phạt bổ sung đó được quy định là bắt buộc trong chế tài của điều luật như hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với tội phạm về tham nhũng; đối với một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là người tiến hành tố tụng.
Luật quy định người phạm tội chỉ được miễn hình phạt khi có đủ các điều kiện như sau:
+ Có
Trong khoa học pháp lý và thực tiễn việc phân biệt sự khác nhau giữa miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng.
Chế định miễn trách nhiệm hình sự là hủy bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm khi có các căn cứ do pháp luật hình sự quy định, tức là các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền của
xem xét với hành vi phạm tội khá nhau hoặc với người phạm tội khác nhau. Ví dụ trong thời gian chấp hành hình phạt tù mà phạm tội do cố ý, mức độ tăng nặng hơn phạm tội do vô ý.
Mỗi tình tiết chỉ có ý nghĩa áp dụng đối với một hoặc một số hành vi phạm tội; hoặc đối với một số người phạm tội chứ không thể áp dụng đối với tất cả các tội phạm hoặc
loại hình phạt đã tuyên” (Điều 41).
Thấy rõ sự bất hợp lý của quy định trên, nên ngày 28-12-1989 Quốc hội nước ta đã sửa đổi, bổ sung Điều 41 Bộ luật hình sự theo hướng “hình phạt chung không được vượt mức cao nhất của loại hình phạt đã tuyên”
Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn quy định hình phạt tù có thời hạn là 20 năm, nhưng đối với người
cúm, dịch sốt rét …
Người phạm tội lợi dụng dịch bệnh để phạm tội chủ yếu đối với các tội phạm trật tự quản lý kinh tế, các tội phạm về môi trường, cá biệt cũng có trường hợp người phạm tội lợi dụng dịch bệnh để xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác như tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 117), tội cố ý truyền HIV cho người khác
khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự với tình tiết “giết nhiều người”. Khi áp dụng khoản 1 Điều 93 để xử phạt bị cáo với tình tiết “giết nhiều người” trong trường hợp có hai người chết thì không coi là phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng nữa vì lúc này 2 người chết là hậu quả cần và đủ của khoản 1 Điều 93. Từ đó chúng ta thấy hậu quả nghiêm trọng ở mỗi cấu
Phạm tội đối với người già là trường hợp người phạm tội xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và các quyền khác của người già.
Việc nhà làm luật quy định phạm tội đối với người già là một tình tiết tăng nặng là xuất phát từ chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta là bảo vệ, chăm sóc người già, vừa là chuẩn mực đạo
, không chỉ xuất phát từ quan điểm bảo vệ trẻ em là bảo vệ tương lai đất nước, bảo vệ lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn bảo vệ những người không có khả năng tự vệ.
Tình tiết “phạm tội đối với trẻ em” không chỉ là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà trong nhiều trường hợp nó là yếu tố định tội hoặc khung hình phạt
Phạm tội nhiều lần là phạm tội từ hai lần trở lên như hai lần trộm cắp, hai lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ba lần chứa mãi dâm, bốn lần tham ô … và mỗi lần thực hiện hành vi đã cấu thành một tội phạm độc lập nhưng tất cả các tội phạm đó đều bị xét xử trong cùng một bản án.
Phạm tội nhiều lần là người phạm tội có nhiều lần thực hiện hành vi
tính chất chuyên nghiệp và phạm tội nhiều lần đều giống nhau ở điểm, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần ( từ hai lần trở lên ), nhưng khác nhau ở chỗ: phạm tội nhiều lần thì người phạm tội không lấy việc phạm tội làm phương tiện sống và họ chỉ phạm một tội, nhưng tội phạm đó được thực hiện nhiều lần.
Hiện nay cũng có quan điểm
Trước tiên công ty Vinabiz cảm ơn ban đã gửi câu hỏi đến cho chúng tôi. Vấn đề của em trai bạn sẽ được giải quyết như sau:
Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 (Luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về tội cố ý gây thương tích:
“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ
o mâu thuẫn từ trước và vì say rượu không làm chủ được hành vi của mình, anh tôi đã cầm dao chém một người, khiến người này bị thương nặng phải vào viện. Anh tôi đã bị khởi tố. Anh tôi và gia đình phải làm gì để anh tôi được giảm nhẹ tội?
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm k khoản 2 Điều 193, điểm p khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự, chỉ khác ở chỗ người phạm tội tái phạm nguy hiểm trong trường hợp này là người đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại tàng trữ, vận chuyển
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự trường hợp quy định tại điểm k khoản 2 Điều 193 Bộ luật hình sựquy định về tội sản xuất trái phép chất ma túy, chỉ khác nhau ở chỗ người phạm tội tái phạm nguy hiểm trong trường hợp này là người đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại tàng trữ, vận
tình tiết tái phạm nguy hiểm là yếu tố định khung hình phạt là cần thiết, vì nếu người phạm tội có nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt thì mức hình phạt cụ thể phải cao hơn người phạm tội có ít tình tiết là yếu tố định khung hình phạt.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 193 thì người phạm tội bị phạt tù từ bảy năm đến
Trường hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại khoản 2 Điều 49 và bất kỳ trường hợp tái phạm nguy hiểm nào được quy định trong bộ luật hình sự . Các dấu hiệu về tái phạm nguy hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 49. Tuy nhiên, phạm tội cưỡng đoạt tài sản trong trường hợp tái phạm nguy hiểm khi
Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm (điểm d khoản 2 Điều 114)
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội cưỡng dâm quy định tại điểm g khoản 2 Điều 113, chỉ khác ở chỗ nạn nhân trong trường hợp này là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu nạn nhân dưới 13 tuổi thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách
Giết người thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm (điểm p khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự )
Là trường hợp trước khi giết người, người phạm tội đã bị kết về tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa xóa án tích hoặc đã tái phạm và chưa được xóa án tích (khoản 2 Điều 49). Ví dụ A đã bị kết án 10 năm tù về tội tham ô tài sản
cũng không coi là tái phạm nguy hiểm.
Ví dụ: A đã bị án về tội tham ô và trong bản án đó, Tòa án đã xác định A phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù về tội tham ô, chưa được xóa án tích, thì A lại phạm tội “ vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” thuộc trường hợp quy định tại