Hiện nay, việc kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại nơi làm việc được quy định như thế nào? Việc kiểm soát này gồm những nội dung gì? – Ánh Như (Hà Nội).
>> Công ty phải tổ chức khám sức khỏe định kỳ năm 2024 cho người lao động
>> Trách nhiệm của doanh nghiệp về bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc 2024
Theo khoản 4, 5 Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015, yếu tố nguy hiểm là yếu tố gây mất an toàn, làm tổn thương hoặc gây tử vong cho con người trong quá trình lao động; yếu tố có hại tại nơi làm việc là yếu tố gây bệnh tật, làm suy giảm sức khỏe con người trong quá trình lao động.
Căn cứ Điều 18 Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015, việc kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại nơi làm việc được quy định như sau:
- Người sử dụng lao động phải tổ chức đánh giá, kiểm soát yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại nơi làm việc để đề ra các biện pháp kỹ thuật an toàn, vệ sinh lao động, chăm sóc sức khỏe cho người lao động; thực hiện các biện pháp khử độc, khử trùng cho người lao động làm việc ở nơi có yếu tố gây nhiễm độc, nhiễm trùng.
- Đối với yếu tố có hại được Bộ trưởng Bộ Y tế quy định giới hạn tiếp xúc cho phép để kiểm soát tác hại đối với sức khỏe người lao động thì người sử dụng lao động phải tổ chức quan trắc môi trường lao động để đánh giá yếu tố có hại ít nhất một lần trong một năm. Đơn vị tổ chức quan trắc môi trường lao động phải có đủ điều kiện về cơ sở, vật chất, trang thiết bị và nhân lực.
Toàn văn File word Bộ luật Lao động 2019 và các văn bản hướng dẫn (cập nhật ngày 22/12/2023) |
Quy định về kiểm soát các yếu tố có hại tại nơi làm việc năm 2024 (Ảnh minh họa –Nguồn từ Internet)
- Đối với yếu tố nguy hiểm thì người sử dụng lao động phải thường xuyên kiểm soát, quản lý đúng yêu cầu kỹ thuật nhằm bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại nơi làm việc và ít nhất một lần trong một năm phải tổ chức kiểm tra, đánh giá yếu tố này theo quy định của pháp luật.
- Ngay sau khi có kết quả quan trắc môi trường lao động để đánh giá yếu tố có hại và kết quả kiểm tra, đánh giá, quản lý yếu tố nguy hiểm tại nơi làm việc, người sử dụng lao động phải:
+ Thông báo công khai cho người lao động tại nơi quan trắc môi trường lao động và nơi được kiểm tra, đánh giá, quản lý yếu tố nguy hiểm.
+ Cung cấp thông tin khi tổ chức công đoàn, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền yêu cầu.
+ Có biện pháp khắc phục, kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại nơi làm việc nhằm bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động, chăm sóc sức khỏe cho người lao động.
- Chính phủ quy định chi tiết về việc kiểm soát yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại nơi làm việc và điều kiện hoạt động của tổ chức quan trắc môi trường lao động bảo đảm phù hợp với Luật Đầu tư 2020 và Luật Doanh nghiệp 2020.
Căn cứ Điều 4 Nghị định 39/2016/NĐ-CP, việc kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại nơi làm việc có những nội dung sau đây:
- Nhận diện và đánh giá các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại.
- Xác định mục tiêu và các biện pháp phòng, chống các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại.
- Triển khai và đánh giá hiệu quả các biện pháp phòng, chống các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại.
Căn cứ Điều 3 Nghị định 39/2016/NĐ-CP, việc kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại nơi làm việc của người sử dụng lao động phải bảo đảm các nguyên tắc sau:
- Thường xuyên theo dõi, giám sát các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại nơi làm việc.
- Phải có người hoặc bộ phận được phân công chịu trách nhiệm về kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại nơi làm việc; đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, phải quy định việc kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại đến từng tổ, đội, phân xưởng.
- Lưu hồ sơ về kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại phù hợp quy định Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015, các Điều 4, 5, 6 và 7 Nghị định 39/2016/NĐ-CP và quy định pháp luật chuyên ngành.
- Công khai kết quả kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại cho người lao động được biết.
- Có quy trình kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại nơi làm phù hợp với Điều 18 Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015, các Điều 4, 5, 6 và 7 Nghị định 39/2016/NĐ-CP và quy định pháp luật chuyên ngành.