tế chất lượng cao... Quy định mức thanh toán BHYT theo hướng vừa bảo đảm
quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, vừa bảo đảm cân đối quỹ theo nguyên tắc
“đóng - hưởng”.
Như vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về BHYT
đều khẳng định nhất quán mục tiêu từng bước tiến tới BHYT toàn dân./.
PHỤ LỤC SỐ 3
DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT HƯỚNG DẪN THI
HÀNH LUẬT BẢO HIỂM Y TẾ
STT
|
Tên văn bản
|
Trích yếu
|
Thời gian ban
hành
|
1
|
Nghị định 62/2009/NĐ-CP
|
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Bảo hiểm y tế
|
27/07/2009
|
2
|
Nghị định 92/2011/NĐ-CP
|
Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực Bảo hiểm y tế
|
17/10/2011
|
3
|
Thông tư liên tịch 09/2009/TTLT-BYT-BTC
|
Hướng dẫn thực hiện BHYT
|
14/08/2009
|
4
|
Thông tư liên tịch 39/2011/TTLT-BYT-BTC
|
Hướng dẫn thủ tục thanh toán chi phí khám bệnh,
chữa bệnh đối với người tham gia BHYT bị tai nạn giao thông
|
11/11/2011
|
5
|
Thông tư liên tịch 25/2010/TTLT-BQP-BYT-BTC
|
Hướng dẫn quản lý, tổ chức thực hiện bảo hiểm y tế
đối với người lao động trong quân đội và thân nhân quân nhân tại ngũ
|
05/03/2010
|
6
|
Thông tư liên tịch 03/2012/TTLT-BQP-BYT-BTC
|
Hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế đối với người
làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu và thân nhân người đang làm công tác
cơ yếu
|
16/01/2012
|
7
|
Thông tư liên tịch 11/2012/TTLT-BCA-BYT-BTC
|
Hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế đối với thân
nhân các sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ đang công tác trong công an nhân dân
|
12/09/2012
|
8
|
Thông tư 10/2009/TT-BYT
|
Hướng dẫn đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu và
chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh BHYT
|
14/08/2009
|
9
|
Thông tư 11/2009/TT-BYT
|
Ban hành Danh mục dịch vụ kỹ thuật phục hồi chức năng
và số ngày bình quân một đợt điều trị của một số bệnh, nhóm bệnh được quỹ Bảo
hiểm y tế thanh toán
|
14/08/2009
|
10
|
Thông tư 12/2010/TT-BYT
|
Ban hành Danh mục thuốc y học cổ truyền chủ yếu sử
dụng tại các cơ sở KCB
|
29/04/2010
|
11
|
Thông tư 31/2011/TT-BYT
|
Ban hành và hướng dẫn thực hiện Danh mục thuốc chủ
yếu sử dụng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được quỹ bảo hiểm y tế thanh
toán
|
11/07/2011
|
12
|
Thông tư 10/2012/TT-BYT
|
Sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư số
31/2011/TT-BYT ngày 11/07/2011 về việc ban hành và hướng dẫn thực hiện danh mục
thuốc chủ yếu sử dụng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được quỹ bảo hiểm y
tế thanh toán
|
08/06/2012
|
13
|
Thông tư 19/2010/TT-BTC
|
Quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử
dụng phí cấp lại và đổi thẻ bảo hiểm y tế
|
03/02/2010
|
14
|
Thông tư 134/2011/TT-BTC
|
Quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều
của quyết định số 04/2011/QĐ-TTg ngày 20/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về
quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam
|
30/09/2011
|
15
|
Thông tư 113/2012/TT-BTC
|
Quy định chi tiết về hoạt động đầu tư để bảo toàn
và tăng trưởng các quỹ bảo hiểm do Bảo hiểm xã hội Việt Nam quản lý
|
17/7/2012
|
16
|
Thông tư liên tịch 01/2012/TTLT-BYT-BTC
|
Về hướng dẫn đấu thầu mua thuốc trong các cơ sở y
tế
|
19/01/2012
|
17
|
Quyết định 04/2011/QĐ-TTg
|
Về Quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt
Nam
|
20/01/2011
|
18
|
Quyết định 797/QĐ-TTg
|
Nâng mức hỗ trợ đóng BHYT cho người thuộc hộ gia
đình cận nghèo
|
26/6/2012
|
PHỤ LỤC SỐ 4
ĐÁNH GIÁ VỀ VĂN BẢN HƯỚNG DẪN CHUYÊN MÔN, NGHIỆP VỤ
DO BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM BAN HÀNH
Luật BHYT giao Tổ chức BHYT quy định về 2 vấn đề: mẫu
thẻ BHYT (tại khoản 5 Điều 16) và hướng dẫn hồ sơ, thủ tục, tổ chức thực hiện
chế độ BHYT (khoản 2 Điều 41). Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã ban hành 6 quyết định
để hướng dẫn các vấn đề trên và gần 150 văn bản hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ
đối với BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, BHXH Bộ Quốc phòng. Bên
cạnh đó, BHXH tất cả các tỉnh, thành phố cũng ban hành nhiều văn bản để hướng dẫn
chuyên môn nghiệp vụ trong triển khai thực hiện BHYT tại địa phương.
Nhìn chung, các văn bản hướng dẫn do BHXH Việt Nam
ban hành phù hợp với pháp luật, có tính khả thi, song một số văn bản vẫn còn vướng
mắc, bất cập:
- Do Bộ Y tế chưa thực hiện phân hạng bệnh viện tư
nhân nên BHXH Việt Nam phải hướng dẫn tạm thời phân hạng bệnh viện tư nhân
tương đương bệnh viện hạng II1 và áp dụng trần
thanh toán tuyến 2 đối với các bệnh viện tư nhân (Văn bản số 245/BHXH-CSYT) để
thực hiện quy định tại khoản 3 Điều 22 Luật BHYT và xác định danh mục thuốc
thanh toán BHYT.
- Văn bản số 1513/BHXH-CSYT về việc hướng dẫn triển
khai Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BYT-BTC quy định giá dịch vụ y tế, thuốc
sử dụng để thực hiện dịch vụ được tính theo giá trúng thầu được phê duyệt áp dụng
cho năm 2012, nêu một loại vật tư hoặc 1 loại thuốc được phê duyệt nhiều mức
giá thì áp dụng giá thấp nhất gây thắc mắc, tâm tư đối với các cơ sở và cán bộ
y tế.
- Văn bản số 3637/BHXH-CSYT về triển khai thực hiện
giá dịch vụ y tế mới được phê duyệt theo Thông tư 04 có quy định chỉ thanh toán
dịch vụ siêu âm Doppler màu tim 4D đối với cơ sở KCB được phép thực hiện phẫu
thuật hoặc can thiệp tim mạch là chưa phù hợp, vì nếu danh mục này được Hội đồng
nhân dân tỉnh phê duyệt thì phải được thanh toán (tuy nhiên, BHXH đã thống nhất
với Bộ Y tế trước khi ban hành để chống lạm dụng dịch vụ này tại các bệnh viện).
- Quyết định số 82/QĐ-BHXH ngày 20/01/2010 của Tổng
giám đốc BHXH Việt Nam có quy định về nguyên tắc đăng ký nơi KCB ban đầu: người
tham gia BHYT cư trú hoặc công tác tại huyện nào được đăng ký KCB ban đầu tại
cơ sở KCB tuyến xã, tuyến huyện và tương đương trên địa bàn huyện đó... Quy định
như vậy chưa thực sự phù hợp với Điều 26 của Luật BHYT2.
PHỤ LỤC 5
TỶ LỆ BAO PHỦ BHYT THEO ĐỊA PHƯƠNG NĂM 2009-2012
Đơn vị: người
TT
|
Đơn vị
|
Năm 2009
|
Năm 2010
|
Năm 2011
|
Năm 2012
|
Số người tham gia BHYT
|
Tổng số dân
|
Tỷ lệ có BHYT
|
Số người tham gia BHYT
|
Tổng số dân
|
Tỷ lệ có BHYT
|
Số người tham gia BHYT
|
Tổng số dân
|
Tỷ lệ có BHYT
|
Số người tham gia BHYT
|
Tổng số dân
|
Tỷ lệ có BHYT
|
1
|
Hà Nội
|
4,418,066
|
6,472,200
|
68%
|
3,691,008
|
6,561,900
|
56%
|
4,350,748
|
6,699,600
|
65%
|
4,414,235
|
6,771,294
|
65%
|
2
|
TP HCM
|
4,273,920
|
7,165,200
|
60%
|
4,502,936
|
7,396,500
|
61%
|
4,736,390
|
7,521,100
|
63%
|
4,803,927
|
7,601,585
|
63%
|
3
|
An Giang
|
708,036
|
2,149,200
|
33%
|
1,028,511
|
2,149,500
|
48%
|
1,096,866
|
2,151,000
|
51%
|
1,188,957
|
2,174,018
|
55%
|
4
|
Bà Rịa - VT
|
639,886
|
996,900
|
64%
|
562,144
|
1,012,000
|
56%
|
546,625
|
1,027,200
|
53%
|
644,461
|
1,038,192
|
62%
|
5
|
Bạc Liêu
|
407,619
|
858,400
|
47%
|
377,288
|
867,800
|
43%
|
358,179
|
873,300
|
41%
|
446,842
|
882,645
|
51%
|
6
|
Bắc Giang
|
772,082
|
1,560,200
|
49%
|
803,174
|
1,560,300
|
51%
|
954,558
|
1,574,300
|
61%
|
983,255
|
1,591,147
|
62%
|
7
|
Bắc Kạn
|
293,139
|
295,300
|
99%
|
297,677
|
296,500
|
100%
|
310,638
|
298,700
|
104%
|
302,791
|
301,896
|
100%
|
8
|
Bắc Ninh
|
521,503
|
1,026,700
|
51%
|
524,903
|
1,034,200
|
51%
|
622,407
|
1,060,300
|
59%
|
674,409
|
1,071,647
|
63%
|
9
|
Bến Tre
|
726,957
|
1,255,800
|
58%
|
572,998
|
1,256,700
|
46%
|
671,695
|
1,257,800
|
53%
|
651,921
|
1,271,260
|
51%
|
10
|
Bình Dương
|
1,044,123
|
1,497,100
|
70%
|
1,007,150
|
1,619,900
|
62%
|
1,106,460
|
1,691,400
|
65%
|
1,178,690
|
1,709,500
|
69%
|
11
|
Bình Định
|
745,342
|
1,489,000
|
50%
|
831,746
|
1,489,700
|
56%
|
935,889
|
1,497,300
|
63%
|
934,162
|
1,513,323
|
62%
|
12
|
Bình Phước
|
272,109
|
877,500
|
31%
|
346,168
|
893,400
|
39%
|
414,204
|
905,300
|
46%
|
422,468
|
914,988
|
46%
|
13
|
Bình Thuận
|
428,750
|
1,171,700
|
37%
|
570,100
|
1,176,900
|
48%
|
635,283
|
1,180,300
|
54%
|
645,537
|
1,192,931
|
54%
|
14
|
Cà Mau
|
439,230
|
1,207,000
|
36%
|
510,702
|
1,212,100
|
42%
|
576,949
|
1,214,900
|
47%
|
592,655
|
1,227,901
|
48%
|
15
|
Cao Bằng
|
446,770
|
512,500
|
87%
|
473,258
|
513,100
|
92%
|
482,619
|
515,000
|
94%
|
490,539
|
520,511
|
94%
|
16
|
Cần Thơ
|
429,907
|
1,189,600
|
36%
|
582,040
|
1,197,100
|
49%
|
610,205
|
1,200,300
|
51%
|
659,664
|
1,213,145
|
54%
|
17
|
Đà Nẵng
|
724,424
|
890,500
|
81%
|
686,140
|
926,000
|
74%
|
783,732
|
951,700
|
82%
|
820,545
|
961,884
|
85%
|
18
|
Đắk Lắk
|
1,292,976
|
1,733,100
|
75%
|
1,215,863
|
754,400
|
69%
|
1,274,105
|
1,771,800
|
72%
|
1,274,816
|
1,790,761
|
71%
|
19
|
Đắk Nông
|
298,574
|
492,000
|
61%
|
276,197
|
510,600
|
54%
|
305,319
|
516,300
|
59%
|
316,165
|
521,825
|
61%
|
20
|
Điện Biên
|
447,819
|
493,000
|
91%
|
445,587
|
504,500
|
88%
|
489,272
|
512,300
|
96%
|
507,433
|
517,782
|
98%
|
21
|
Đồng Nai
|
1,320,126
|
2,491,300
|
53%
|
1,439,039
|
2,569,400
|
56%
|
1,553,089
|
2,665,100
|
58%
|
1,584,915
|
2,693,620
|
59%
|
22
|
Đồng Tháp
|
865,974
|
1,667,700
|
52%
|
739,455
|
1,670,500
|
44%
|
909,498
|
1,673,200
|
54%
|
1,047,325
|
1,691,105
|
62%
|
23
|
Gia Lai
|
965,197
|
1,277,600
|
76%
|
885,218
|
1,300,900
|
68%
|
931,171
|
1,322,000
|
70%
|
960,417
|
1,336,147
|
72%
|
24
|
Hà Giang
|
472,949
|
727,000
|
65%
|
714,114
|
735,800
|
97%
|
731,880
|
746,300
|
98%
|
725,454
|
754,286
|
96%
|
25
|
Hà Nam
|
391,735
|
786,400
|
50%
|
393,215
|
786,300
|
50%
|
437,968
|
786,900
|
56%
|
449,991
|
795,321
|
57%
|
26
|
Hà Tĩnh
|
701,007
|
1,230,300
|
57%
|
624,536
|
1,228,000
|
51%
|
841,340
|
1,229,300
|
68%
|
798,289
|
1,242,455
|
64%
|
27
|
Hải Dương
|
728,699
|
1,706,800
|
43%
|
1,093,717
|
1,712,800
|
64%
|
1,031,245
|
1,718,900
|
60%
|
1,060,461
|
1,737,294
|
61%
|
28
|
Hải Phòng
|
820,009
|
1,841,700
|
45%
|
1,184,666
|
1,857,800
|
64%
|
1,221,650
|
1,878,500
|
65%
|
1,229,523
|
1,898,602
|
65%
|
29
|
Hậu Giang
|
292,464
|
758,000
|
39%
|
315,873
|
758,600
|
42%
|
398,800
|
769,200
|
52%
|
463,078
|
777,431
|
60%
|
30
|
Hòa Bình
|
509,270
|
789,000
|
65%
|
502,242
|
793,500
|
63%
|
677,669
|
799,300
|
85%
|
748,733
|
808,359
|
93%
|
31
|
Hưng Yên
|
415,587
|
1,131,200
|
37%
|
522,887
|
1,132,300
|
46%
|
613,309
|
1,150,400
|
53%
|
631,257
|
1,162,711
|
54%
|
32
|
Khánh Hòa
|
677,844
|
1,159,700
|
58%
|
671,120
|
1,167,700
|
57%
|
685,356
|
1,174,100
|
58%
|
689,043
|
1,186,664
|
58%
|
33
|
Kiên Giang
|
794,279
|
1,687,900
|
47%
|
752,551
|
1,703,500
|
44%
|
831,618
|
1,714,100
|
49%
|
837,285
|
1,732,443
|
48%
|
34
|
Kon Tum
|
336,399
|
432,900
|
78%
|
349,518
|
443,400
|
79%
|
374,503
|
453,200
|
83%
|
390,530
|
458,050
|
85%
|
35
|
Lai Châu
|
353,799
|
371,400
|
95%
|
363,809
|
382,400
|
95%
|
375,462
|
391,200
|
96%
|
391,390
|
395,386
|
99%
|
36
|
Lạng Sơn
|
343,426
|
733,100
|
47%
|
652,305
|
735,600
|
89%
|
660,976
|
741,200
|
89%
|
671,268
|
794,132
|
85%
|
37
|
Lào Cai
|
555,610
|
614,900
|
90%
|
564,173
|
626,200
|
90%
|
608,168
|
637,500
|
95%
|
611,074
|
644,322
|
95%
|
38
|
Lâm Đồng
|
699,357
|
1,189,300
|
59%
|
635,036
|
1,204,900
|
53%
|
678,366
|
1,218,700
|
56%
|
744,468
|
1,231,742
|
60%
|
39
|
Long An
|
732,634
|
1,438,500
|
51%
|
761,505
|
1,446,200
|
53%
|
890,024
|
1,449,600
|
61%
|
902,834
|
1,465,113
|
62%
|
40
|
Nam Định
|
665,571
|
1,826,300
|
36%
|
773,032
|
1,830,000
|
42%
|
794,219
|
1,833,500
|
43%
|
900,071
|
1,853,121
|
49%
|
41
|
Nghệ An
|
1,755,434
|
2,919,200
|
60%
|
1,794,775
|
2,917,400
|
62%
|
2,051,609
|
2,942,900
|
70%
|
2,109,619
|
2,974,393
|
71%
|
42
|
Ninh Bình
|
421,031
|
900,100
|
47%
|
607,339
|
900,600
|
67%
|
559,132
|
906,900
|
62%
|
606,312
|
916,605
|
66%
|
43
|
Ninh Thuận
|
215,155
|
565,700
|
38%
|
258,826
|
570,100
|
45%
|
296,204
|
569,000
|
52%
|
336,295
|
575,089
|
58%
|
44
|
Phú Thọ
|
612,071
|
1,316,700
|
46%
|
735,152
|
1,322,100
|
56%
|
949,269
|
1,326,000
|
72%
|
911,576
|
1,340,190
|
68%
|
45
|
Phú Yên
|
348,227
|
863,000
|
40%
|
457,080
|
868,500
|
53%
|
462,748
|
871,900
|
53%
|
480,558
|
881,230
|
55%
|
46
|
Quảng Bình
|
492,041
|
848,000
|
58%
|
532,165
|
849,300
|
63%
|
619,436
|
853,000
|
73%
|
613,029
|
862,128
|
71%
|
47
|
Quảng Nam
|
799,358
|
1,421,200
|
56%
|
976,298
|
1,425,100
|
69%
|
978,554
|
1,435,000
|
68%
|
1,112,591
|
1,450,356
|
77%
|
48
|
Quảng Ngãi
|
711,167
|
1,219,200
|
58%
|
725,096
|
1,218,600
|
60%
|
752,552
|
1,221,600
|
62%
|
783,609
|
1,234,673
|
63%
|
49
|
Quảng Ninh
|
615,232
|
1,146,600
|
54%
|
870,094
|
1,159,500
|
75%
|
874,183
|
1,163,700
|
75%
|
901,636
|
1,176,153
|
77%
|
50
|
Quảng Trị
|
346,341
|
599,200
|
58%
|
358,647
|
600,500
|
60%
|
430,605
|
604,700
|
71%
|
430,802
|
611,171
|
70%
|
51
|
Sóc Trăng
|
534,900
|
1,293,200
|
41%
|
695,123
|
1,300,800
|
53%
|
643,945
|
1,303,700
|
49%
|
838,957
|
1,317,651
|
64%
|
52
|
Sơn La
|
895,066
|
1,083,800
|
83%
|
1,070,073
|
1,092,700
|
98%
|
998,689
|
1,119,400
|
89%
|
1,036,276
|
1,131,379
|
92%
|
53
|
Tây Ninh
|
432,678
|
1,067,700
|
41%
|
392,366
|
1,075,300
|
36%
|
485,124
|
1,080,700
|
45%
|
534,706
|
1,092,265
|
49%
|
54
|
Thái Bình
|
876,298
|
1,784,000
|
49%
|
1,086,524
|
1,786,300
|
61%
|
1,140,302
|
1,786,000
|
64%
|
1,167,926
|
1,805,112
|
65%
|
55
|
Thái Nguyên
|
870,747
|
1,127,400
|
77%
|
796,543
|
1,131,300
|
70%
|
845,436
|
1,139,400
|
74%
|
920,049
|
1,151,593
|
80%
|
56
|
Thanh Hóa
|
2,108,972
|
3,405,000
|
62%
|
2,066,359
|
3,406,800
|
61%
|
2,472,752
|
3,412,600
|
72%
|
2,445,624
|
3,449,119
|
71%
|
57
|
TT Huế
|
723,854
|
1,088,700
|
66%
|
755,264
|
1,090,900
|
69%
|
831,186
|
1,103,100
|
75%
|
845,778
|
1,114,905
|
76%
|
58
|
Tiền Giang
|
648,890
|
1,673,900
|
39%
|
811,799
|
1,677,000
|
48%
|
893,153
|
1,682,600
|
53%
|
946,393
|
1,700,606
|
56%
|
59
|
Trà Vinh
|
707,370
|
1,004,400
|
70%
|
704,328
|
1,005,900
|
70%
|
582,998
|
1,012,600
|
58%
|
733,894
|
1,023,436
|
72%
|
60
|
Tuyên Quang
|
381,013
|
727,500
|
52%
|
567,818
|
728,900
|
78%
|
633,547
|
730,800
|
87%
|
650,135
|
738,620
|
88%
|
61
|
Vĩnh Long
|
592,401
|
1,029,800
|
58%
|
466,533
|
1,026,500
|
45%
|
545,304
|
1,028,600
|
53%
|
537,283
|
1,039,607
|
52%
|
62
|
Vĩnh Phúc
|
552,923
|
1,003,000
|
55%
|
564,733
|
1,008,300
|
56%
|
619,260
|
1,014,600
|
61%
|
617,569
|
1,025,458
|
60%
|
63
|
Yên Bái
|
389,337
|
743,400
|
52%
|
602,401
|
746,400
|
81%
|
639,362
|
758,600
|
84%
|
658,630
|
766,718
|
86%
|
64
|
Khối LLVT
|
|
|
|
1,268,153
|
|
0%
|
1,268,153
|
|
|
1,300,000
|
|
|
65
|
Ghi thu tại
BHXHVN (ĐT hưu trí)
|
2,064,937
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Tổng cộng
|
50,068,611
|
86,024,600
|
58,2%
|
52,407,090
|
86,927,700
|
60%
|
57,081,956
|
87,839,500
|
65%
|
59,310,125
|
88,824,998
|
66.8%
|
Ghi chú: Tỷ lệ dân số tham gia
BHYT của một số tỉnh/thành phố tại phụ lục này có chênh với báo cáo của địa
phương vì một số địa phương đã cộng số đối tượng tham gia BHYT là thân nhân của
khối lực lượng vũ trang.
PHỤ LỤC SỐ 6
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC HỖ TRỢ ĐÓNG BHYT GIAI ĐOẠN 2009 -
2012
Đơn vị: triệu đồng
STT
|
Chỉ số
|
Năm 2009
|
Năm 2010
|
Năm 2011
|
Năm 2012
|
Tổng NSNN hỗ trợ
từ
2009-2012
|
Số tiền
|
Tỷ lệ %
|
Số tiền
|
Tỷ lệ %
|
Số tiền
|
Tỷ lệ %
|
Số tiền
|
Tỷ lệ %
|
I
|
Ngân sách Nhà nước đóng
|
4.460.668
|
|
9.808.976
|
|
12.018.154
|
|
15.176.566
|
|
41.464.364
|
1
|
Cán bộ hưởng trợ cấp NSNN
|
9.057
|
0,20
|
14.303
|
0,15
|
15.540
|
0,13
|
20.112
|
0,13
|
59.012
|
2
|
Người có công với cách mạng
|
379.253
|
8,50
|
641.820
|
6,54
|
750.479
|
6,24
|
981.307
|
6,47
|
2.752.859
|
3
|
Cựu chiến binh
|
77.202
|
1,73
|
148.107
|
1,51
|
162.379
|
1,35
|
214.764
|
1,42
|
602.452
|
4
|
Người tham gia KC chống Mỹ
|
|
-
|
11.422
|
0,12
|
14.793
|
0,12
|
17.204
|
0,11
|
43.419
|
5
|
Đại biểu Quốc hội, HĐND
|
26.535
|
0,59
|
44.541
|
0,45
|
46.140
|
0,38
|
62.772
|
0,41
|
179.988
|
6
|
Người hưởng trợ cấp BTXH
|
161.428
|
3,62
|
301.733
|
3,08
|
606.993
|
5,05
|
810.679
|
5,34
|
1.880.833
|
7
|
Người nghèo, DTTS vùng ĐBKK
|
3.276.320
|
73,45
|
5.088.043
|
51,87
|
6.401.027
|
53,26
|
7.647.300
|
50,39
|
22.412.690
|
8
|
Thân nhân người có công
|
|
-
|
16.491
|
0,17
|
29.171
|
0,24
|
36.315
|
0,24
|
81.977
|
9
|
Thân nhân LLVT, cơ yếu
|
264.655
|
5,93
|
559,797
|
5,71
|
139.675
|
1,16
|
876.274
|
5,77
|
1.840.401
|
10
|
Trẻ em dưới 6 tuổi
|
253.747
|
5,69
|
2.979.720
|
30,38
|
3.849.458
|
32,03
|
4.506.633
|
29,69
|
11.589.558
|
11
|
Người đã hiến bộ phận cơ thể
|
|
-
|
|
-
|
|
-
|
2
|
0,00
|
2
|
12
|
Người lao động bị ốm đau dài ngày
|
|
-
|
22
|
0,00
|
14
|
0,00
|
42
|
0,00
|
78
|
13
|
Lưu học sinh
|
12.471
|
0,28
|
2.978
|
0,03
|
2.484
|
0,02
|
3.164
|
0,02
|
21.097
|
II
|
Đối tượng đóng, NSNN hỗ trợ
|
76.349
|
|
923.690
|
|
541.624
|
|
1.761.276
|
|
3.302.939
|
1
|
Người thuộc hộ cận nghèo
|
76.349
|
100,00
|
136.896
|
14,82
|
181.203
|
33,46
|
699.483
|
39,71
|
1.093.931
|
2
|
Học sinh, sinh viên
|
-
|
-
|
786.794
|
85,18
|
360.421
|
66,54
|
1.061.793
|
60,29
|
2.209.009
|
3
|
Hộ N-L-N-DN mức sống trung bình
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Tổng số (I + II)
|
4.537.017
|
|
10.732.666
|
|
12.559.778
|
|
16.937.842
|
|
44.767.303
|
III
|
Tổng thu bảo hiểm y tế toàn quốc
|
13.034.944
|
|
25.540.580
|
|
29.362.987
|
|
39.286.613
|
|
107.225.124
|
|
% Chi từ ngân sách/Tổng thu BHYT
|
35
|
|
42
|
|
43
|
|
43
|
|
42
|
PHỤ LỤC 7
CÂN ĐỐI THU, CHI QUỸ BHYT NĂM 2009-2012
Đơn vị: triệu đồng
STT
|
Chỉ tiêu
|
Năm 2009
|
Năm 2010
|
Năm 2011
|
Năm 2012
|
I
|
Số dư đầu năm
|
(655,484)
|
(3,083,010)
|
2,810,508
|
7,238,710
|
II
|
Điều chỉnh số dư quỹ năm trước
|
16,606
|
(1,556)
|
5,524
|
|
III
|
Tổng thu Quỹ BHYT (tỷ đồng)
|
13,037,255
|
25,580,817
|
29,987,009
|
40,237,000
|
1
|
Thu của các đối tượng do tỉnh thực hiện
|
13,034,945
|
21,630,339
|
25,946,365
|
9,337,000
|
2
|
BHXH VN ghi thu
|
|
2,235,264
|
2,753,973
|
900,000
|
3
|
Thu từ NSNN
|
|
129,019
|
668,107
|
|
4
|
Thu từ lãi đầu tư tài chính
|
|
12,491
|
585,746
|
|
5
|
Thu khác
|
2,310
|
1,573,704
|
32,818
|
|
IV
|
Tổng chi
|
15,481,387
|
19,685,743
|
25,564,331
|
34,584,000
|
1
|
Chi KCB BHYT: trong đó
|
15,481,387
|
19,080,604
|
24,712,071
|
33,419,000
|
|
- Chi KCB trong quỹ của tỉnh
|
|
18,692,119
|
23,647,662
|
|
|
- Chi KCB vượt quỹ của tỉnh
|
|
388,485
|
1,064,409
|
|
|
- Chi KCB nội trú
|
|
|
|
|
|
- Chi KCB ngoại trú
|
|
|
|
|
2
|
Chi phí quản lý
|
|
605,139
|
852,260
|
1,165,000
|
3
|
Chi khác
|
|
|
|
|
V
|
Cân đối trong năm (III-IV)
|
(2,444,132)
|
5,895,074
|
4,422,678
|
5,653,000
|
VI
|
Lũy kế (I+II+III-IV)
|
(3,083,010)
|
2,810,508
|
7,238,710
|
12,891,710
|
PHỤ LỤC 8
CHI PHÍ KCB BHYT THEO TUYẾN NĂM 2009-2012
Đơn vị tính: nghìn
đồng
Chỉ số
|
Năm 2009
|
Năm 2010
|
Năm 2011
|
Năm 2012 (ước)
|
Số lượt KCB
|
Chi phí
|
Số lượt KCB
|
Chi phí
|
Số lượt KCB
|
Chi phí
|
Số lượt KCB
|
Chi phí
|
1. Tổng KCB BHYT
chung
|
92.100.006
|
15.396.404.031
|
102.171.602
|
18.602.196.605
|
114.434.983
|
24.592.930.340
|
121.302.546
|
32.283.834.000
|
- Tuyến TW hoặc đa
tuyến
|
3.527.361
|
3.697.706.747
|
3.453.523
|
4.009.139.653
|
3.938.546
|
5.184.610.284
|
4.146.931
|
6.889.930.452
|
- Tuyến tỉnh và
tương đương
|
21.455.370
|
7.035.244.836
|
23.678.553
|
8.440.936.681
|
27.823.490
|
11.550.775.213
|
27.761.155
|
15.261.212.326
|
- Tuyến huyện và
tương đương
|
41.956.706
|
3.956.173.605
|
43.225.100
|
5.113.812.281
|
48.827.595
|
6.641.629.322
|
52.890.403
|
8.593.075.661
|
- Tuyến xã
|
25.160.569
|
707.278.843
|
31.814.427
|
1.038.307.989
|
33.845.352
|
1.215.915.521
|
36.504.057
|
1.539.615.562
|
KCB BHYT nội trú
|
6.335.511
|
8.113.156.656
|
8.419.862
|
9.681.515.748
|
8.896.171
|
12.759.007.236
|
10.198.706
|
17.313.657.000
|
- Tuyến TW
|
648.887
|
2.498.648.555
|
673.443
|
2.712.431.483
|
778.032
|
3.602.742.327
|
914.184
|
4.888.832.161
|
- Tuyến tỉnh và
tương đương
|
2.766.257
|
4.165.496.544
|
3.747.098
|
5.137.827.853
|
4.221.467
|
7.060.393.102
|
4.679.998
|
9.580.778.676
|
- Tuyến huyện và
tương đương
|
2.853.588
|
1.429.762.042
|
3.837.280
|
1.816.567.099
|
3.795.601
|
2.080.045.502
|
4.473.454
|
2.822.570.259
|
- Tuyến xã
|
66.779
|
19.249.515
|
162.042
|
14.689.313
|
101.071
|
15.826.305
|
131.070
|
21.475.904
|
KCB BHYT ngoại
trú
|
85.764.495
|
7.283.247.375
|
93.751.740
|
8.920.680.856
|
105.538.812
|
11.833.923.104
|
111.103.840
|
14.970.177.000
|
- Tuyến TW
|
2.878.474
|
1.199.058.192
|
2.780.080
|
1.296.708.170
|
3.160.514
|
1.581.867.957
|
3.232.747
|
2.001.098.291
|
- Tuyến tỉnh và
tương đương
|
18.689.113
|
2.869.748.292
|
19.931.455
|
3.303.108.828
|
23.602.022
|
4.490.382.111
|
23.081.157
|
5.680.433.650
|
- Tuyến huyện và
tương đương
|
39.103.118
|
2.526.411.563
|
39.387.820
|
3.297.245.182
|
45.031.995
|
4.561.583.821
|
48.416.949
|
5.770.505.402
|
- Tuyến xã
|
25.093.790
|
688.029.328
|
31.652.385
|
1.023.618.676
|
33.744.281
|
1.200.089.215
|
36.372.987
|
1.518.139.658
|
2. Bình quân số
lượt KCB/thẻ BHYT
|
1,84
|
|
1,95
|
|
2,00
|
|
2,05
|
|
- Lần KCB nội trú
|
0,13
|
|
0,16
|
|
0,16
|
|
0,17
|
|
- Lần KCB ngoại trú
|
1,71
|
|
1,79
|
|
1,85
|
|
1,87
|
|
PHỤ LỤC SỐ 9
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI QUỐC HỘI VỀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT
BẢO HIỂM Y TẾ
Quốc hội cần quan tâm một số vấn đề khi xem xét sửa
đổi một số điều của Luật BHYT như sau:
1. Một số vấn đề chung
- Xây dựng cơ chế để khuyến khích tham gia BHYT
theo hộ gia đình.
- Quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, ngành, chính
quyền địa phương đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật về BHYT.
- Phân cấp việc quản lý quỹ BHYT cho tỉnh mạnh mẽ
hơn để nâng cao sự chủ động của địa phương trong việc tăng tỷ lệ người dân tham
gia BHYT, quản lý, sử dụng quỹ BHYT có hiệu quả, phục vụ quyền lợi người dân tốt
hơn.
- Quy định cơ chế thống nhất giá dịch vụ y tế đối với
bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc; quy định cụ thể về đấu thầu thuốc, vật tư y
tế phục vụ KCB theo BHYT.
- Bổ sung cơ chế kiểm soát lạm dụng dịch vụ y tế, đất
công tác giám định BHYT đúng tầm, quy định cụ thể gói quyền lợi BHYT cơ bản mà
người tham gia BHYT được hưởng.
- Điều chỉnh chính sách cùng chi trả với một số
nhóm đối tượng (thân nhân liệt sĩ, đối tượng thuộc diện bảo trợ xã hội); quy định
mức cùng chi trả tối đa đối với người tham gia BHYT.
- Nghiên cứu, sửa đổi quy định về thẻ BHYT có ảnh
cho phù hợp.
2. Một số vấn đề cụ thể
a) Về đối tượng tham gia BHYT:
- Thu hẹp và sắp xếp hợp lý các nhóm đối tượng tham
gia BHYT.
- Nghiên cứu, bổ sung chính sách hỗ trợ đối với đối
tượng là người dân tộc kinh sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn, đặc biệt khó khăn, biên giới liên tục suốt từ những năm 60 tới nay.
b) Về mua thẻ BHYT và quản lý, sử dụng quỹ BHYT:
- Nghiên cứu, bổ sung nguồn mua BHYT cho người từ
80 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp tuất hằng tháng, cơ chế quy định nguồn nộp
tiền mua BHYT cho phụ nữ trong thời gian nghỉ thai sản.
- Xem xét bổ sung cơ chế để mọi người hảo tâm có thể
mua thẻ BHYT từ các đại lý BHYT, từ tổ chức BHYT nơi gần nhất để tặng cho người
thân, bạn bè, người thuộc nhóm yếu thế, người có hoàn cảnh khó khăn ớ các địa
phương khác nhau trong cả nước.
- Bổ sung quy định cụ thể thứ tự ưu tiên trong việc
phân bổ, sử dụng phần kết dư quỹ BHYT, đối với tỉnh có kết dư thì tỉnh được ưu
tiên sử dụng một phần kết dư (bất kể là quỹ dự phòng trung ương kết dư hay bội
chi); đồng thời, bổ sung quy định đối với tỉnh bị bội chi thì tỉnh phải sử dụng
ngân sách địa phương để bù lại cho một phần trong số bội chi quỹ BHYT.
- Bổ sung quy định cụ thể tỷ lệ về trích nộp quỹ dự
phòng tại trung ương, lập quỹ dự phòng ở địa phương, hội đồng quản lý quỹ tại tỉnh/thành
phố.
- Sửa đổi quy định về thanh quyết toán và tạm ứng,
không nên lấy căn cứ là chi phí được quyết toán quý trước vì trên thực tế việc
thanh quyết toán của quý trước thường chậm.
- Sửa đổi quy định về thời hạn thực hiện quyết toán
quý theo hướng giảm từ 75 ngày tới mức thấp nhất có thể để tạo điều kiện thuận
lợi cho cả cơ sở KCB BHYT và cơ quan BHXH.
- Quy định cụ thể về hợp đồng KCB giữa cơ quan BHXH
và bệnh viện.
- Nghiên cứu, xem xét để quy định theo hướng thanh
toán quỹ BHYT đối với tất cả các trường hợp tham gia BHYT bị tai nạn giao thông
hoặc không thanh toán đối với những trường hợp này.
c) Về cung ứng dịch vụ y tế:
- Quy định rõ thời gian được sử dụng giấy khai
sinh, chứng sinh để đi KCB đối với trẻ em dưới 6 tuổi.
- Bổ sung cơ chế để không phân biệt KCB BHYT ban đầu
ở tuyến xã và tuyến huyện, KCB BHYT ở bệnh viện đồng hạng hoặc ở cơ sở KCB ở
tuyến dưới so với tuyến đăng ký KCB BHYT ban đầu không coi là trái tuyến, vượt
tuyến; KCB ở các vùng giáp ranh giữa các tỉnh, huyện.
- Điều chỉnh quyền lợi được hưởng của người tham
gia BHYT đối với một số dịch vụ y tế kỹ thuật cao và thuốc đắt tiền trên cơ sở
số năm tham gia BHYT và phù hợp với mệnh giá thẻ BHYT.
- Quy định cụ thể, chi tiết hơn, công khai, minh bạch
về cung ứng dịch vụ KCB BHYT.
d) Quản lý nhà nước về BHYT:
- Cần bổ sung quy định gắn trách nhiệm của Ủy ban
nhân dân tỉnh/thành phố với vấn đề bội chi, kết dư quỹ BHYT tại địa phương.
- Bổ sung quy định trách nhiệm của Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trong việc triển khai BHYT đối với
các nhóm đối tượng do bộ quản lý.
- Cần quy định rõ trách nhiệm của UBND cấp xã trong
việc lập danh sách, xác nhận đối tượng tham gia BHYT của hộ gia đình trên địa
bàn.
3. Vấn đề liên quan với quy định của Bộ Luật lao động
(sửa đổi)
Luật BHYT quy định quỹ BHYT không thanh toán chi
phí KCB do “tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp” (Điều 23), trong khi Bộ Luật
lao động (sửa đổi năm 2012) lại quy định người sử dụng lao động chỉ thanh toán
phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do BHYT chi
trả đối với người lao động tham gia BHYT (Điều 144). Vì vậy, khi sửa đổi Luật
BHYT cần quan tâm xem xét để bãi bỏ quy định quỹ BHYT không thanh toán chi phí
khám chữa bệnh do “tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp” cho phù hợp với Bộ Luật
lao động (sửa đổi).
1 Theo Nghị quyết
số 34/2012/QH13 ngày 15/11/2012 của Quốc hội.
2 Đoàn giám sát của
Ủy ban thường vụ Quốc hội gồm 18 ĐBQH, đại diện Bộ Y tế, Bảo hiểm xã hội Việt
Nam, Bộ Tài chính và một số chuyên gia.
3 Theo Nghị quyết
số 551/NQ-UBTVQH13 ngày 26/12/2012.
4 Đoàn đã thực hiện
giám sát tại T/p Hồ Chí Minh, Hà Nội, tỉnh Điện Biên, Kiên Giang, Nam Định, Nghệ
An, Bình Dương, Đắk Lắk, Ninh Thuận.
5 Tính đến ngày
25/9/2013, đã nhận được báo cáo kết quả giám sát của 63/63 tỉnh/thành phố.
6 Nghị quyết
46-NQ/TW, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X và XI của Đảng, Chỉ
thị số 38-CT/TW của Ban Bí thư...
7 So với ngày Luật
BHYT có hiệu lực, Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2009/NĐ-CP và Nghị định số
92/2011/NĐ-CP chậm từ 1-28 tháng; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
04/2011/QĐ-TTg chậm 18 tháng; Bộ Y tế và các bộ, ngành liên quan ban hành các
thông tư chậm từ 2-39 tháng.
8 Bộ Y tế đang soạn
thảo văn bản hướng dẫn vấn đề này, còn cân nhắc vì khả năng chi trả của quỹ
BHYT.
9 Thông tư liên tịch
số 39/2011/TTLT-BYT-BTC hướng dẫn thủ tục thanh toán tai nạn giao thông rất phức
tạp, quy định người tham gia BHYT bị tai nạn giao thông, trong khi chưa xác định
người đó có vi phạm pháp luật về giao thông hay không, khi đi KCB được hưởng
BHYT theo quy định; khi xác định người bị tai nạn giao thông là do vi phạm pháp
luật về giao thông thì người đó có trách nhiệm phải hoàn trả đầy đủ các chi phí
KCB cho quỹ BHYT.
10 Luật Khám bệnh,
chữa bệnh chỉ giao cho Bộ Y tế phân hạng bệnh viện của Nhà nước.
11 Cũng chính vì
sự chậm trễ này dẫn đến việc BHXH Việt Nam ban hành văn bản hướng dẫn tạm thời
xếp bệnh viện tư nhân thuộc nhóm bệnh viện hạng 2, nhưng lại có một số ý kiến
chưa đồng thuận. Ngoài ra cũng có ý kiến chưa đồng tình về một vài văn bản do
BHXH Việt Nam ban hành như: Văn bản số 245/BHXH-CSYT, Văn bản số
1513/BHXH-CSYT, Quyết định số 82/QĐ-BHXH, Văn bản số 3637/BHXH-CSYT (phụ lục
số 4).
12 Năm 2012, tỷ lệ
ngân sách nhà nước (NSNN) hỗ trợ đối tượng mua BHYT trong tổng thu BHYT ở Lạng
Sơn chiếm 90%, Sơn La là 88%, Điện Biên là 79%, Lào Cai là 73%, Đắk Nông là
86%... trong khi đó tỷ lệ này ở các tỉnh vùng đồng bằng và đô thị chỉ từ
20-30%.
13 T/p Hồ Chí
Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Thái Nguyên, Hà Giang, Đà Nẵng, Ninh Thuận,
Quảng Ngãi, Lâm Đồng, Long An ...
14 Bình quân trên
cả nước số người nghèo, dân tộc thiểu số chiếm khoảng 24% tổng số người có thẻ
BHYT, tại các tỉnh miền núi tỷ lệ này chiếm khoảng 65-75%.
15 Năm 2012,
Paraguay thu nhập bình quân/người/năm (ppp) là 5.050 US$, có 17% dân số tham
gia BHYT; Ấn Độ thu nhập bình quân là 3.550, có 11% dân số tham gia BHYT;
Indonesia thu nhập bình quân 4.200, có 63% dân số tham gia BHYT; Albania thu nhập
bình quân 8.740 US$, có 40% dân số tham gia BHYT...
16 Bệnh nhân do
Quỹ BHYT chi trả tiền giường chi 30-100 ngàn đồng/ngày, nhưng phòng dịch vụ có
loại 1 triệu đồng/ngày; hoặc khám bệnh theo BHYT với giá 5-30 ngàn đồng/lần,
nhưng ngay phòng bên khám dịch vụ với giá 600 ngàn đồng /lần.
17 Một nghiên cứu
xã hội cho biết, hơn 50% số người hưởng lương hiện nay đang tham gia BHYT bắt
buộc sẽ không tham gia BHYT nếu pháp luật quy định tham gia BHYT là tự nguyện.
18 Bệnh viện đa
khoa tỉnh Phú Thọ xây dựng tòa nhà riêng (trong khuôn viên bệnh viện) gồm 200
giường phục vụ điều trị theo yêu cầu, với đội ngũ cán bộ chuyên môn y tế riêng
biệt, khi cần hỗ trợ từ bệnh viện đa khoa tỉnh thì thanh toán chi phí theo số
giờ phục vụ, trình độ cán bộ và bảo đảm công khai minh bạch. Phần tăng thu từ
khu dịch vụ đã góp phần hỗ trợ chế độ cán bộ y tế và điều kiện kỹ thuật chung
cho cả bệnh viện.
19 Một nghiên cứu
xã hội cho biết, hơn 50% số người hưởng lương hiện nay đang tham gia BHYT bắt
buộc sẽ không tham gia BHYT nếu pháp luật quy định tham gia BHYT là tự nguyên.
20 Khoản 2, Điều
17 của Luật BHYT quy định về hồ sơ cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi phải có
bản sao giấy chứng sinh/khai sinh, hoặc xác nhận của UBND cấp xã nơi bố mẹ cư
trú; phải có danh sách của UBND cấp xã đề nghị cấp thẻ BHYT; trong vòng 10 ngày
làm việc phải cấp thẻ BHYT cho các cháu.
21 NSNN hỗ trợ
100% mức đóng BHYT cho người có công với cách mạng, thân nhân người có công với
cách mạng, cựu chiến binh, người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, người dân tộc thiểu
số sống ở vùng đặc biệt khó khăn, người hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội...; hỗ trợ
70% mức đóng BHYT cho người thuộc hộ cận nghèo, 30% cho HSSV.
22 Theo Chiến lược
biển đảo và Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP.
23 Năm 2012, NSNN
phân bổ cho chi sự nghiệp y tế là 51.000 tỷ đồng.
24 NSNN chi thường
xuyên cho các bệnh viện trong cả nước năm 2010 là 11.400 tỷ đồng chiếm 25,6% tổng
chi cho y tế, năm 2011 là 16.201 tỷ đồng chiếm 29,6% tổng chi cho y tế.
25 Nhà nước vẫn
tiếp tục tăng chi cho y tế và chi cho đầu tư phát triển đối với các bệnh viện
công.
26 Doanh nghiệp
nhà nước, DN có vốn đầu tư nước ngoài, DN ngoài quốc doanh, DN thuộc lực lượng
vũ trang; Khối HCSN, đảng, đoàn thể; Khối xã, phường, thị trấn...; Đối tượng tự
đóng: Thân nhân người lao động; Hộ làm nông-lâm-ngư nghiệp; Hộ KD cá thể.
27 Hưu trí, trợ cấp
mất sức lao động, trợ cấp TNLĐ, bệnh nghề nghiệp, thôi hưởng trợ cấp mất sức
lao động, cán bộ xã, phường hưởng trợ cấp BHXH và người đang hưởng trợ cấp thất
nghiệp.
28 Riêng Hà Nội
có gần 10.700 cụ trên 80 tuổi đang hưởng trợ cấp tuất và không được cấp BHYT.
29 Chưa đồng bộ
giữa Luật BHYT với Bộ Luật lao động và với Luật người cao tuổi.
30 Thông tư liên
tịch 09 không quy định gì về thanh toán vượt trần, kể cả do nguyên nhân khách
quan nên đến nay vẫn chưa thanh toán vượt trần tuyến 2 của năm 2012; năm 2011,
có 50 địa phương bị vượt trần tuyến 2 với số tiền gần 639 tỷ đồng đến quý 2 năm
2013 mới được thanh toán về cơ bản, một số địa phương báo cáo vẫn chưa thanh
toán vượt trần tuyến 2 của năm 2011.
31 Điều 29 của Luật
BHYT quy định tổ chức BHYT thực hiện giám định thủ tục KCB BHYT; kiểm tra, đánh
giá chỉ định điều trị, sử dụng thuốc, hóa chất, vật tư, thiết bị y tế, dịch vụ
kỹ thuật y tế cho người bệnh; kiểm tra, xác định chi phí KCB BHYT.
32 Thành phố Hồ
Chí Minh, Hà Nội, Phú Thọ, Thái Bình, Thái Nguyên, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Đà
Nẵng, Đắk Lắk, Kiên Giang.
33 Bệnh viện Chợ
Rẫy, Bệnh viện nhân dân Gia Định đã thực hiện kiểm soát việc lạm dụng thuốc,
xét nghiệm thông qua việc bình các đơn thuốc bất thường trong giao ban hàng
ngày của bệnh viện...
34 Bệnh viện đa
khoa tỉnh Kiên Giang, sau một năm triển khai đã khắc phục khoảng 50% số sai sót
mà trước đó không thể khắc phục được.
35 Các tỉnh liên
tục bội chi quỹ BHYT trong 3 năm (2010-2012) là Kiên Giang, An Giang, Đồng
Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ; một số tỉnh bội chi trong 2 năm (2011-2012) là Nam Định,
Ninh Bình, Cà Mau, Hậu Giang.
36 Luật BHYT quy
định về sử dụng quỹ BHYT (Điều 35); Nghị định số 62/2009/NĐ-CP có quy định về
quỹ BHYT (Điều 11); Thông tư liên tịch số 09/2009/TTLT-BYT-BTC có quy định 60%
phần kinh phí kết dư hàng năm được sử dụng tại địa phương. Chậm nhất đến ngày
30/6 năm sau, nếu không sử dụng hết thì chuyển vào quỹ KCB BHYT của tỉnh năm
sau.
37 Nhà nước khuyến
khích đầu tư phát triển công nghệ và phương tiện kỹ thuật tiên tiến trong quản
lý BHYT.
38 Khoản 10 Điều
41 của Luật BHYT giao BHXH Việt Nam có trách nhiệm ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý BHYT, xây dựng hệ cơ sở dữ liệu quốc gia về BHYT.
39 Khoản 5 Điều
16 của Luật BHYT giao Tổ chức BHYT quy định mẫu thẻ BHYT, quản lý thẻ BHYT thống
nhất trong cả nước và chậm nhất đến ngày 01/01/2014 phải tổ chức thực hiện việc
phát hành thẻ BHYT có ảnh của người tham gia BHYT.
40 Người có công
với cách mạng, thân nhân người có công, người hoạt động kháng chiến, trẻ em dưới
6 tuổi, người nghèo, cận nghèo, người hưởng bảo trợ xã hội, thân nhân quân đội,
thân nhân công an, HSSV...
41 Tỉnh Phú Thọ,
từ chỗ bội quỹ BHYT gần 100 tỷ đồng (2010), đến nay đã cân bằng và kết dư
(2012).
42 Điều 26 của Luật
BHYT quy định người tham gia BHYT có quyền đăng ký KCB BHYT ban đầu tại cơ sở
KCB tuyến xã, tuyến huyện hoặc tương đương; trừ trường hợp được đăng ký tại cơ
sở KCB tuyến tỉnh hoặc tuyến trung ương theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế.
43 Luật BHYT quy
định về chuyển tuyến KCB BHYT (Điều 27, Điều 28); Nghị định số 62/2009/NĐ-CP có
quy định về thanh toán đối với KCB trái tuyến, vượt tuyến (Điều 7); Thông tư số
10/2009/TT-BYT hướng dẫn đăng ký khám chữa bệnh BHYT ban đầu và chuyển tuyến
khám chữa bệnh BHYT.
44 Bao gồm đầu tư
trái phiếu Chính phủ cho y tế, bệnh viện vệ tinh, bác sỹ gia đình...
45 Quyết định số
92/QĐ-TTg ngày 09/1/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án giảm quá tải bệnh
viện giai đoạn 2013-2020; Quyết định số 14/2013/QĐ-TTg ngày 20/2/2013 về việc
thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở
KCB...
46 Bình quân năm
2012, quỹ BHYT chi trả khoảng 24.000 tỷ đồng tiền thuốc.
47 Bắc Ninh khoảng
85% mức giá tối đa; Sóc Trăng, Đồng Tháp, Cao Bằng, Khánh Hòa, Nghệ An: khoảng
80%; Quảng Ninh: 82%; Quảng Nam: 78%; Ninh Thuận 81%; Bình Định trên 60%; Bắc
Giang 65-71%; Thái Nguyên 62-70%; Hà Nam khoảng 63%; Đắk Lắk 66%...
48 Bộ Y tế chủ
trì và Bộ Tài chính chưa có văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện Quyết định này
theo quy định tại khoản 3 Điều 3 của Quyết định này.
49 Hà Nội, Ninh
Thuận, Đắk Lắk từ 28.000-30.000 đồng/lần. Bình quân cả nước, tỷ lệ chi KCB ở
tuyến xã trong tổng chi KCB BHYT là 4,8%, song ở Hải Dương là 6,7%, Lâm Đồng
10,5%, Kon Tum 28,2%, Lai Châu 47,3%, Vĩnh Long 11,1%, Lào Cai 13%, Điện Biên
21,5%, Nam Định 37%, ở một số tỉnh, tỷ lệ này chi 1-2% như Vĩnh Phúc 2,1%,
Thanh Hóa 2,9% có nơi là 0% như tại T/p Hồ Chí Minh do chưa triển khai KCB theo
BHYT tại tuyến xã.
50 Điều 88 của Luật
KCB quy định: Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh
đối với cơ sở KCB của Nhà nước thuộc phạm vi quản lý của địa phương theo đề nghị
của Ủy ban nhân dân cùng cấp.
51 Theo báo cáo,
quyền lợi của bệnh nhân BHYT khi đi khám nếu tại y tế xã bình quân là 1 thì tại
bệnh viện huyện là 3, tỉnh là 6 và bệnh viện tuyến trung ương là 15.
52 Bệnh viện đa
khoa quận Ngô Quyền, Hải Phòng chi tới 70% quỹ cho KCB BHYT trái tuyến, vượt
tuyến; tỷ lệ này ở bệnh viện huyện Bình Thủy, Cần Thơ là 76%...
53 Những hạn chế
cần sửa của Thông tư 01 của liên bộ hướng dẫn đấu thầu: Thêm các tiêu chuẩn kỹ
thuật, đặc biệt tiêu chuẩn xuất xứ nguyên liệu thuốc, mở thêm danh mục 1 số thuốc
biệt dược.
54 Một nghiên cứu
của Bộ Y tế cho biết, 40-50% bệnh nhân ở một số bệnh viện tuyến trung ương là bệnh
có thể điều trị ở tuyến huyện và tỉnh.
55 Luật BHYT giao
Bộ Y tế thực hiện QLNN về BHYT; các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình phối hợp với Bộ Y tế QLNN về BHYT; UBND các cấp thực hiện
QLNN về BHYT tại địa phương.
56 Luật BHYT, cuốn
sách 100 câu hỏi và giải đáp CSPL về BHYT, tờ rơi, áp phích hướng dẫn những điều
cần biết khi đi KCB BHYT.
57 Hà Nội, Hải
Phòng, An Giang, Đà Nẵng, Đắk Lắk, Lâm Đồng, Bình Dương, Bình Phước, Kiên
Giang...
58 Hà Nội, Điện
Biên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Bắc Giang, Hà Nam, Nghệ An, Đắc Nông, Đồng Nai...
59 Vụ án tại Bình
Dương (thuê thẻ BHYT của công nhân, thuê bệnh nhân mạn tính đi khám bệnh để lấy
thuốc đắt tiền đem bán giá trị trên 80 triệu đồng) đã bị xử tù.
60 Phòng Y tế,
Trung tâm y tế, Bệnh viện đa khoa, Trung tâm DS-KHHGĐ huyện.
61 Chuyển tuyến
hành chính: Là thứ tự xã lên bệnh viện huyện, tỉnh, trung ương, chuyển tuyến kỹ
thuật là tùy bệnh, nếu bệnh nặng có thể chuyển trực tiếp từ xã lên tỉnh, hay từ
huyện lên tuyến trung ương.
1 Khi giám sát tại
mỗi địa phương đều có đại diện Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh/thành phố tham gia
đoàn.
1 Trong thực tế bệnh
viện tư nhân có thể đạt hoặc không đạt tiêu chuẩn bệnh viện hạng II.
2 Điều 26 của Luật
BHYT quy định người tham gia BHYT có quyền đăng ký KCB BHYT ban đầu tại cơ sở
KCB tuyến xã, tuyến huyện hoặc tương đương; trừ trường hợp được đăng ký tại cơ
sở KCB tuyến tỉnh hoặc tuyến trung ương theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế.
Báo cáo 525/BC-UBTVQH13 năm 2013 kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế giai đoạn 2009-2012 do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Báo cáo 525/BC-UBTVQH13 ngày 14/10/2013 kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế giai đoạn 2009-2012 do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
12.676
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng
Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|